Cách tính chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam

Đối với các định nghĩa khác, xem CPI.

Chỉ số giá tiêu dùng [hay được viết tắt là CPI, từ các chữ tiếng Anh Consumer Price Index] là chỉ số tính theo phần trăm để phản ánh mức thay đổi tương đối của giá hàng tiêu dùng theo thời gian. Sở dĩ chỉ là thay đổi tương đối vì chỉ số này chỉ dựa vào một giỏ hàng hóa đại diện cho toàn bộ hàng tiêu dùng.

Đây là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để đo lường mức giá và sự thay đổi của mức giá chính là lạm phát [một chỉ tiêu khác để phản ánh mức giá chung là Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm trong nước hay Chỉ số điều chỉnh GDP].

Mục lục

  • 1 Phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng
  • 2 Các vấn đề gặp phải khi tính toán chỉ số giá tiêu dùng
  • 3 Tính toán chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam
  • 4 Xem thêm
  • 5 Tham khảo
  • 6 Liên kết ngoài

Phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùngSửa đổi

Để tính toán chỉ số giá tiêu dùng người ta tính số bình quân gia quyền theo công thức Laspeyres của giá cả của kỳ báo cáo [kỳ t] so với kỳ cơ sở. Để làm được điều đó phải tiến hành như sau:

1. Cố định giỏ hàng hóa: thông qua điều tra, người ta sẽ xác định lượng hàng hoá, dịch vụ tiêu biểu mà một người tiêu dùng điển hình mua. 2. Xác định giá cả: thống kê giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ hàng hoá tại mỗi thời điểm. 3. Tính chi phí [bằng tiền] để mua giỏ hàng hoá bằng cách dùng số lượng nhân với giá cả của từng loại hàng hoá rồi cộng lại. 4. Lựa chọn thời kỳ gốc để làm cơ sở so sánh rồi tính chỉ số giá tiêu dùng bằng công thức sau:
CPIt = 100 x Chi phí để mua giỏ hàng hoá thời kỳ t
Chi phí để mua giỏ hàng hoá kỳ cơ sở

Thời kỳ gốc sẽ được thay đổi trong vòng 5 đến 7 năm tùy ở từng nước.

  • CPI được dùng để tính chỉ số lạm phát theo thời kỳ. Chẳng hạn, tính chỉ số lạm phát CPI năm 2011 so với năm 2010 theo công thức sau:
Chỉ số lạm phát 2011 = 100 x CPI năm 2011 - CPI năm 2010
CPI năm 2010

Trên thực tế người ta có thể xác định quyền số trong tính toán chỉ số giá tiêu dùng bằng cách điều tra để tính toán tỷ trọng chi tiêu của từng nhóm hàng hoá, dịch vụ so với tổng giá trị chi tiêu. Sau đó quyền số này được dùng để tính chỉ số giá tiêu dùng cho các thời kỳ sau. CPI thường được tính hàng tháng và hàng năm. CPI còn được tính toán cho từng nhóm hàng hóa hoặc một số nhóm hàng hóa tùy theo mục đích sử dụng. Ngoài CPI người ta cũng tính toán chỉ số giá bán buôn là mức giá của giỏ hàng hóa do các doanh nghiệp mua vào, khác với CPI là giá do người tiêu dùng mua vào [giá bán lẻ]. Lưu ý chỉ số giá tiêu dùng năm gốc luôn bằng 1

Các vấn đề gặp phải khi tính toán chỉ số giá tiêu dùngSửa đổi

Do sử dụng giỏ hàng hoá cố định nên khi tính toán CPI có ba vấn đề chính dẫn đến hạn chế của CPI sau đây

1. CPI không phản ánh được độ lệch thay thế vì nó sử dụng giỏ hàng hoá cố định. Khi giá cả một mặt hàng này tăng nhanh hơn so với các mặt hàng khác thì người tiêu dùng sẽ có xu hướng ít tiêu dùng những mặt hàng đã trở nên quá đắt đỏ mà tiêu dùng nhiều những hàng hoá đỡ đắt đỏ hơn. Yếu tố này làm CPI đã đánh giá cao hơn thực tế mức giá.

