An ninh tài chính quốc gia là gì

Về Bộ Ngân khố Hoa kỳ

Nhiệm vụ

Duy trì nền kinh tế vững mạnh đồng thời tạo ra các cơ hội việc làm và kinh tế bằng cách thúc đẩy các điều kiện cho phép ổn định và tăng trưởng kinh tế ở trong và ngoài nước, tăng cường an ninh quốc gia bằng việc đấu tranh chống các mối đe dọa và bảo vệ sự toàn vẹn của hệ thống tài chính và quản lý có hiệu quả tài chính và tài nguyên của Chính phủ Hoa Kỳ..

Bộ Ngân khố Hoa kỳ là cơ quan hành pháp chịu trách nhiệm thúc đẩy sự thịnh vượng kinh tế và đảm bảo an ninh tài chính của Hoa Kỳ. Bộ chịu trách nhiệm cho một loạt các hoạt động như cố vấn cho Tổng thống về các vấn đề tài chính và kinh tế, khuyến khích tăng trưởng kinh tế bền vững, và bồi dưỡng việc quản trị cải tiến trong các tổ chức tài chính. Bộ Ngân khố Hoa kỳ điều động và duy trì các hệ thống có tính chất quyết định đối với cơ sở hạ tầng tài chính của quốc gia, như sản xuất tiền kim loại và tiền giấy, giải ngân thanh toán cho công chúng Mỹ, thu thuế, và vay các ngân khoản cần thiết để vận hành chính phủ liên bang. Bộ hợp tác với các cơ quan khác của liên bang, các chính phủ nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế để khuyến khích tăng trưởng kinh tế toàn cầu, nâng cao mức sống, và trong phạm vi có thể, dự đoán và ngăn ngừa các cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế. Bộ Ngân khố Hoa kỳ cũng đóng vai trò quan trọng và có ảnh hưởng sâu rộng trong việc tăng cường an ninh quốc gia bằng việc áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế chống lại các mối đe dọa của nước ngoài đối với Hoa Kỳ, nhận biết và xác định các hệ thống hỗ trợ tài chính của các mối đe dọa an ninh quốc gia, nâng cao các biện pháp an toàn cho các hệ thống tài chính của chúng ta..

Tổ chức

Bộ Ngân khố Hoa kỳ được tổ chức thành hai bộ phận chính: các văn phòng thuộc Bộ và các cục điều hành. Các Văn phòng thuộc Bộ chủ yếu chịu trách nhiệm thiết lập chính sách và quản lý Bộ nói chung, trong khi các cục điều hành thực hiện các hoạt động cụ thể được giao cho Bộ. Các cục điều hành chiếm 98% lực lượng lao động của Bộ Ngân khố. Các chức năng cơ bản của Bộ Ngân khố Hoa kỳ bao gồm:

  • Quản lý tài chính Liên bang;
  • Thu thuế, thuế quan và các khoản tiền đã trả và còn nợ của Hoa kỳ và thanh toán tất cả các hóa đơn của Hoa Kỳ;
  • Tiền tệ và tiền kim loại ;
  • Quản lý các tài khoản và nợ công của Chính phủ;
  • Giám sát các ngân hàng quốc gia và các tổ chức tiết kiệm;
  • Cố vấn về tài chính quốc tế và quốc nội, chính sách thuế, mậu dịch, kinh tế, tiền tệ;
  • Cưỡng chế thực thi luật pháp về thuế và tài chính Liên bang;

Điều tra và truy tố những người trốn thuế, kẻ làm giả, và giả mạo.

