Cảm nhận của em về vẻ đẹp tâm hồn của tác giả trong bài thơ thu ẩm

Trang Chủ Diễn Đàn > E - CÁC CÂU LẠC BỘ > CLB Học Tập > Học Online >

Những câu hỏi liên quan

Xem chi tiết

Xem chi tiết

Xem chi tiết

Anh chị viết đoạn văn ngắn từ 5 đến 7 dòng nêu vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi được thể hiện qua bài thơ ơ

Xem chi tiết

Xem chi tiết

Cảm nhận của em về vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua hai câu thơ cuối bài thơ bằng một đoạn văn khoảng 6 câu. Trong đoạn có sử dụng cặp quan hệ từ [ gạch chân và chú thích rõ].

Xem chi tiết

Xem chi tiết

Xem chi tiết

Xem chi tiết

BÀI 4:Theo Xuân Diệu, “trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thuđiếu, Thu ẩm, Thu vịnh”.[Nguyễn Khuyến - Về tác giả và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, trang 160].Anh, chị hãy phân tích những sáng tác trên trong mối quan hệ đối sánh để làm bật vẻ đẹp độcđáo của từng thi phẩm, từ đó nêu vắn tắt yêu cầu đối với một tác phẩm văn học.Nếu nhấp vào nút xem tiếp mà xem được vui lòng chuyển qua trình duyệt Explorer 7 trở lên hoặc cài đặtlại Firefox và Chome nếu trình duyệt lỗiBài làmThu là thơ của đất trờiThu là thơ của lòng người.Thu và thơ từ bao giờ đã là đôi bạn tri âm. Thu vào thơ mang theo nguồn thi hứng dạt dào. Thơlàm cho thu thêm phần đẹp đẽ hơn, nên thơ hơn gấp bội. Chẳng thế mà thơ về mùa thu đã gópmột gia tài khổng lồ trong văn chương nhân loại. Chỉ riêng văn học Việt Nam cũng đủ tạo nênmột kho thơ thu với Cảm thu, Tiễn thu[Tản Đà], Đây mùa thu tới, Ý thu[Xuân Diệu],…Và nhấtlà chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến. “Trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là babài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh [Xuân Diệu]. Mỗi bài một vẻ đẹp riêng, sức hấpdẫn riêng trong sự hoà điệu của hồn thơ thu Nguyễn Khuyến.Mùa thu đi vào thơ ca thành nguồn mạch ngọt ngào vun đắp cho dòng thơ. Mỗi bài thơ là một vẻhấp dẫn, mang theo sức hút, độ nặng, tầm cao riêng. Thu vốn đẹp và buồn. Thu vào thơ càng đẹphơn, buồn hơn dưới cảm quan tinh tế của thi sĩ. Tâm hồn nhà thơ vốn mẫn cảm trước cái đẹp,tinh tế nhận ra một nét thu buồn, một vẻ thu thơ mộng, mê say. Trước đất trời, cảnh vật mùa thu,Nguyễn Khuyến đã để cung đàn cảm xúc của mình ngân lên, bùng cháy lên thành những vần thơtuyệt bút. Dường như mùa thu đã hút lòng thi sĩ. Một bài thơ về mùa thu chưa thoả, không thoảtình yêu và xúc cảm của thi nhân trước thu. Chùm thơ ba bài về mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thuvịnh ra đời thoả nỗi lòng Nguyễn Khuyến. Mỗi bài mỗi vẻ mà bài nào cũng hay, cũng thấm sâuvào tâm hồn bạn đọc và bám rễ chắc ở đấy, “Động thấu tới những miền sâu xa nhất của trái timcon người”.Viết về mùa thu, Nguyễn Khuyến đã gặp gỡ không chỉ thi ca truyền thống mà còn thi ca hiện đại,không chỉ thi ca Việt Nam mà cả thi ca nước ngoài, không chỉ gặp gỡ hồn thơ Á Đông mà còngặp gỡ hồn thơ phương Tây trước mùa thu. Dường như mùa thu trở thành nơi giao hoà, cộnghưởng, là điểm hẹn của tâm hồn thi sĩ muôn phương, ngàn đời.Vẫn là mùa thu làng cảnh Việt Nam bình dị nhưng dưới con mắt, tâm hồn cảm nhận tinh tế củaNguyễn Khuyến, mùa thu hiện lên mang những gương mặt, dáng điệu khác nhau. Nếu Thu điếulà bức tranh mùa thu xanh, sắc xanh trải ngàn, lênh láng, Thu vịnh là bức tranh mùa thu của giónhẹ trời cao xanh trong, của tâm trạng hoài niệm thì Thu ẩm là bức tranh mùa thu đa vẻ đa diệnđược cảm nhận trong nhiều thời điểm, nhiều không gian.Vẫn là bầu trời thu xanh ngắt nhưng mỗi bài thơ là một sắc điệu riêng:Trời thu xanh ngắt mấy từng cao [Thu vịnh]Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?