2. CPI không phản ánh được sự xuất hiện của những hàng hoá mới vì nó sử dụng giỏ hàng hoá cố định trong khi nếu có hàng hoá mới xuất hiện thì một đơn vị tiền tệ có thể mua được các sản phẩm đa dạng hơn. CPI không phản ánh được sự gia tăng sức mua này của đồng tiền nên vì thế lại đánh giá mức giá cao hơn thực tế.

3. Không phản ánh được sự thay đổi của chất lượng hàng hoá vì nếu mức giá của một hàng hoá cụ thể nào đó tăng nhưng chất lượng cũng tăng tương ứng thậm chí tăng hơn thì trên thực tế mức giá không tăng. Chất lượng hàng hoá dịch vụ nhìn chung đều có xu hướng được nâng cao nên CPI cũng đã phóng đại mức giá.

Tính toán chỉ số giá tiêu dùng ở Việt NamSửa đổi

Việc tính toán CPI ở Việt Nam do Tổng cục Thống kê đảm nhiệm. Quyền số để tính CPI được xác định năm 2000 và bắt đầu áp dụng từ tháng 7 năm 2001. Quyền số này dựa trên kết quả của hai cuộc điều tra là Điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1997-1998 và Điều tra kinh tế hộ gia đình năm 1999. Điều đáng chú ý là quyền số của nhóm hàng Lương thực - Thực phẩm chiếm tới 47,9% trong khi Văn hoá - Thể thao - Giải trí chỉ chiếm 3,8%.

Xem thêmSửa đổi

  • Chỉ số giá sản xuất
  • Lạm phát

Tham khảoSửa đổi

  • Kinh tế vĩ mô - Chương trình sau đại học và phát triển kinh tế địa phương, Trường Đại học kinh tế quốc dân năm 2005.
  • Kinh tế vĩ mô của Gregory Mankiw, Nhà xuất bản Thống kê và Đại học kinh tế quốc dân năm 1994

Liên kết ngoàiSửa đổi

Chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam [góc dưới bên trái]

Theo phương pháp luận của thống kê quốc tế, Tổng cục Thống kê triển khai xác định:

[1] Danh mục hàng hóa đại diện gồm các loại hàng hóa là sản phẩm vật chất và dịch vụ tiêu dùng phổ biến cho sinh hoạt hàng ngày của người dân trong một giai đoạn nhất định.

Danh mục này được sử dụng để thu thập thông tin phản ánh biến động về giá của các hàng hóa đại diện cho tiêu dùng cuối cùng của dân cư. Thời kỳ 2020-2025 danh mục CPI bao gồm 752 mặt hàng.

[2] Quyền số tính CPI của các nhóm hàng hóa trong Danh mục hàng hóa đại diện là tỷ trọng chi tiêu của các nhóm hàng hóa [vật chất và dịch vụ] trong tổng chi tiêu của dân cư.

Tỷ trọng chi tiêu của các nhóm hàng hoá trong tổng chi tiêu của dân cư thường thay đổi theo thời gian. Hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng nhiều hơn sẽ chiếm tỷ trọng cao trong danh mục hàng hóa tính CPI.

Như vậy, chỉ tiêu CPI không chỉ phụ thuộc vào mức độ biến động về giá của các loại hàng hóa đại diện mà còn phụ thuộc vào Danh mục hàng hóa đại diện và Quyền số của các nhóm hàng hóa đại diện.

Hằng tháng, 63 địa phương tổ chức thu thập giá các mặt hàng thuộc Danh mục hàng hóa và dịch vụ đại diện theo 3 kỳ. Toàn quốc có khoảng 40.000 điểm điều tra giá với địa điểm kinh doanh ổn định, thuộc các loại hình kinh tế.

Hiện nay, Tổng cục Thống kê đã triển khai điều tra giá tiêu dùng bằng thiết bị điện tử CAPI tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, giúp nâng cao chất lượng số liệu điều tra, minh bạch quá trình điều tra, rút ngắn thời gian sản xuất số liệu và tiến tới hội nhập với thống kê thế giới.

6 tháng CPI tăng 2,44%, Việt Nam kiểm soát tốt lạm phát

Bình quân 6 tháng đầu năm 2022, CPI tăng 2,44% so với cùng kỳ năm trước [cao hơn mức tăng 1,47% của năm 2021], đây là thành công trong kiểm soát lạm phát của Việt Nam trước bối cảnh thế giới đang phải đối mặt với tình trạng lạm phát gia tăng ở hầu khắp các quốc gia.