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ AN NINH TÀI CHÍNH TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI1.1 An ninh tài chính1.1.1Một số khái niệm về an ninh tài chínhTừ trước tới nay, khi nhắc tới an ninh, người ta thường nghĩ ngay đến an ninh chính trị, quân sự, xã hội và việc đảm bảo an ninh bằng các biện pháp vũ trang, thiết chế luật pháp cưỡng chế thi hành pháp luật, và vấn đề an ninh cũng gắn chặt với chủ quyền quốc gia. Gần đây, khái niệm an ninh đã được mở rộng sang các lĩnh vực kinh tế, tài chính và đặc biệt đã được nâng lên tầm quan trọng trong khu vực và trên thế giới sau khi chứng kiến một số sự mất ổn định về kinh tế của một quốc gia không chỉ đe doạ an ninh của quốc gia đó mà còn có thể trở thành ngòi nổ dẫn tới khủng hoảng toàn diện, đe doạ sự ổn định của khu vực và toàn cầu dưới tác động của toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.Vấn đề an ninh tài chính càng ngày càng trở nên quan trọng đối với một quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá và tự do hoá nền kinh tế đang diễn ra nhanh và mạnh như hiện nay.An ninh tài chính không phải là một khái niệm hoàn toàn mới nhưng vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống, đặc biệt là an ninh tài chính trong vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Thêm vào đó, vấn đề an ninh tài chính gắn bó chặt chẽ với những điều kiện cụ thể của từng nước, cho nên để đưa ra một định nghĩa chung chính xác là một vấn đề cần được nghiên cứu cụ thể.Dù các quan niệm về an ninh ở các nước khác nhau có những sự khác nhau nhất định song tất cả đều thống nhất ở một điểm, an ninh là chỉ một tình trạng hay trạng thái không bị nguy hiểm, và bảo đảm an ninh đồng nghĩa với việc không để rơi vào tình trạng nguy hiểm.Theo các học giả người Trung Quốc, an ninh quốc gia và khái niệm chính trị cơ bản nhất, trong đó an ninh kinh tế là hạt nhân của an ninh quốc gia. Người Nga lại cho rằng an ninh kinh tế là trạng thái mà trong đó một quốc gia có đủ sự tự chủ để hoạch định chính sách phát triển kinh tế của nước mình mà không bị sự can thiệp của bên ngoài.Trước đây, khi nói về an ninh kinh tế là chỉ an ninh về tài nguyên, bảo đảm việc cung cấp tài nguyên có hiệu quả. Ngày nay, an ninh kinh tế quốc gia chỉ đảm bảo an ninh cung cấp tài nguyên và an ninh thị trường sản phẩm là chưa đủ, quan trọng là phải tranh thủ giành ưu thế trong lĩnh vực kỹ thuật cao và kỹ thuật mới, nhanh chóng điều chỉnh cơ cấu ngành nghề theo hướng thúc đẩy phát triển các ngành kỹ thuật cao và mới, đẩy nhanh tốc độ sản phẩm hoá tri thức và bảo hộ quyền sở hữu tri thức.Gần đây một số nhà kinh tế Việt Nam cho rằng: “An ninh tài chính chính là sự đảm bảo cho hệ thống tài chính tiền tệ được ổn định lâu dài, có thể ngăn ngừa một cách hiệu quả những tác động tiêu cực, trong mối đe doạ từ trong nước cũng như từ nước ngoài trong quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.Dưới ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hoá và tự do hoá tài chính các nước phải đối mặt với rủi ro tài chính ngày càng lớn và khủng hoảng tài chính đã trở thành mối đe doạ chủ yếu đến an ninh kinh tế thế giới. Chính vì vậy, tăng cường an ninh tài chính, hoàn thiện và cải cách thể chế giám sát tài chính, thiết lập cơ chế ứng phó tiền tệ cần thiết, cơ chế ngăn chặn rủi ro linh hoạt, tăng cường phối hợp và hợp tác với cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực tài chính, đã trở thành nội dung chính của an ninh kinh tế. Từ đó ta có thể thấy được an ninh tài chính là một khái niệm cơ bản, là điều kiện thiết yếu để một nền tài chính tồn tại và phát triển, cũng như đảm bảo an ninh kinh tế và phát triển bền vững. Vậy an ninh tài chính là gì?An ninh tài chính là một khái niệm cơ bản để chỉ một tình trạng tài chính ổn định, an toàn, vững mạnh và không bị khủng hoảng.