Cách tính lịch của người Hy Lạp Rôma thời cổ đại

Người Hi Lạp và Rô-ma đã có những thành tựu văn hóa gì?

Chi tiết Chuyên mục: Bài 6: Văn hóa cổ đại

- Sáng tạo ra lịch (Dương lịch) :tính được 1 năm có 365 ngày, chia thành 12 tháng.

- Sáng tạo ra hệ chữ cái a, b, c.

- Đạt được nhiều thành tựu trong các lĩnh vực như toán học, thiên văn, vật lí, triết học, lịch sử, địa lí...với các nhà khoa học nổi tiếng như Ta-let, Pi-ta-go, Ơ-cơ-lít....

- Các công trình kiế trúc và điêu khắc như đền Pác-tê-nông ở A-ten, tượng thần Vệ nữ ở Mi-lô...

(Nguồn: Bài 2:)

Lịch sử lớp 10


Câu 76122 Nhận biết

Người Rôma đã tính được một năm có bao nhiêu ngày và bao nhiêu tháng


Đáp án đúng: c

Phương pháp giải

Các quốc gia cổ đại phương Tây – Hi Lạp và Rôma --- Xem chi tiết
...

Mục lục

  • 1 Lịch Romulus
  • 2 Lịch Numa
  • 3 Lịch Cộng hoà La Mã
  • 4 Tham khảo

Lịch RomulusSửa đổi

Lịch La Mã được Romulus (người sáng lập thành Roma, khoảng 753 TCN) tạo ra dựa trên hệ thống âm lịch do người Hy Lạp sử dụng.

Lịch này bao gồm 10 tháng, bắt đầu từ ngày chứa điểm xuân phân (vernal equinox - khoảng ngày 21 tháng 3 dương lịch hiện nay), tức thời điểm mà độ dài ngày và đêm bằng nhau bắt đầu mùa xuân (phân biệt với điểm thu phân, autumnal equinox, cũng có ngày và đêm dài bằng nhau nhưng bắt đầu cho mùa thu). Tổng cộng 10 tháng này bao gồm 304 (hay 305) ngày, số ngày còn lại được bổ sung vào các tháng cuối của năm. Theo đó:

  1. Tháng đầu tiên tên Martius, tôn vinh vị thần Chiến tranh Mars của người La Mã. Tháng này có 31 ngày.
  2. Aprilis, tôn vinh nữ thần Hy Lạp Aphrodite (tức thần Vệ nữ, hay Venus trong thần thoại La Mã), tượng trưng cho sự sinh sôi, tình yêu, niềm hoan lạc và sắc đẹp. Tháng này có 30 ngày.
  3. Maius, có 2 giả thiết: 1. tôn vinh các vị nguyên lão La Mã (maiores); hoặc 2. tôn vinh nữ thần Maia trong thần thoại Hy Lạp, nữ thần lớn nhất, đẹp nhất, cũng là nữ thần Đất đai, lấy thần Zeus và sinh ra Hermes, rồi nuôi Arcas, con trai riêng của Zeus, để che mắt bà vợ Hera hay ghen tuông của ông ta. Tháng này có 31 ngày.
  4. Iunius, tôn vinh nữ thần La Mã Juno (tức Hera trong thần thoại Hy Lạp, nữ chúa của các vị thần, vợ của chúa tể các thần - Zeus trong thần thoại Hy Lạp). Tháng này có 30 ngày.
  5. Quintilis, trong tiếng Latinh có nghĩa là "thứ năm". Có 31 ngày.
  6. Sextilis, "thứ sáu" trong tiếng Latinh, có 30 ngày.
  7. September, từ gốc Latinh là septem có nghĩa là "thứ bảy". Có 30 ngày.
  8. October: từ gốc Latinh là octo có nghĩa là "thứ tám". Có 31 ngày.
  9. November: từ gốc Latinh là novem có nghĩa là "thứ chín". Có 30 ngày.
  10. December: từ gốc Latinh là decem có nghĩa là "thứ mười". Có 30 ngày.

Còn lại khoảng 51 ngày, được thêm vào không theo quy luật đều đặn, bằng cách đếm ngược số ngày còn lại trước khi đến ngày bắt đầu năm mới tiếp theo. Để tôn vinh thần chiến tranh Mars, người La Mã dùng 10 ngày (sau giảm xuống còn 8 ngày) liền trước ngày đầu năm mới để làm lễ tết.