Cụ thể là lạm phát tại nhiều nước đã đạt mức kỷ lục trong tháng 5/2022, lạm phát của Mỹ tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước, cao nhất kể từ năm 1981, lạm phát của khu vực đồng Euro tăng 8,1%, gấp 4 lần lạm phát mục tiêu 2% của Ngân hàng Trung ương châu Âu.

Tại Châu Á, bình quân 5 tháng đầu năm nay, lạm phát của Thái Lan tăng 5,2%; Hàn Quốc tăng 4,3%; Indonesia tăng 2,8%; Malaysia tăng 2,4% tương đương với Việt Nam; Nhật Bản và Trung Quốc cùng tăng 1,5%.

Vì sao lạm phát của Việt Nam không tăng cao như nhiều nước

Lạm phát của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm nay không tăng cao như một số quốc gia khác trên thế giới chủ yếu do các nguyên nhân sau:

Danh mục hàng hóa và dịch vụ đại diện tính CPI của các quốc gia khác nhau do phụ thuộc vào tập quán tiêu dùng, đồng thời cơ cấu chi tiêu dùng của hộ gia đình cũng không đồng nhất.

Mỹ và châu Âu chi tiêu dùng cho các nhóm nhà ở, điện, nước, khí đốt, giao thông, văn hóa, giải trí chiếm tỷ trọng lớn trong khi Việt Nam chủ yếu chi tiêu dùng cho lương thực, thực phẩm [chiếm tỷ trọng 27,68%].

Về cơ bản, các nguyên nhân khiến lạm phát của Việt Nam thấp hơn các nước phương Tây cũng tương tự như các chuyên gia đã lý giải vì sao nhiều nền kinh tế châu Á vẫn nằm ngoài bão lạm phát.

Theo đó, các nhà hoạch định chính sách chỉ ra rằng giá cả tăng là hiện tượng toàn cầu. Chi phí nhiên liệu, phân bón, ngũ cốc và nhiều mặt hàng khác đang tăng ở khắp nơi sau khi khủng hoảng Ukraina nổ ra. Tuy nhiên không phải ở đâu lạm phát cũng giống nhau.

Các nền kinh tế Đông Nam Á có lạm phát thấp hơn 4% chủ yếu do: Thứ nhất là giá thịt lợn giảm so với cùng kỳ năm trước sau khi dịch tả lợn Châu Phi được kiểm soát.

Thứ hai là nhiều nơi ở Châu Á chuyển sang sống chung với dịch chậm và miễn cưỡng hơn so với phương Tây. Nhiều nước việc đi lại và di chuyển chỉ thực sự trở lại bình thường từ tháng 4 và tháng 5 năm 2022.

Thứ ba là người dân Đông Á không giống như các khu vực khác trên thế giới, họ ăn nhiều gạo hơn lúa mỳ trong khi đó giá gạo tăng thấp hơn giá lúa mỳ. Bên cạnh đó, một số quốc gia ở châu Á ban hành các chính sách cấm xuất khẩu một số mặt hàng để đảm bảo nguồn cung ổn định giá trong nước.

Việt Nam là quốc gia có nguồn cung ứng các mặt hàng lương thực, thực phẩm dồi đào, bên cạnh việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân còn xuất khẩu ra thế giới nên giá cả khá ổn định.

Giá các mặt hàng thực phẩm 6 tháng đầu năm giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước, làm CPI giảm 0,08 điểm phần trăm, trong đó giá thịt lợn giảm 20,12%; giá nội tạng động vật giảm 9,52%; giá thịt chế biến giảm 3,89%.

Giá thịt lợn giảm sâu chủ yếu do Việt Nam đã kiểm soát được dịch tả lợn châu Phi nên chủ động trong phòng ngừa dịch khiến nguồn cung đảm bảo, trong khi giá thức ăn chăn nuôi đang tăng cao làm cho các hộ chăn nuôi phải bán sớm cắt lỗ.

Bên cạnh đó, giá dịch vụ giáo dục giảm 3,56% do một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương miễn giảm học phí từ học kỳ I năm học 2021-2022 do ảnh hưởng của dịch COVID-19, làm CPI chung giảm 0,19 điểm phần trăm.

Đặc biệt, để chủ động ứng phó với những thách thức trước áp lực lạm phát gia tăng, trong thời gian qua Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ các giải pháp bình ổn giá, hạn chế những tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội.

