Cách tính ngừa thai theo chu kỳ kinh nguyệt

Các phương pháp tránh thai dựa trên nhận thức về khả năng sinh sản liên quan đến việc theo dõi chu kỳ kinh nguyệt và các dấu hiệu sinh lý khác (ví dụ: chất nhầy cổ tử cung) để ước tính thời điểm xuất hiện cửa sổ thụ thai của phụ nữ (những ngày trước, trong và sau khi rụng trứng khi quan hệ tình dục không được bảo vệ có thể dẫn đến mang thai). Mặc dù trứng có thể được thụ tinh chỉ khoảng 12 giờ sau khi rụng trứng, tinh trùng có thể thụ tinh trong 5 ngày sau khi giao hợp; do đó, sự giao hợp gần 5 ngày trước khi rụng trứng có thể dẫn đến có thai. Do đó, các phương pháp dựa trên nhận thức về khả năng sinh sản đòi hỏi kiêng giao hợp từ 5 ngày trước khi rụng trứng.

Một số phương pháp có thể được sử dụng để xác định thời điểm rụng trứng và qua đó xác định khi nào cần có sự kiêng cữ. Chúng bao gồm

  • Phương pháp ngày chuẩn: Tránh giao hợp vào các ngày 8 đến 12 của chu kỳ

  • Phương pháp hai ngày (rụng trứng hoặc nhầy): Dựa trên đánh giá chất nhầy cổ tử cung

  • Phương pháp triệu chứng thân nhiệt: Sử dụng kết hợp nhiệt độ cơ thể cơ bản, đánh giá chất nhầy cổ tử cung và kiêng quan hệ tình dục trong giai đoạn thụ thai

Phương pháp triệu chứng thân nhiệt có tỷ lệ có thai thấp hơn với cách sử dụng hoàn hảo so với phương pháp 2 ngày hoặc phương pháp ngày chuẩn (có hoặc không có vòng chu kỳ). Tuy nhiên, tỷ lệ có thai với bất kỳ phương pháp nào trong số những phương pháp này cao với việc sử dụng thông thường, vì vậy những phương pháp này không được khuyến cáo cho những phụ nữ thực sự muốn tránh việc mang thai.

Các phương pháp vô kinh thời kì cho bú là một phương pháp khác, có thể được sử dụng sau sinh nếu phụ nữ đang cho con bú.

Bảng

Cách tính ngừa thai theo chu kỳ kinh nguyệt

Phương pháp ngày chuẩn

Phương pháp xác định ngày chuẩn dựa trên lịch (ngày có kinh nguyệt) và chỉ thích hợp cho những phụ nữ có kinh nguyệt đều.

Sự rụng trứng xảy ra khoảng 14 ngày trước khi xuất hiện kinh nguyệt. Do đó, khoảng thời gian kiêng cử trong chu kỳ kinh nguyệt được tính bằng cách trừ đi 19 ngày từ chu kỳ ngắn nhất trong 12 chu kỳ và 11 ngày từ chu kỳ dài nhất. Ví dụ: nếu chu kỳ dao động từ 27 đến 29 ngày, cần phải kiêng cữ từ ngày 8 đến 18 của mỗi chu kỳ. Chu kỳ càng dài, thời gian kiêng càng lâu hơn.

Hạt chu kỳ (một chuỗi hạt mã màu tượng trưng cho những ngày của chu kỳ kinh nguyệt) hoặc các công cụ khác (ví dụ: máy theo dõi chu kỳ kinh nguyệt kỹ thuật số) có thể được sử dụng để giúp phụ nữ theo dõi những ngày có khả năng sinh sản cao của họ.

Phương pháp hai ngày

Phương pháp 2 ngày rụng trứng chỉ dựa trên đánh giá chất nhầy cổ tử cung.

Chất nhầy cổ tử cung có thể vắng mặt trong vài ngày sau khi hành kinh. Sau khi chất nhầy lại xuất hiện, nó có xu hướng có đục, dày và không đàn hồi. Một thời gian ngắn trước khi rụng trứng, lượng chất nhờn tăng lên, chất nhầy trở nên loãng, trong và đàn hồi hơn bình thường. Nó giống với lòng trắng trứng sống và trải dài giữa các ngón tay.

Giao hợp được tránh hoàn toàn trong giai đoạn kinh nguyệt (vì không thể kiểm tra được chất nhầy). Giao hợp được phép trong những ngày khi chất nhầy hoàn toàn vắng mặt, nhưng trong những ngày này, giao hợp được giới hạn cách ngày một lần (vì tinh dịch không bị nhầm lẫn với chất nhầy). Giao hợp cần tránh từ khi chất nhầy xuất hiện lần đầu tiên sau kinh nguyệt cho đến 4 ngày sau thời điểm lượng chất nhầy nhiều nhất. Giao hợp được phép mà không có sự hạn chế từ 4 ngày sau thời điểm lượng chất nhầy nhiều nhất cho đến khi chu kỳ kinh nguyệt sau bắt đầu.

Sự thay đổi chất nhầy cổ tử cung cho thấy sự rụng trứng chính xác hơn nhiệt độ cơ thể.

Phương pháp triệu chứng thân nhiệt

Phương pháp triệu chứng thân nhiệt kết hợp đo nhiệt độ cơ bản của cơ thể hàng ngày (tăng sau khi rụng trứng), đánh giá chất nhầy cổ tử cung và phương pháp ngày chuẩn.

Nên tránh giao hợp ngay từ ngày đầu tiên đòi hỏi phải kiêng cữ theo phương pháp ngày chuẩn cho đến 3 ngày sau khi lượng chất nhầy cổ tử cung giảm và nhiệt độ tăng lên.

phương pháp vô kinh thời kì cho bú

Phương pháp lầm vô kinh bằng cách cho bú dựa trên tình trạng vô sinh tự nhiên sau sinh xảy ra khi những phụ nữ cho con bú sữa mẹ hoàn toàn (hoặc gần như) và chu kì kinh nguyệt chưa hồi phục. Việc cho con bú ức chế sự giải phóng các hormone (hormone giải phóng gonadotropin và hormone tạo hoàng thể) cần thiết để kích thích sự rụng trứng. Không có sự rụng trứng, thai kỳ không thể xảy ra. Phương pháp này có thể hiệu quả 98% nếu đáp ứng các tiêu chí sau:

  • Trẻ sơ sinh < 6 tháng.

  • Nuôi con bằng sữa mẹ là nguồn cung cấp thức ăn chính cho trẻ sơ sinh (bổ sung thức ăn bột hoặc đặc hoặc bơm sữa mẹ làm giảm hiệu quả).