Lịch NumaSửa đổi

Vị vua thứ hai của La Mã là Numa Pompillus (715-673 TCN) đã cải tiến lịch Romulus, bằng cách cộng 51 ngày dư của Romulus vào, giảm 6 tháng có 30 ngày xuống còn 29 ngày (50 + 6 = 56), từ đó thêm vào lịch 2 tháng có 28 ngày, đặt tên là:

  • Februarius: trong tiếng Latin februltus có nghĩa là "sửa lại những gì đã sai" và trong thời gian này người La Mã bắt đầu sự tinh lọc hàng năm, đặt kề sau tháng December. Tháng này là tháng khắc nghiệt nhất trong năm (tương ứng với tháng 1 dương lịch bây giờ).
  • Ianuarius: đặt sau tháng Februarius và trước khi quay vòng lại tháng Martius. Tháng này được đặt theo vị thần Janus trong thần thoại La Mã, có hai khuôn mặt ngược nhau, tượng trưng cho sự thay đổi, chuyển tiếp, khởi đầu và kết thúc.

Ngoài ra, Numa cộng thêm 1 ngày vào tháng Februarius, cứ 4 năm 1 lần, và vào năm này ông cho thêm 1 tháng gọi là mens intercalaris (tháng chênh lệch) có 29 ngày vào sau tháng Februarius.

Như vậy, lịch Numa bao gồm:

  1. Martius: 31 ngày
  2. Aprilis: 29 ngày
  3. Maius: 31 ngày
  4. Iunius: 29 ngày
  5. Quintilis: 31 ngày
  6. Sextilis: 29 ngày
  7. September: 29 ngày
  8. October: 31 ngày
  9. November: 29 ngày
  10. December: 29 ngày
  11. Februarius: 28 ngày (hay 29 ngày mỗi 4 năm) Mens intercalaris: 29 ngày (chỉ 4 năm 1 lần)
  12. Ianuarius: 28 ngày

Như vậy, một năm theo lịch Numa có 354 ngày (hay 384 ngày vào năm có mens intercalis). Tuy nhiên, người La Mã vốn kiêng con số chẵn, nên đã cho tháng Ianuarius thêm 1 ngày thành 29 ngày, và từ đó 1 năm bình thường có 355 ngày và vào năm có mens intercalaris thì có 385 ngày. Tính bình quân trong 4 năm, mỗi năm có 362,5 ngày. Những ngày chênh lệch còn lại so với năm thiên văn (365,2564 ngày mặt trời trung bình) được bù đắp bằng cách thêm vào không theo một quy luật đều đặn nào.

Lịch Cộng hoà La MãSửa đổi

Vào thời kỳ Cộng hoà La Mã (khoảng 450 TCN), hai tháng Februarius và Ianuarius được đảo ngược, có lẽ để "làm vui lòng" vị thần Janus, còn tháng chênh lệch mens intercalaris được chuyển xuống cuối năm và đổi tên thành Mercedonius, rút xuống còn 27 ngày nhưng đồng thời cũng rút ngắn khoảng cách xuống 2 năm thay vì 4 năm như trước. Chữ mercedonius có nguồn gốc từ merces, tức là "tiền công" mà công nhân được lãnh vào thời điểm này trong năm.

Do đó, theo lịch Cộng hoà La Mã, cứ 2 năm lại có 1 tháng Mercedonius 27 ngày, và tháng Februarius liền trước đó rút ngắn xuống còn 23 hoặc 24 ngày (xen kẽ). Và số ngày trong năm tiến gần tới số ngày của năm thiên văn hơn: 2 năm có tháng Mercedonius gồm 377 và 378 ngày, 2 năm còn lại có 355 ngày. Tính bình quân trong 4 năm, mỗi năm theo lịch Cộng hoà La Mã có 366,25 ngày. Trong thời kỳ này, một tuần lễ được tính có 8 ngày.

  1. Martius: 31 ngày
  2. Aprilis: 29 ngày
  3. Maius: 31 ngày
  4. Iunius: 29 ngày
  5. Quintilis: 31 ngày
  6. Sextilis: 29 ngày
  7. September: 29 ngày
  8. October: 31 ngày
  9. November: 29 ngày
  10. December: 29 ngày
  11. Ianuarius: 29 ngày
  12. Februarius: 28 ngày (hay 23 hoặc 24 ngày trong năm có tháng Mercedonius) Mercedonius: 27 ngày (chỉ 2 năm một lần)

Tuy đã bớt sai sót hơn so với các lịch trước, nhưng lịch Cộng hoà La Mã vẫn còn rất phức tạp, ít được tôn trọng, nhiều khi tháng chênh lệch Mercedonius bị bỏ quên vì các lý do chính trị (ít nhất 2 lần trong thế kỷ 2 và 1 TCN). Và đến thời đại Julius Caesar thì hệ thống lịch này đã được cải tiến một cách căn bản, đặt nền móng cho Dương lịch ngày nay.