[Thu ẩm]Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt[Thu điếu]Xanh ngắt là màu xanh như thế nào? Chỉ một từ nhưng Nguyễn Khuyến đã thu được và lẩy hồntrời thu lên trang thơ. Một màu xanh đến quá quắt. Bầu trời mùa thu không chỉ xanh, đó còn làbầu trời cao vời vợi, xanh bát ngát, rộng mênh mông. Không gian mở ra khoáng đạt đến vô cùng.Xanh ngắt trở thành “nhãn tự” của câu thơ, trở thành linh hồn của trời thu. Bầu trời dưới con mắtNguyễn Khuyến đẹp lạ, cao, xa, rộng đến ngút ngàn tầm mắt. Nó trở thành phông nền cho bứ ctranh thu.Vẫn là màu xanh ngắt ấy nhưng khi thì Nguyễn Khuyến nói lời cảm nhận, miêu tả: Trời thu xanhngắt mấy từng cao - một nét vẽ cho màu xanh chảy tràn suốt mấy từng trời cao rộng; lúc khác lạilà một băn khoăn, một thắc mắc: Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?Hẳn tạo hoá nhiệm màu nhuộm sắc xanh ngắt cho da trời mùa thu. Trước sắc màu tươi sáng củatrời thu, thi sĩ sao tránh khỏi thảng thốt giật mình vì vẻ đẹp mê say ấy. Câu hỏi không cần lờiđáp. Hỏi chỉ để thể hiện sự ngạc nhiên, thảng thốt trước vẻ thu.Phải chăng sự cấu tứ, tổ chức ngôn từ khác nhau khiến sắc xanh ngắt kia sống mãi trong cả babài thơ thu? Ta giật mình gặp lại sắc màu nhưng ta còn giật mình, thú vị hơn khi được thay đổigóc độ cảm nhận sắc màu ấy theo lăng kính thi nhân. Nguyễn Khuyến quả đã đạt đến độ nhuầnnhuyễn, điêu luyện của sự sáng tạo trong thi ca. Sắc xanh ngắt đã mới, đã là sự sáng tạo; cách thểhiện sắc xanh ngắt còn mới mẻ, độc đáo hơn. Ba câu thơ, ba hình ảnh thơ mà không rơi vào thếnhàm chán, đơn điệu. Ngược lại, câu chữ cuốn người đọc vào hành trình bất tận khám phá vẻ đẹpmùa thu.Đến với thế giới mùa thu trong Thu điếu, ta cơ hồ nhận ra cái gì cũng nhỏ bé, cũng khẽ khàng:Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,Lá vàng trước gió khẽ đưa v èo.tuthienbao .comMột chiếc thuyền bé lại còn bé tẻo teo. Tưởng chừng hình ảnh thu nhỏ hết cỡ. Trong không gianđầy ao đầm của làng quê Nguyễn Khuyến con thuyền cũng nhỏ bé thôi,nhẹ nhàng trôi trên ao.Nếu không phải trong ao hẳn con thuyền sẽ chẳng bé tẻo teo như thế. Và cũng vì trong ao nênsóng biếc cũng chỉ hơn gợn tí. Gợn vốn là sự chuyển động rất mỏng, rất nhỏ, khó thấy,…vậy màcâu thơ Nguyễn Khuyến lại dùng hơi gợn tí. Sự kết hợp từ ngữ độc đáo, mới lạ đã đưa hoạt độngnhư có như không đạt đến độ vi mô, tế vi nhất. Ngay cả lá vàng trước gió cũng chỉ khẽ đưa vèonhẹ nhàng, sẽ sàng. Câu thơ không tả gió, chỉ tả lá rơi mà vẻ nhẹ nhàng man mác của gió heomay vẫn được hiển hiện. Ba câu thơ, ba hình ảnh, ba nét vẽ mà hình ảnh nào cũng nhỏ bé, nhẹnhàng, nét vẽ nào cũng thanh thoát. Chỉ “lẩy bút ti ti” mà khí thu, hơi thu đã hiện lên, dùnhẹ…Đặc biệt Thu điếu, với việc gieo vần eo, đã tạo nên cảm giác cái gì cũng thu nhỏ lại. Hoạtđộng cũng ít ỏi thôi. Âm thanh cũng nhẹ nhàng thôi, không gian hầu như tĩnh lặng tuyệt đối. Phảigắn bó với làng quê Việt Nam, phải tinh tế trong cảm nhận lắm, Nguyễn Khuyến mới thu vàotrong thơ mình nét dịu