Bài soạn ngữ văn 10 truyện kiều thề nguyền

Sách giải văn 10 bài thề nguyền [trích truyện kiều] [Cực Ngắn], giúp bạn soạn bài và học tốt ngữ văn 10, sách giải ngữ văn lớp 10 bài thề nguyền [trích truyện kiều] sẽ có tác động tích cực đến kết quả học tập văn lớp 10 của bạn, bạn sẽ có những lời giải hay, những bài giải sách giáo khoa ngữ văn lớp 10, giải bài tập sgk văn 10 đạt được điểm tốt:

Hướng dẫn soạn bài

Vị trí đoạn trích: Một hôm, cả nhà Kiều sang chơi bên ngoại, Kiều đã tìm gặp Kim Trọng. Chiều tà nàng trở về nhà, thấy cả nhà chưa về, Kiều quay lại gặp Kim Trọng lần thứ hai. Đoạn trích kể về việc 2 người làm lễ thề nguyền, gắn bó thủy chung suốt đời.

⇒ Đại ý: Cuộc gặp gỡ, thề nguyền giữa Kiều và Kim Trọng.

Đoạn trích từ câu 429 – 450 trong truyện Kiều.

Nội dung chính: Đoạn trích Thề nguyền thể hiện khá rõ quan niệm về tình yêu rất tiến bộ của Nguyễn Du. Đoạn trích đặc tả cái không khí khẩn trương, gấp gáp, vội vã nhưng vẫn trang nghiêm, thiêng liêng của đêm thề ước.

Câu 1 [trang 116 sgk Ngữ văn 10 Tập 2]:

Nhận xét về hàm nghĩa của các từ “vội”, “xăm xăm”, “băng”:

– Không khí của đêm thề ước diễn ra vội vàng, gấp gáp.

– Cuộc thề nguyền chưa được phép của cha mẹ.

– Nói lên nhịp điệu khẩn trương của cuộc thề nguyền.

– Nét mới trong cách nhìn nhận tình yêu của Nguyễn Du: sự chủ động của Kiều.

– Tình yêu mãnh liệt, rất tự nhiên của đôi lứa.

⇒ Một cách nhìn tình yêu tiến bộ có ý nghĩa vượt thời đại thi hào Nguyễn Du.

Câu 2 [trang 116 sgk Ngữ văn 10 Tập 2]:

+ Các hình ảnh: Ánh trăng, nhặt thưa, ngọn đèn hiu hắt, tiếng bước chân nhẹ nhàng của người đẹp ⇒ không gian đẹp, nhưng có cảm giác như hư ảo.

+ Mùi thơm hương trầm.

+ Ánh sáng nến sáp: Ấm áp.

+ Vầng trăng vằng vặc ⇒ thiên nhiên to lớn vĩnh hằng ⇒ tình yêu thiêng liêng được đất trời chứng giám.

+ Tờ giấy ghi lời thề.

+ Trao kỉ vật: Tóc mây.

⇒ Cuộc thề nguyền trong không gian: Thơ mộng, trang trọng, thiêng liêng.

Câu 3 [trang 116 sgk Ngữ văn 10 Tập 2]:

Đoạn trích này có một sự liên hệ khá chặt chẽ với đoạn trích “Trao duyên”. Qua miêu tả của Nguyễn Du, chúng ta có thể nhận thấy ngay từ trong màn thề ước này, tình yêu của hai người đã rất thiêng liêng. Sự gắn bó giữa họ không chỉ là do tình cảm tha thiết mà còn mang dấu ấn của tâm linh. Lời thề của họ trong đêm ấy đã được vầng trăng chứng giám, được ghi nhận bởi đấng tối cao.

Đoạn “Trao duyên” là sự tiếp tục một cách lôgíc quan niệm về tình yêu của Kiều. Nó cho thấy không chỉ khi tình yêu vuột mất và ngay cả khi đã phải sống cuộc đời hoen ố, Kiều vẫn một mực coi trọng mối tình đầu, coi trọng lời thề ước năm xưa như một báu vật cao quý, thiêng liêng. Ngược lại, đoạn trích này là một cơ sở chắc chắn góp phần hiểu đúng đoạn “Trao duyên”, cũng như hiểu đúng sự nhất quán và sâu sắc trong tình yêu mà Thúy Kiều dành cho Kim Trọng.