Mục lục

  • 1 Niên đại
  • 2 Nguồn gốc
  • 3 Lịch sử
    • 3.1 Sự trỗi dậy của Hy Lạp
    • 3.2 Xung đột xã hội và chính trị
    • 3.3 Chiến tranh với Ba Tư
    • 3.4 Ưu thế của Athens
    • 3.5 Cuộc chiến với Peloponnesus
    • 3.6 Sparta và sự trỗi dậy của Thebes
    • 3.7 Sự trỗi dậy của Macedonia
    • 3.8 Những cuộc chinh phạt của Alexandros
    • 3.9 Hy Lạp thời Hy Lạp hóa
    • 3.10 Hy Lạp thời La Mã
  • 4 Địa lý
    • 4.1 Các vùng đất
    • 4.2 Thuộc địa
  • 5 Chính trị và xã hội
    • 5.1 Chính trị
    • 5.2 Chính quyền và luật pháp
    • 5.3 Xã hội
      • 5.3.1 Cấu trúc xã hội
    • 5.4 Lối sống
    • 5.5 Giáo dục
    • 5.6 Kinh tế
    • 5.7 Nền dân chủ
      • 5.7.1 Nền dân chủ Athens
    • 5.8 Chiến tranh
  • 6 Nền văn minh và văn hóa Hy Lạp cổ đại
    • 6.1 Văn học và sân khấu, kịch nghệ
    • 6.2 Triết học
    • 6.3 Âm nhạc
    • 6.4 Khoa học và Công nghệ
    • 6.5 Nghệ thuật Hy Lạp cổ đại
    • 6.6 Kiến trúc Hy Lạp cổ đại
    • 6.7 Tín ngưỡng và thần thoại
  • 7 Xem thêm
  • 8 Chú thích
  • 9 Đọc thêm
  • 10 Liên kết ngoài

Nhìn lại các cách tính lịch khác biệt trong lịch sử

15:00 13/01/2016
Sự hiện hữu của lịch thời gian trong cuộc sống của con người hiện đại là một hiện tượng quá đỗi bình thường. Mỗi khi đánh dấu ngày, tháng, năm, thập kỷ, thế kỷ rồi thiên niên kỷ, chúng ta khó mà nhận thức hết được rằng, thực ra cái sự việc tưởng chừng quá đỗi đơn giản ấy, lại từng xảy ra không dễ dàng chút nào trong lịch sử của nhân loại.

  • Scotland: Phát hiện cuốn lịch cổ nhất thế giới
  • Lịch cổ nhất của người Maya không dự đoán ngày tận thế

Cách tính tháng của người Babylon cổ

Khi cấu trúc xã hội trở nên phức tạp hơn và xuất hiện các thể chế nhà nước, song song là các mối giao lưu buôn bán và đi lại nhộn nhịp, đòi hỏi phương pháp tính thời gian một cách chuẩn xác hơn. Chính các nhà chiêm tinh học cũng là những người đầu tiên làm ra lịch thời gian với những ngày cụ thể, liên quan tới những hiện tượng thiên văn mang tính quy luật, cũng như các hoạt động tín ngưỡng của họ.

Thoạt đầu người ta sử dụng thời gian của mặt trăng làm nền tảng cho việc tính các mùa, nôm na là "lịch âm" như bây giờ vẫn gọi. Khi quay quanh trái đất, mặt trăng luôn trong trạng thái thay đổi có tính chu kỳ đối với các nhà quan sát nó dưới mặt đất. Mỗi chu kỳ lặp lại đó được gọi là "tháng mặt trăng". Ngoài ra, 12 chu kỳ "tháng trăng" ấy cũng gần tương tự với một "năm mặt trời". Nhưng chính cái điều "gần tương tự" này lại sinh ra những sự rắc rối nhất về cách tính thời gian nói chung.

Cách tính lịch của người Hy Lạp Rôma thời cổ đại
Cuốn "lịch thiên văn" Stonehenge xếp bằng đá nhìn từ trên cao.

