Bản chất của ngôn ngữ là gì

BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA NGÔN NGỮ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây  (143.8 KB, 4 trang )

BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA NGÔN NGỮ
* Định nghĩa ngôn ngữ:
Ngôn ngữ được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Cụ thể là ở mỗi nơi, mỗi dân
tộc, mỗi chủng người...lại có những quan niệm khác nhau về ngôn ngữ. Còn theo ý kiến
chủ quan của bản thân tôi thì ngôn ngữ - đó là một hệ thống những đơn vị vật chất và
những quy tắc hoạt động của chúng ta, dùng làm công cụ giao tiếp của con người, đựoc
phản ánh trong ý thức cộng đồng và trừu tượng hoá khỏi bất kìa một tư tưởng, cảm xúc và
ước muốn cụ thể nào.
Như vậy ngôn ngữ không chỉ tồn tại cho riêng ai mà tồn tại cho tất cả chúng ta. Nó
được nhận thức và tương ứng với ý thức của riêng từng người và tự bản thân ngôn ngữ đã
mang tính xã hội.
I. BẢN CHẤT CỦA NGÔN NGỮ:


Trong tất cả các phương tiện mà con người sử dụng để giao tiếp thì ngôn ngữ là
phương tiện duy nhất thoả mãn được tất cả các nhu cầu của con người. Sở dĩ
ngôn ngữ trở thành một công cụ giao tiếp vạn năng của con người vì nó hành trình
cùng con người, từ lúc con người xuất hiện cho đến tận ngày nay. Phương tiện giao
tiếp ấy được bổ sung và hoàn thiện dần theo lịch sử tiến hoá của nhân loại, theo
những trào lưu và xu hướng tiếp xúc văn hoá có từ cổ xưa đến tận ngày nay. Ngày
nay, hầu như không còn ngôn ngữ nào là chưa có ảnh hưởng của nền văn hoá ngoại
lai. Nói cách khác, tất cả các ngôn ngữ đang tồn tại hiện nay đều đã từng trải qua
những quá trình tiếp xúc văn hoá với ngôn ngữ khác bên ngoài. Chính vì vậy,
chúng ta không thể nói về độ thuần khiết (pure), độ trong sáng của một ngôn ngữ
xét theo nguồn gốc, xét theo nguyên lai.
Thông thường, khi nói về các chức năng của ngôn ngữ, các nhà ngôn ngữ thường bàn về

2 chức năng quan trọng:
- Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng
- Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp vạn năng trong xã hội.
1. Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng
Chức năng thứ nhất này là chức năng về mặt kí hiệu hoá các tư tưởng hệt như mối quan
hệ giữa cái biểu hiện  cái được biểu hiện trong lí thuyết của tín hiệu học hiện đại. Trong
mối quan hệ này, tư tưởng và tư duy là cái được biểu hiện còn ngôn ngữ là cái biểu hiện.
Chính nhờ có ngôn ngữ mà thực tại được phân cắt ra thành các khái niệm (mà cái biểu
hiện của nó là các từ, ngữ). Nếu không có ngôn ngữ thì con người không có một phương
tiện này để phân cắt thực tại ra các khái niệm. Chính các từ, ngữ định danh của một ngôn
ngữ đã cố định hoá các ý tưởng về thực tại của con người vào các khái niệm cụ thể.
Vd: Khái niệm "cái bàn" và từ bàn

Trong tiến trình phát triển nhận thức của loài người, đầu tiên, các từ có nội dung nghèo
nàn và mờ nhạt. Nhưng do ảnh hưởng của tiến trình văn hoá nhân loại mà các từ dần dần
được cấp thêm những nét nghĩa tinh tế hơn cho phù hợp với tư duy của con người về sự vật
mà từ phản ánh. Trong tiến trình này, từ chỉ còn là một cái vỏ  nơi để đổ đầy tư duy của
chúng ta về một sự vật cụ thể.
Mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ thường được các nhà logic học hình dung theo 3
cấp độ sau đây:
CĐB
H
Tư duy
(HT ý
niệm)

CBH
Ngôn ngữ
(HT tín hiệu)
Khái
niệm
Từ ngữ định danh
(từ)
Phán
đoán
Ngữ, câu/ phát
ngôn (câu)
Suy lí

Tập phát ngôn,
đoạn (văn bản)
2. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp vạn năng
Để đáp ứng được các nhu cầu giao tiếp của xã hội, loài người đã tạo ra và thiết lập rất
nhiều các hệ thống tín hiệu khác nhau bên cạnh hệ thống tín hiệu ngôn ngữ. Có những hệ
thống tín hiệu có thể vượt qua các biên giới quốc gia, các ranh giới của thể chế chính trị để
phục vụ loài người (Ví dụ: hệ thống kí hiệu hoá học, toán học)... Nhưng người dùng chúng
lại rất chọn lọc (Ví dụ: ít nhất phải có trình độ học vấn nhất định, hoặc phải là những nhà
chuyên môn có trình độ cao). Tính chọn lọc cao như vậy là xa lạ với ngôn ngữ từng tộc
người (ngôn ngữ tự nhiên không phân biệt giới tính, tuổi tác, địa vị xã hội, trình độ học
vấn... mà phục vụ cộng đồng một cách vô tư).
Như vậy, khái niệm vạn năng của ngôn ngữ phải được hiểu là một phương tiện không