Soạn bài lớp 10: Thề nguyền được trích trong tác phẩm Truyện Kiều do Nguyễn Du sáng tác được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 10 chuẩn bị cho bài giảng của học kỳ mới sắp tới đây của mình.

  • Soạn bài lớp 10: Nỗi thương mình
  • Soạn bài lớp 10: Trao duyên
  • Bài giảng Bài Thề nguyền Ngữ văn 10
  • Giáo án bài Thề nguyền Ngữ văn 10
  • Soạn bài Thề nguyền [trích Truyện Kiều] siêu ngắn

THỀ NGUYỀN [Trích Truyện Kiều] NGUYỄN DU

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Xem mục Tìm hiểu về tác giả ở bài Đọc Tiểu Thanh kí và bài Nguyễn Du.

2. Xem mục Thể loại trong bài Truyện Kiều.

3. Với nghệ thuật sử dụng từ ngữ có sức gợi tả sâu sắc, hệ thống hình ảnh hàm súc, gợi cảm, đoạn trích Thề nguyền giúp ta hiểu về quan niệm tình yêu tự do hết sức tiến bộ của Nguyễn Du: Sức mạnh của tình yêu mãnh liệt đã vượt qua lễ giáo phong kiến.

II – RÈN LUYỆN KĨ NĂNG

1. Tìm hiểu xuất xứ đoạn trích

Gợi ý:

Đoạn trích nằm ở phần một của tác phẩm Truyện Kiều có tên "Gặp gỡ và đính ước". Sau khi đi du xuân, gặp Kim Trọng, Kiều và Kim "tình trong như đã mặt ngoài còn e". Tiếp đó, Kim Trọng dọn đến ở trọ gần nhà Thuý Kiều. Nhân một lần Kiều bỏ quên chiếc thoa, Kim Trọng bắt được, hai người trao kỉ vật và hứa hẹn chung thuỷ cùng nhau. Rồi một hôm, khi cả nhà Kiều đi mừng thọ bên ngoại, nàng đã chủ động sang nhà Kim Trọng. Hai người tự tình với nhau đến tối mới chia tay. Khi Kiều về nhà, thấy cha mẹ ch­a về, nàng lại sang nhà Kim Trọng lần thứ hai. Đoạn trích kể về buổi tối hai người gặp nhau tại nhà trọ của Kim Trọng, hai người hứa hẹn, thề nguyền chung thuỷ với nhau đến trọn đời.

2. Nhận xét về nghệ thuật sử dụng điển tích, điển cố và hình ảnh ẩn dụ: giấc hoè, Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần, đỉnh Giáp non thần,...; Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa, Tóc tơ, chữ đồng,...

Gợi ý: Ở đây, việc sử dụng điển tích, điển cố và những hình ảnh ẩn dụ, giàu tính ước lệ có tác dụng tạo ra sắc thái trang trọng, tránh cái suồng sã và tô thêm vẻ lãng mạn, nên thơ của mối tình Kim – Kiều.

3. Phân tích hiệu quả biểu đạt của các từ láy được sử dụng trong đoạn trích

Gợi ý: Các từ láy được sử dụng [xăm xăm, hắt hiu, thiu thiu, bâng khuâng, mơ màng, vội vàng, vằng vặc, song song,...] là những từ giàu giá trị tạo hình, biểu cảm.

Gợi ý:

Từ láy xăm xăm đi liền với động từ băng diễn tả bước chân nhanh nhẹn và lòng can đảm, sự hăm hở và mạnh mẽ của Thuý Kiều khi dám dỡ rào, vượt tường sang nhà Kim Trọng để tình tự. Đó là hành động biểu thị rõ rệt về khát vọng một tình yêu tự do chính đáng của thanh niên trong xã hội. Đã có lời bình giữa thế kỉ XX rằng: "Gót sen thoăn thoắt của nàng Kiều còn làm ngơ ngác bao thiếu nữ ngày nay".