Lịch của người Sumer cổ ở Babylon (Iraq bây giờ) quy định thời gian một tháng từ kỳ trăng mới này đến kỳ trăng mới sau. Ngày đầu tiên của mỗi tháng đều bắt đầu khi mặt trăng xuất hiện trên bầu trời; đồng thời nhiều sắc dân khác lại chuộng cách tính thời gian của một năm theo chu kỳ trăng non. Một điều tất yếu bắt buộc phải tu chỉnh cuốn lịch thiên văn đầu tiên, bởi sự khác nhau giữa thời gian kéo dài mỗi tháng: giữa 29 và 30 ngày - là điều miễn bàn cãi. Rồi người ta chấp nhận thời gian trung bình của một tháng là 29,5 ngày. Nhưng "tháng trăng" trong thực tế lại dài hơn chút ít.

Ngoài ra, một "năm âm" như vậy có 354 ngày, trong khi trái đất đi hết quỹ đạo quanh mặt trời của mình là 365,2422 ngày - nảy sinh sự khác biệt tới 11 ngày mỗi năm. Vả lại, không thể nghĩ một cách đơn giản là cứ thêm những ngày thiếu nói trên vào mỗi dịp cuối năm được, vì điều này cản trở sự mở đầu của năm sau phải tương ứng với chu kỳ trăng mới.

Giới chiêm tinh Babylon điều chỉnh khiếm khuyết ấy bằng cách áp dụng một hệ thống phức tạp với chu kỳ 19 năm, bao gồm 12 năm với 12 tháng và 7 năm với 13 tháng. Cách tính lịch này cũng được nhiều dân tộc khác sử dụng rất lâu cho tới trước thời kỳ suy tàn của đế chế Babylon. Vào năm 538 Trước CN khi người Persi chinh phục Babylon, họ liền áp dụng cách tính lịch mới trên toàn đế chế của mình - trải từ Ấn Độ đến miền đồng bằng lưu vực sông Nile ở Ai Cập. Ngay cả dân Do Thái cổ - nổi tiếng về sự thông minh - cũng quyết định chuyển lịch của mình sang kiểu tính của người Babylon cho chính xác hơn.

Lịch mặt trăng - mặt trời của người Hy Lạp

Từ các văn tự cổ, người ta được biết lúc đầu người Hy Lạp cũng sử dụng lịch mặt trăng - mặt trời. Nhưng những tháng trăng của họ được bắt đầu bằng sự xuất hiện của trăng non, dẫn đến vấn đề nan giải: thiếu hẳn quy định thời gian về các mùa tương ứng trong năm. Ngay từ nửa cuối thế kỷ V T.CN họ đã nhận thấy thứ lịch ấy không hoàn toàn khớp với các tuần trăng và nhất là với 4 mùa, vậy là người Hy Lạp bắt đầu tính các năm kế tiếp nhau với 12 và 13 tháng.

Nhưng điều này không có trong hệ thống thiên văn quy ước, mà chỉ mang tính ngẫu nhiên và phụ thuộc trước hết vào quyết định của những vùng lãnh thổ khác nhau: mỗi nơi có quyền quy định số tháng cần có trong năm tới của mình, cũng như sự thêm vào hay bớt đi một ngày trong tháng cho phù hợp. Cách này dẫn tới khả năng 2 địa danh kề cận nhau lại có thời gian khác hẳn nhau, thật bất tiện.

Tới năm 539 T.CN thì Solun (nay là Thessaloniki), thành phố đầu tiên của Hy Lạp áp dụng thứ lịch tương tự như của người Babylon, bao gồm một chu kỳ 8 năm với 5 năm có 12 tháng và 3 năm có 13 tháng. Đến năm 432 trước CN, nhà thiên văn Meton nổi tiếng của Hy Lạp phát hiện ra một điều - từng được giới thiên văn học Trung Hoa biết tới từ lâu: chính 19 năm thời gian của mặt trời khớp đúng với 235 "kỳ trăng", một khám phá vĩ đại đối với người Hy Lạp khi ấy.

Thứ lịch mà chúng ta đang dùng hiện nay có xuất xứ ban đầu từ lịch Ai Cập. Đối với người Ai Cập cổ thì việc nước sông Nile dâng lên là sự kiện quan trọng nhất trong năm, làm phấn chấn nhà nông cũng như các giới chính trị xã hội khác. Điều quan trọng là phải biết được chính xác con nước dâng để sửa soạn cho công việc đồng áng. Rồi người ta dễ dàng tính được, rằng triều cường thường tương ứng với các kỳ trăng.