Ổn định được hiểu là duy trì được hoạt động bình thường, không có những biến động đột ngột, thất thường. Tuy nhiên, ổn định không có nghĩa là cố gắng giữ nguyên mọi thứ như cũ mà là giữ được ổn định trong tiến trình phát triển đi lên, không ngừng cải tiến và hoàn thiện. Theo giới tài chính quốc tế, ổn định tài chính là cực kỳ quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và không thể có ổn định tài chính nếu thiếu hệ thống tài chính mạnh.An toàn được hiểu là trạng thái không bị nguy hiểm từ phía các tác động bên trong và bên ngoài. Giữ an toàn đồng nghĩa với không tự mình gây hại cho mình đồng thời ngăn chặn và chồng lại được sự tấn công phá hoại từ bên ngoài. Nếu ổn định là tiền đề có tính chất nền tảng thì an toàn là cốt lõi chi phối toàn bộ quá trình vận động của tình trạng tài chính.Vững mạnh là cơ sở cho sự ổn định và an toàn, một trạng thái tài chính yếu không thể giữ được ổn định và an toàn, một trạng thái tài chính yếu không thể giữ được ổn định và đảm bảo an toàn.1.1.2 Quan điểm về an ninh tài chính trong hoạt động tín dụng, ngân hàng.Theo Ngân hàng thế giới (WB): “Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi chủ yếu ở dạng không kỳ hạn hoặc tiền gửi được phép rút ra với một thông báo ngắn hạn( tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và các khoản tiết kiệm)”Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.Các ngân hàng gồm nhiều loại như ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư,...Nhiều nước, trong đó có Việt Nam phát triển loại ngân hàng tổng hợp(universal bank) kết hợp hoạt động của ngân hàng thương mại với ngân hàng đầu tư, dịch vụ bảo hiểm, cho thuê tài chính...Như vậy, an ninh tài chính đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng là việc đảm báo hoạt động của các tổ chức tín dụng được tiến hành một cách ổn định, an toàn và vững mạnh. Ba nguyên tắc đó được sử dụng cho các hoạt động ngân hàng cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và thanh toán (một trong những hoạt động chủ yếu của cấp tín dụng) của các ngân hàng.Tình trạng tài chính của một ngân hàng hay hệ thống ngân hàng tại một thời điểm được mô tả trong bảng cân đối của ngân hàng và những thay đổi trong bảng cân đối qua mỗi thời điểm phản ánh diễn biến tình trạng tài chính của ngân hàng qua từng giai đoạn.Bên cạnh những hoạt động phản ánh trong bảng cân đối, nhằm mục tiêu tăng lợi nhuận trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các ngân hàng đẩy mạnh hoạt động ngoài bảng cân đối liên quan tới mua bán các công cụ tài chính và tạo ra thu nhập nhờ các khoản lệ phí và bán những khoản cho vay ,.. các hoạt động ngoài bảng cân đối làm tăng rủi ro của các ngân hàng và buộc ngân hàng phải tăng cường quản lý rủi ro của các hoạt động ngoài bảng cân đối.An ninh tài chính là vấn đề đặt lên hàng đầu cho sự tồn tại và phát triển các ngân hàng trong kinh tế thị trường. Nó bao trùm lên tất cả các mặt hoạt động và là chỉ tiêu cuối cùng đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng trong mối quan hệ với sự tăng trưởng của các ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự cần thiết đảm bảo an ninh tài chính của các ngân hàng không nằm ngoài những yếu tố kinh tế xuất phát từ bản thân hoạt động của ngân hàng và mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động ngân hàng