4. Tác giả đã tô đậm tính chất thiêng liêng của cuộc thề nguyền giữa Kiều và Kim Trọng như thế nào?

Gợi ý: Tuy rằng đây là cuộc thề nguyền "vụng trộm" [Chưa được phép của cha mẹ] nhưng được Nguyễn Du miêu tả rất trang trọng.

  • Kiều có tình yêu sâu nặng, mãnh liệt với Kim Trọng, do đó bất chấp luật hà khắc của chế độ phong kiến, Kiều đã dám "xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" sang nhà Kim Trọng.
  • Kim Trọng là người có học thức, có tình yêu chân thành với Kiều, do đó, chàng đã tiếp đón Kiều rất trang trọng khiến cho cuộc gặp gỡ và thề nguyền có tính chất thiêng liêng:

Nghe Kiều tâm sự:

Nàng rằng: khoảng vắng đêm trường,

Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa,

Kim Trọng đã:

Vội vàng làm lễ rước vào, Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương

Rồi Kim Trọng cùng Thuý Kiều ghi lời thề nguyền ["Tiên thề cùng thảo một chương"], cùng làm các thủ tục của nghi thức thề nguyền ["Tóc mây một món dao vàng chia đôi"], cùng ghi lòng tạc dạ lời thề đồng tâm, đồng lòng đến trăm năm.

5. Phân tích lời nói của Kiều khi sang nhà Kim Trọng

Gợi ý:

Khi Kiều sang nhà Kim Trọng, chàng vừa mới tỉnh dậy, Kiều đã chủ động nói: "Khoảng vắng đêm trường, - Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa". Câu nói đó hàm chứa nhiều thông tin quan trọng:

Thứ nhất, nhà Kiều ngay gần nhà Kim Trọng trọ học, vậy mà nàng nói "Khoảng vắng đêm trường", đó là biểu hiện của không gian và thời gian tâm lí. Khi yêu nhau, gần nhau bao nhiêu vẫn là chưa đủ, do đó, mới xa Kim Trọng sau ngày Thanh minh mà Kiều đã có cảm giác lâu lắm không gặp; thêm nữa gần nhau về khoảng cách không gian nhưng không được gặp nhau thì cũng coi như là khoảng cách rất xa. Bởi thế, việc Kiều sang nhà Kim Trọng đêm nay là nỗ lực, cố gắng vượt bậc để vượt qua sự rợn ngợp của thời gian và không gian tâm lí mà vươn tới làm chủ tình yêu, làm chủ số phận của mình.

Thứ hai, Kiều nói: "Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa" ý nói vì tình yêu mãnh liệt mà Kiều phải chủ động dỡ rào ngăn tường sang nhà Kim Trọng lần thứ hai. Chữ "hoa" thông thường để chỉ người con gái, ở đây, Kiều dùng chữ "hoa" như một hàm ý tốt đẹp chỉ tình yêu sâu sắc mãnh liệt của mình dành cho Kim Trọng.

Tiếp đó Kiều nói:

Bây giờ rõ mặt đôi ta Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao

Câu nói này chứng tỏ Kiều là một phụ nữ rất nhạy cảm, biết quý giá và trân trọng từng giây, từng phút được ở bên người mà mình yêu dấu. Với người phụ nữ nhạy cảm thì tâm lí lo âu, sợ hãi, dự cảm về sự xa cách luôn luôn thường trực.

6. Nhận xét về hình tượng nhân vật Thuý Kiều trong đoạn trích

Qua đoạn trích, có thể khẳng định Kiều là một người con gái có tình cảm mạnh mẽ, sâu sắc, mãnh liệt trong tình yêu. Vì tình yêu, vì khát vọng hạnh phúc mà nàng đã bất chấp lễ giáo [lẽ ra nhất nhất phải theo ý cha mẹ], bất chấp quan niệm "trâu đi tìm cọc chứ cọc không thể đi tìm trâu" vốn tồn tại khá nặng nề trong tâm thức con người lúc đó.

Chủ Đề