Nhưng rồi năm tháng phụ thuộc vào các kỳ trăng được thay bằng một năm với 365 ngày. Cách chia 12 tháng cố hữu vẫn được giữ lại, từ đó 1 năm trở thành đơn vị tiêu chuẩn để tính mốc thời gian. Mỗi tháng có 30 ngày, cộng thêm với 5 "ngày lễ" vào dịp cuối năm để trở thành một năm thời gian trọn vẹn. Lịch mặt trăng dần dần bị mất ý nghĩa chính xác về thời gian thực, và các kỳ trăng không còn được dùng để tính đầu tháng hay đầu năm nữa. Bức tranh chung đã thay đổi.

Lịch của nhân loại thời hiện đại dựa trên cách tính của lịch Julian

Giới chiêm tinh La Mã không rành cách tính lịch như các đồng nghiệp ở phương Đông. Do sự thờ ơ và cả thói ích kỷ nữa, họ đã không hoàn thiện công việc của mình một cách tốt hơn được. Riêng các nhà hoạt động chính trị lại rất coi trọng giới chiêm tinh và mặc nhiên để họ "lộng hành", dẫn đến hậu quả là vào năm 46 trước CN lịch La Mã có sự "thâm thủng" tới… 80 ngày. Ở thời kỳ này chính quyền nằm trong tay Hoàng đế Julius Caesar, ông đã đánh giá cao cách tính lịch của vùng đất Ai Cập vừa bị chinh phục. J. Caesar toàn năng quyết định cải tổ công việc làm lịch.

Theo sự cố vấn của nhà thiên văn Sosigenes người Ai Cập, ông cho năm 46 trước CN bao gồm 445 ngày và cái năm đáng ghi nhớ ấy trở thành "năm dài nhất" trong toàn bộ lịch sử Niên giám châu Âu, được người đương thời nhắc đến như là "Năm xáo trộn".

Từ năm 45 trước CN người La Mã chấp nhận một dạng "biến thể" từ lịch Ai Cập, do Sosigenes nghĩ ra - dựa trên nền tảng của thời gian tính theo mặt trời, nổi danh với tên gọi "lịch Julian" hay dương lịch. 5 ngày thêm vào cuối năm nói trên trong lịch Ai Cập đã được Sosigenes "rải" đều cách quãng ra trong các tháng của năm.

Từ đó người La Mã coi tháng Hai là "tháng bất hạnh", bởi Sosigenes sắp xếp 7 tháng có 31 ngày, 4 tháng - 30 ngày, riêng tháng Hai lại chỉ có 28 ngày. Lịch Julian trở thành thứ lịch căn bản chủ yếu tạo nên loại lịch hiện đại mà chúng ta đang dùng. Một năm bây giờ có 365 ngày, song song là 1/4 ngày bị thiếu trong năm không được ghi vào lịch và các phần thiếu ấy sẽ hợp lại thành đúng một ngày cứ mỗi 4 năm qua đi. Vậy là sau 4 năm, tháng Hai lại có thêm ngày 29 cho đúng với thời gian thực của mặt trời được gọi là "năm nhuận". Kết quả sau điều chỉnh là hệ lịch mới đã hầu như tương ứng với thời gian của mặt trời trong một năm, bao gồm 365,242199 ngày. Thời gian trong lịch chỉ dài hơn thời gian thực của tự nhiên là 11 phút 12 giây.

Lịch Hồi giáo

Lịch Gregorian mà đa số các quốc gia trên thế giới đang dùng bây giờ có một "người anh em sinh đôi" là lịch Hồi giáo, được tính theo thời gian thực của mặt trăng. Lịch Hồi giáo được áp dụng bởi Quốc vương Omar Đệ nhất trong thế kỷ VII sau CN và được dùng rộng rãi tại các nước vùng Trung Cận đông, nơi đạo Hồi là thứ tôn giáo chính.

Mỗi năm đều bắt đầu bằng kỳ trăng non và có 12 tháng, kế tiếp nhau thứ tự bởi 29 và 30 ngày, hay trung bình là 29,5 ngày. Bây giờ khi chúng ta đã biết thời gian thực của tháng âm là dài hơn chút ít - 29,5306 ngày. Tuy sự khác biệt nhỏ nhoi này thoạt nhìn cũng "không đáng kể", nhưng thời gian gần đây nó đã phá vỡ sự ràng buộc quan trọng liên quan tới các kỳ trăng non và đầu năm mới, điều này hiển nhiên là không được tín ngưỡng Hồi giáo chấp nhận. Cho đến bây giờ người ta đã áp dụng nhiều cách điều chỉnh khác nhau.