với các hoạt động kinh tế-xã hội. Ngân hàng là một ngành nhạy cảm, do có quan hệ giao dịch với nhiều loại khách hàng ( doanh nghiệp, các nhân);nhiều tổ chức tín dụng, tài chính trung gian...Hoạt động của ngân hàng gắn liền với mọi hoạt động kinh tế-xã hội không chỉ ở trong nước mà còn trên phạm vi thế giới. Chính từ bản chất đó, hoạt động của ngân hàng luôn chứa đựng nhiều rủi ro”tiềm ẩn”, có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Có nhiều loại rủi ro xảy ra trong hoạt động ngân hàng như: rủi ro rín dụng, rủi ro lãi suất. rủi ro hối đoái, rủi ro thanh toán,...nhưng tiêu biểu nhất, trầm trọng nhất là rủi ro tín dụng.Do đặc thù của hoạt động ngân hàng, các ngân hàng không thể tự mình chống đỡ rủi ro. Nếu có sự thất thoát dù chỉ ở một ngân hàng và ở một mức độ nhất định nào đó cũng sẽ đe doạ đến tính an toàn và ổn định của cả hệ thống ngân hàng. Dù rủi ro xảy ra ở một ngân hàng hay rủi ro hệ thống đều gây nên sự xuất hiện bất ngờ, thất thoát tài sản, hiệu quả kinh doanh giảm sút nhanh chóng, đe dọa đến tình hình tài chính của ngân hàng.Tóm lại, an ninh tài chính trong ngân hàng là trạng thái các tài sản( tài sản nợ- nguồn vốn, tài sản có, tài sản ròng) ổn định, an toàn và vững mạnh. Bảo đảm an ninh tài chính đối với hoạt động của các NHTM nói chung và của một ngân hàng nói riêng là việc sử dụng các biện pháp giữ cho các tài sản của ngân hàng đó luôn luôn ổn định, an toàn, vững mạnh và không khủng hoảng. Thiết lập được mạng lưới an ninh có khả năng phòng ngừa, ứng phó kịp thời, nhanh nhạy, hiệu quả đối với các loại hình tội phạm kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng phát triển với hình thức ngày càng đa dạng, phức tạp, tính chất mức độ vi phạm ngày càng tinh vi.1.1.3 Sự cần thiết phải đảm bảo an ninh tài chính trong thời kỳ hội nhập.1.1.3.1 Tiến trình Việt Nam ra nhập kinh tế quốc tếHội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong giai đoạn hiện nay. Cùng với chính sách mở cửa, quá trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với kinh tế khu vực và thế giới là một tất yếu khách quan. Trên thực tế, nước ta đã và đang từng bước tham gia vào quá trình phân công, hợp tác quốc tế và quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới. Việt Nam hiện đã mở rộng mạnh mẽ quan hệ kinh tế song phương và đa phương, phát triển quan hệ đầu tư với gần 70 nước và lãnh thổ; bình thường hoá quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu Á(ADB). Bên cạnh đó, ngày 28/7/1995 nước ta đã gia nhập Hiệp hội Mậu dịch tự do các nước ASEAN (AFTA). Tháng 11/1998 , Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Diễn đàn kính tế Thái Bình Dương (APEC). APEC với 21 nước thành viên chiếm hơn ½ GNP của thế giới và khoảng 80% khối lượng mậu dịch với Việt Nam đang là mối quan tâm lớn trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta cũng như các nước khác trên thế giới. Ngày 10/7/2000 chúng ta đã ký Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ và hiệp định này đã có hiệu lực vào năm 2001.Việt Nam chính thức nộp đơn gia nhập WTO tháng 1/1995. Năm 1996, tại WTO, Nhóm Công tác (WP) về Việt Nam gia nhập WTO được thành lập với sự tham gia của trên 20 nước (hiện nay con số này là gần 40). Đến tháng 8/2001, ta chính thức đưa ra Bản chào ban đầu về hàng hóa và dịch vụ (Ininitial Offer) để bước vào giai đoạn đàm phán thực chất về mở cửa thị trường với các nước thành viên Ban Công tác. Sau gần 11 năm đàm phán, vào cuối năm 2006, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm dẫn đầu đoàn đại biểu Chính phủ ta tham dự “Lễ kết