kén người dùng. Vạn năng có nghĩa là sự phổ biến và phổ thông (phổ cập). Đó là nghĩa về
số lượng.
Nghĩa thứ hai của vạn năng là nghĩa về chất lượng của phương tiện giao tiếp: Ngôn ngữ
có thể chuyển tải được tất cả các nội dung thông tin khác nhau mà người nói có nhu cầu (từ
việc bộc lộ cảm xúc, thái độ của người nói đến những nhu cầu tinh tế về tình cảm; đến
những nhu cầu về khuyến lệnh (request) của người nói với người nghe; đến những nhu cầu
về trao đổi các kinh nghiệm chinh phục thiên nhiên hoặc truyền bá tri thức)... Trong khi đó,
những phương tiện khác chỉ đáp ứng được một phần nào đó rất nhỏ những nhu cầu về bộc
lộ và giao tiếp của con người.
Tóm lại, ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp vạn năng, bởi vì:
- Về mặt số lượng: Nó phục vụ đông đảo các thành viên trong cộng đồng;
- Về mặt chất lượng: Nó giúp cho các thành viên trong cộng đồng có thể bộc lộ hết các

nhu cầu giao tiếp.
3. Các quan điểm về các kiểu chức năng của ngôn ngữ
Ngôn ngữ học đại cương tách chức năng giao tiếp vạn năng của ngôn ngữ ra thành nhiều
kiểu chức năng nhằm mô tả triệt để hơn cấu trúc của ngôn ngữ trong đời sống cộng đồng.
Tuỳ thuộc sự phát triển của nhận thức ngôn ngữ học mà người ta có những cách phân chia
và gọi tên các chức năng xã hội của ngôn ngữ một cách khác nhau. Có thể chia các quan
niệm về mặt chức năng ngôn ngữ thành 3 thời kì lớn sau đây:
- Thời kì của cấu trúc luận;§
- Thời kì của hậu cấu trúc luận;§
- Thời kì của chủ nghĩa chức năng và ngôn ngữ học xã hội§
II. CHỨC NĂNG CỦA NGÔN NGỮ:
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất và là phương tiện của tư duy.

1. NGÔN NGỮ LÀ PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP VẠN NĂNG
Ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp vạn năng, bởi vì:
- Về mặt số lượng: Nó phục vụ cho cả loài người
- Về mặt chất lượng: Nó giúp cá nhân con người bộc lộ hết các nhu cầu giao tiếp.
Để đáp ứng được các nhu cầu giao tiếp của xã hội, loài người đã tạo ra và thiết lập rất nhiều
các hệ thống tín hiệu khác nhau bên cạnh hệ thống tín hiệu ngôn ngữ. Có những hệ thống tín hiệu
có thể vượt qua các biên giới quốc gia, các ranh giới của thể chế chính trị để phục vụ loài người
(Ví dụ: hệ thống kí hiệu hoá học, toán học)... Nhưng người dùng chúng lại rất chọn lọc (Ví dụ: ít
nhất phải có trình độ học vấn nhất định, hoặc phải là những nhà chuyên môn có trình độ cao). Tính
chọn lọc cao như vậy là xa lạ với ngôn ngữ từng tộc người (ngôn ngữ tự nhiên không phân biệt
giới tính, tuổi tác, địa vị xã hội, trình độ học vấn... mà phục vụ cộng đồng một cách vô tư).
Như vậy, khái niệm vạn năng của ngôn ngữ phải được hiểu là một phương tiện không kén

người dùng. Vạn năng có nghĩa là sự phổ biến và phổ thông (phổ cập). Đó là nghĩa về số lượng.
Nghĩa thứ hai của vạn năng là nghĩa về chất lượng của phương tiện giao tiếp: Ngôn ngữ có thể
chuyển tải được tất cả các nội dung thông tin khác nhau mà người nói có nhu cầu (từ việc bộc lộ
cảm xúc, thái độ của người nói đến những nhu cầu tinh tế về tình cảm; đến những nhu cầu về
khuyến lệnh (request) của người nói với người nghe; đến những nhu cầu về trao đổi các kinh
nghiệm chinh phục thiên nhiên hoặc truyền bá tri thức)... Trong khi đó, những phương tiện khác chỉ
đáp ứng được một phần nào đó rất nhỏ những nhu cầu về bộc lộ và giao tiếp của con người.
2. NGÔN NGỮ LÀ PHƯƠNG TIỆN TƯ DUY
Thể hiện ở 2 khía cạnh:
-1.NN là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Ko có từ nào biểu hiện khái niệm, tư tưởng và ngược
lại.
-2.NN trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành tư tưởng: Mọi ý nghĩ, tư tưởng trở nên rõ ràng

khi được biểu hiện = ngôn ngữ.
=> NN và tư duy thống nhất với nhau, có NN thì có tư duy và ngược lại.
Mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ thường được các nhà logic học hình dung theo 3 cấp độ
sau đây:
Cái Được Biểu Hiện
Tư duy
(HT ý niệm)
Cái Biểu Hiện
Ngôn ngữ
(HT tín hiệu)
1 Khái niệm Từ ngữ định danh (từ)
2 Phán đoán Ngữ, câu/ phát ngôn (câu)

3 Suy lí Tập phát ngôn, đoạn (văn bản)
Họ và tên: Lê Thị Nhung
Lớp K55 - Ngôn ngữ học