Ví như sự kéo dài của hệ thống "chu kỳ Ả Rập" là 30 năm, còn "chu kỳ Thổ Nhĩ Kỳ" lại là 8 năm. Theo họ thì không có năm nào được bắt đầu với một ngày - dù dài hoặc ngắn hơn - trước kỳ trăng tròn cả. Và như vậy lịch Hồi giáo vẫn được tính bất di bất dịch tương ứng với các kỳ trăng. Lịch Hồi giáo khởi đầu từ cái "Ngày Hijri" huyền thoại: khi Thánh Muhammad chuyển từ La Mecca về Medina (Arập Xêút). Điều này xảy ra vào năm 622 theo lịch Gregorian.

Cách tính thời gian của những nền văn minh khác

Thật khó mà tìm ra thứ lịch nào chuẩn xác như lịch của người Trung Quốc. Giới chiêm tinh Trung Hoa cổ từng quan sát sự chuyển động của các ngôi sao và của cả mặt trời nữa, rồi tạo dựng - phân chia các quỹ đạo ê-líp của chúng, được họ gọi là "Con đường Vàng", với 12 "chỏm cầu"; rồi mỗi "chỏm cầu" lại được chia thành 30 phần nhỏ - tương ứng với một ngày.

Họ tính toán và gọi tên các mùa, tương ứng với sự quan sát mặt trời trong tất cả các thời kỳ hoạt động của nó, song song là họ dùng các quỹ đạo của mặt trăng làm thành các tháng căn bản trong năm. Để tránh được các khiếm khuyết về sự xê dịch của thời gian, người Trung Hoa kỳ tài đã lập ra một "bảng thiên văn" - không dựa theo một khuôn mẫu cứng nhắc nào cả, cho phép đối chiếu và bổ sung thời gian thiếu tương ứng một cách hữu hiệu.

Mãi tới tận giữa thế kỷ XIX, qua các khám phá khảo cổ người ta mới biết tới sự tồn tại của các nền văn minh từng phát triển cực thịnh ở Trung Mỹ, với những tri thức thiên văn đáng kinh ngạc, cùng sự chính xác độc đáo của họ về cách tính thời gian. Một trong những trung tâm văn minh cổ ấy tọa lạc tại thành phố Teotihuacan (Mexico) từ thế kỷ I trước CN đến thế kỷ VIII sau CN, với 150.000 dân.

Ở giữa thành phố cổ này là những quần thể Kim Tự tháp, được đánh dấu thứ tự. Vị trí của chúng cùng các bậc thang bằng đá xung quanh - hiển nhiên đã nói về một hệ thống dạng "lịch đá". Với nền văn minh Maya cổ cũng ở Trung Mỹ cũng vậy.

Qua sự phân tích các di vật khảo cổ và các bích họa mô phỏng sự sinh hoạt của người và động vật, người ta có thể khám phá ra sự liên quan - ràng buộc giữa những ngày tháng cụ thể với các hiện tượng thiên văn. Điều sáng tỏ rõ ràng: đây là một cuốn "lịch đá" với độ chính xác tuyệt đối đến khó tin. Dân Maya cổ với những nhà chiêm tinh học, đồng thời cũng là những nhà thiên văn học kỳ tài, đã tính được độ dài của một năm dương lịch là 365,2420 ngày - xê dịch có 0,0002 ngày so với cách tính tân kỳ nhất, điều này có nghĩa là xác suất sai số chỉ có 1 ngày trong 5000 năm! Sự tính toán của người Maya đúng hơn 1.200 lần so với người Ai Cập, 40 lần - so với lịch Julian và thậm chí hơn cả 1,5 lần so với thứ lịch Gregorian hiện đại mà chúng ta đang dùng.

Nhưng những hiểu biết chính xác ấy không phải để giới chiêm tinh Maya cổ sử dụng để tính lịch đúng, mà chỉ để quy định "mức độ không chính xác" trong sự tồn tại song song 3 thứ lịch căn bản mà người Maya cổ thường dùng: bình thường họ dùng lịch 365 ngày; lễ hội dùng lịch 360 ngày; còn trong những dịp tế lễ đặc biệt chỉ chuyên dùng thứ lịch có… 260 ngày mà thôi! Đây là một trong những bí ẩn nữa về nền văn minh Maya huyền bí.

# cách tính lịch lịch sử lịch thời gian
Facebook Twitter Link gốc