nạp Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO”. Tại Lễ gia nhập ngày 7/11/2006, Phó Thủ tướng và các thành viên WTO đã chứng kiến việc ký Nghị định thư gia nhập giữa Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển và Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy.Vào ngày 9/12/2006, quốc hội Mỹ đã thông qua “Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt Nam (PNTR)”, và vào ngày 20/12/2006 Tổng thống Mỹ G.Bush ký thông qua dự luật trao quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn cho Việt Nam. Dự luật này được thông qua đã đánh dấu việc bình thường hóa hoàn toàn quan hệ song phương giữa hai nước, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế-thương mại.Trên đây là những bước đi quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Quá trình hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới sẽ tạo ra cho chúng ta những thuận lợi, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức, khó khăn đối với việc phát triển kinh tế, trong đó có vấn đề đảm bảo an ninh tài chính trong các ngân hàng thương mại1.1.3.2 Sự cần thiết phải đảm bảo an ninh tài chính trong các ngân hàng thương mại Việt Nam. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam sẽ có tác động tới rất nhiều lĩnh vực, nhiều yếu tố, trong đó có các nhân tố ảnh hưởng đến an ninh tài chính trong các ngân hàng thương mại Việt Nam, đặc biệt là các nhân tố bên ngoài ngân hàng như trạng thái phát triển kinh tế, sự biến động của thị trường, chính sách pháp luật của nhà nước...Khi Việt Nam gia nhập WTO, và tới năm 2010 khi mà các ngân hàng thương mại nước ngoài có thể kinh doanh, phát triển tại Việt Nam thì thi trường của các ngân hàng thương mại trong nước sẽ bị sụt giảm một cách nghiêm trọng. Các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ phải đối mặt với mức độ cạnh tranh cao hơn trước. Các ngân hàng thương mại Việt Nam với vốn và kinh nghiệm non nớt sẽ phải đối mặt với những ngân hàng dày dặn kinh nghiệm, khoa học kỹ thuật hiện đại, tiềm lực tài chính to lớn và lợi thế cạnh tranh cao.Ngoài ra, các quy định của Chính phủ sẽ phải thay đổi cho phù hợp với các quy định, thông lệ quốc tế, hay các hiệp ước mà Việt Nam tham gia. Các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ khó lòng có được sự bảo trợ của nhà nước cũng như của NHTW như hiện nay...Những sự thay đổi của các nhân tố bên ngoài này sẽ có tác động với mức độ, tính chất và khía cạnh khác nhau tới an ninh tài chính trong ngân hàng thương mại. Đối với Việt Nam, sự biến động về tình hình an ninh tài chính trong ngân hàng thương mại sẽ tác động tới các khâu còn lại trong hệ thống tài chính quốc gia. Nghĩa là, tình hình tài chính của ngân hàng thương mại trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế-xã hội nói chung, tài chính quốc gia nói riêng và tới việc đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Xét trong phạm vi doanh nghiệp, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ có tác động đến an ninh tài chính của ngân hàng thương mại và toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng.Do vây, việc đảm bảo cho hoạt động tài chính của ngân hàng được an toàn, ổn định, hiệu quả trong quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là một tất yếu khách quanBOX 1.1: Nhận định của Phó thống đốc ngân hàng nhà nước về an ninh tài chính trong các ngân hàng thương mạiTheo Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước Trần Minh Tuấn, cùng với sức ép về cạnh tranh, gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đang đặt ra cho hệ thống ngân hàng Thương mại Việt Nam những thách thức về việc đảm bảo an ninh tài chính. Ông Tuấn cho rằng bảo đảm an ninh tài chính cần được coi là một trong những giải pháp hàng đầu để hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt động an toàn, ổn định, hiệu quả và bền vững trong điều kiện tiềm lực và kinh nghiệm còn thiếu và yếu hơn rất nhiều so với hệ thống ngân hàng ở các nước thành viên WTO khác.