Các chính sách, giải pháp tài chính tiền tệ được ban hành kịp thời đã giảm áp lực đáng kể lên mặt bằng giá như: Ổn định lãi suất cho vay ở mức thấp, giảm thuế giá trị gia tăng với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ từ 10% xuống còn 8% từ ngày 01/02/2022; giảm 50% mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay từ ngày 01/01 đến hết 31/12/2022; giảm mức thu 37 khoản phí, lệ phí trong 6 tháng đầu năm 2022.

Đồng thời, công tác điều hành giá xăng dầu theo sát diễn biến giá thế giới, nguồn cung xăng dầu được chỉ đạo khắc phục kịp thời. Các địa phương tăng cường quản lý giá trên địa bàn, nhiều doanh nghiệp tích cực tham gia chương trình bình ổn giá.

Nhờ vậy mà chúng ta đã kiểm soát được lạm phát 6 tháng đầu năm ở mức 2,44%.

Áp lực lạm phát những tháng cuối năm 2022 rất lớn

Tổng cục Thống kê nhận định áp lực lạm phát từ nay đến cuối năm là rất lớn. Một số yếu tố có thể khiến CPI tăng cao trong các tháng cuối năm như sau:

Giá nguyên nhiên vật liệu trên thế giới đang ở mức cao mà Việt Nam là nước phải nhập khẩu khá nhiều nguyên liệu phục vụ sản xuất nên việc nhập khẩu nguyên liệu với mức giá cao sẽ ảnh hưởng đến chi phí, giá thành, tạo áp lực cho sản xuất của doanh nghiệp và từ đó đẩy giá hàng hóa tiêu dùng trong nước tăng lên, tạo áp lực cho lạm phát toàn nền kinh tế.

Đặc biệt là giá xăng dầu có nhiều biến động sẽ tác động đến mặt bằng giá nhiều hàng hóa quan trọng như xăng, vật tư nông nghiệp, vật liệu xây dựng, vận tải.

Hiện nay giá xăng dầu thành phẩm trên thị trường Singapore chiếm khoảng 70% giá cơ sở đối với xăng và khoảng 80% giá cơ sở đối với dầu cho nên việc giá thế giới tăng cao có tác động rất mạnh tới giá trong nước. Theo tính toán của Tổng cục Thống kê thì giá xăng dầu cứ tăng 10% sẽ tác động làm CPI tăng 0,36 điểm phần trăm.

Bên cạnh đó, giá lương thực, thực phẩm có khả năng tăng trong các tháng cuối năm, nhất là khi dịch đã được kiểm soát và nhu cầu tiêu dùng của người dân đang trở lại như thời gian trước khi đại dịch diễn ra.

Việt Nam có lợi thế là chủ động được về nguồn lương thực, thực phẩm ở trong nước, tuy nhiên sẽ khó tránh khỏi ảnh hưởng khi thế giới đang có nguy cơ phải đối mặt với khủng hoảng lương thực toàn cầu.

Mà nhóm hàng lương thực, thực phẩm có quyền số khá cao, gần 28% trong rổ hàng hóa tính CPI, do đó biến động giá của nhóm hàng này sẽ có tác động mạnh tới lạm phát của nền kinh tế.

Đặc biệt, trong đó nhóm hàng thịt lợn đang có xu hướng tăng giá trở lại, chỉ số giá nhóm thịt lợn tháng 6/2022 tăng 0,87% so với tháng trước và kéo theo giá các hàng hóa chế biến từ thịt lợn cũng tăng theo.

Kinh tế trong nước đang trong giai đoạn phục hồi rõ nét và cùng với các gói hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có khả năng sẽ còn phục hồi mạnh mẽ hơn trong 6 tháng cuối năm, khi đó cầu tiêu dùng hàng hóa trong dân sẽ tăng mạnh, các hoạt động dịch vụ cũng sẽ tăng cao như các hoạt động du lịch, vui chơi, giải trí, ăn uống ngoài gia đình, từ đó đẩy giá cả hàng hóa và dịch vụ lên cao và tạo áp lực lên lạm phát.

Chính vì vậy, Tổng cục Thống kê đánh giá việc đạt được 4% theo mục tiêu lạm phát mà Quốc hội đề ra trong năm nay là một thách thức rất lớn./.

Video liên quan

Chủ Đề