Ông Tuấn nhìn nhận hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đang hoạt động tương đối ổn định, có những đóng góp quan trọng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, sự phát triển ngày càng năng động của nền kinh tế nhiều thành phần trong bối cảnh hội nhập đã và đang đòi hỏi các ngân hàng này nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng đối phó với rủi roNguồn:. Thông tấn xã Việt Nam1.2 Nội dung của an ninh tài chính trong hoạt động của ngân hàng thương mạiNhiều nhà kinh tế quốc tế cho rằng mâu thuẫn lớn nhất của ngân hàng và hoạt động ngân hàng là mâu thuẫn giữa mục tiêu lợi nhuận cao và mục tiêu tính thanh khoản cao. Về bản chất an ninh tài chính ngân hàng chịu tác động và phải giải quyết được mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa tính thanh khoản và lợi nhuận, giữa rủi ro và lợi nhuận. bài toán đặt ra cho các ngân hàng là tối đa hoá lợi nhuận trong điều kiện giữ được tính thanh khoản và hạn chế rủi ro.Trong việc đánh giá an ninh tài chính có các chỉ tiêu định tính và định lượng và những chỉ tiêu đó phải thoả mãn các yêu cầu sau:-Tính hệ thống: Mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh nào đó trong hoạt động ngân hàng song đều phải liên kết với nhau, là cơ sở để đánh giá mức độ an ninh tài chính chung của từng ngân hàng hay hệ thống ngân hàng.-Tính toàn diện: Các chỉ tiêu phải bao quát được toàn bộ hoạt động cơ bản của ngân hàng. Sự thiếu chú ý đến một chỉ tiêu liên quan tới một hoạt động cơ bản nào đó có thể phải trả giá bằng sự phá sản của cả ngân hàng-Tính điển hình: Hoạt động ngân hàng là rất đa dạng, phức tạp và không ngừng phát triển nên các chỉ tiêu đánh giá rất nhiều và tăng liên tục. Chính vì vậy, các chỉ tiêu đánh giá an ninh tài chính phải được lựa chọn tiêu biểu, có tính chất then chốt, tránh tràn lan.-Tính khả thi: Các chỉ tiêu phải thực tế, dễ tính toán và theo dõi.-Tính quốc tế: Do sự phát triển của xu thế hội nhập và toàn cầu hoá nên các chỉ tiêu cũng cần được quốc tế hoá, tuân thủ các chuẩn mực chung đã được quốc tế thừa nhận. Đây cũng là cơ sở để các quốc gia phối hợp với nhau trong việc đảm bảo an ninh tài chính khu vực và toàn cầu-Tính đặc thù: Mỗi quốc gia, mỗi khu vực có những đặc thù kinh tế xã hội khác nhau nên an ninh tài chính cũng có những đặc điểm riêng. Chính vì vậy các chỉ tiêu đánh giá an ninh tài chính phải phản ánh được những đặc thù này. Tính đặc thù biểu hiện ở cả số lượng các chỉ tiêu cũng như tính chất của mỗi chỉ tiêu. Tuy nhiên thính đặc thù sẽ giảm dần cùng với việc nâng cao trình độ hội nhập kinh tế quốc tế.-Tính phát triển: Như đã khẳng định ở trên, hoạt động ngân hàng luôn luôn phát triển nên các chỉ tiêu cũng không cố định mà liên tục phát triển đáp ứng các yêu cầu mới về an ninh tài chính1.2.1 Ổn định hoạt động ngân hàngTiền gửi là bộ phận quan trọng nhất trong tài sản nợ của từng ngân hàng cũng như toàn bộ hệ thống trong ngân hàng. Trạng thái và động thái tiền gửi là một trong những biểu hiện rõ rệt nhất cho tình trạng huy động của mỗi ngân hàng nói riêng và mỗi quốc gia nói chung, Sự ổn định của tiền gửi được biểu hiện ở tốc độ tăng các khoản cho vay. Cho vay một mặt là hoạt động cơ bản tạo