nhẹ, cơ hồ như có, như không, như hữu hình mà cũng như vô hình của nétthu. Khí thu khác hẳn với cảm nhận của Đỗ Phủ trong Thu Hứng; Hơi thu hiu gắt, khí thuloà.Thu trong cảm quan nhà thơ mang linh hồn Việt Nam nhẹ nhàng và thanh sơ.Cũng thể hiện sự nhẹ nhàng, man mác của gió thu, tiết thu, Nguyễn Khuyến trong Thu vịnh viết:Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.Nếu trong Thu điếu, Nguyễn Khuyến lấy cái động của sóng, của lá vàng để tả gió, nói gió thì ởđây, trong Thu vịnh, nhà thơ lại dùng hình ảnh cần trúc lơ phơ để thể hiện sự dịu dàng, man máccủa gió heo may đầu thu. Cần trúc là một hình ảnh rất quen, rất điển hình của làng quê Việt Nam,nhất là vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những đọt măng qua thời gian lớn lên, khẽ cong trước gió nhưcần trúc. Nhưng chỉ lơ phơ, hắt hiu miêu tả sự mỏng cùng song hành trong một câu thơ đã lắngvào đấy, quyện vào đấy không gian đất trời mùa thu, quyện vào đấy hơi thu, khí thu, một nét thurất Việt Nam nhẹ và êm.Hoà trong khí thu, tiết thu thanh cao, dịu nhẹ ấy, không gian, khung cảnh mùa thu cũng mở ranhiều chiều nên thơ và say mê lòng người. Tập trung nhất, cảm nhận nét thu dịu dàng, thơ mộngnhất có lẽ là ở bài thơ Thu điếu:Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,Cá đâu đớp động dưới chân bèo.Không gian bức tranh mở ra tại ao thu lạnh lẽo, cái lạnh không thấm vào da thịt, không buốtxương, nó chỉ nhẹ nhàng, mơn man. Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Lững lờ trên mặt ao thu ấy.Nước trong veo, xanh, trong , và sáng đến vô ngần. Phải trong, phải xanh, nhất là phải rất sángmới có được làn nước ao trong veo như thế. Đến sóng gợn cũng phải biếc, cũng chứa sắc xanhđến nao lòng người. Cùng hoà điệu với nước xanh, sóng xanh là bầu trời xanh ngắt. Sắc xanhnhư đổ tràn, kết nối mặt nước bầu trời. Bầu trời xanh in bóng xuống mặt nước khiến mặt nướcvốn trong lại xanh thêm. Mặt nước phải tĩnh lặng như tấm gương khổng lồ của tạo vật để bầu trờikia nghiêng mình soi bóng. Trời và nước giao hoà, kết nối. Trời cao vòi vọi, nước sâu thămthẳm, tất cả đều kéo giãn không gian, mở rộng khoảng cách,tưởng không có gì hơn giữa cõi thămthẳm của nước trời độ thu. Giữa không gian cao, rộng và sâu ấy, chiếc lá vàng vốn nhỏ càng nhỏthêm, rợn ngợp thêm. Sắc vàng duy nhất như đâm xiên giưa bao nhiêu là sắc xanh. Một chiếc lá,một sắc vàng nhỏ xíu khẽ đung đưa, trở thành tâm điểm, nổi bật lên trên nền khong gian ấy. Bứctranh thiên nhiên cảnh vật rất thật và đẹp, sống động và xinh xắn. Nhìn sắc vàng của lá, ta nhớđến câu thơ:Một lá ngô đồng rụngThiên hạ biết thu sangChẳng cần nhiều sắc vàng của lá. Không gian mùa thu Việt Nam dưới cái nhìn của NguyễnKhuyến gợi sắc xanh, khác hẳn màu áo mơ phai trong thơ Xuân Diệu:Đây mùa thu tới - mùa thu tớiVới áo mơ phai dệt lá vàng.Đâu phải cứ sắc vàng mới dệt nên mùa thu, đâu cứ phải chỉ bức tranh Mùa thu vàng của Lêvitanmới đẹp, mới đắm say lòng người. Nguyễn Khuyến, bằng vốn ngôn ngữ giàu chất gợi, chất hoạ,đã vẽ nên một màu thu xanh nên thơ rất Việt Nam làm say đắm lòng bất cứ một người nào đãtừng sống với thu, với làng quê đất Việt trong tiết thu. Thậm chí, những câu này của NguyễnKhuyến đủ giúp ai chưa từng sống ở cảnh ấy, không gian ấy thêm yêu mến và khát khao tìm vềhoà điệu cùng cảnh vật, lòng người hay chí ít, đủ tạo cảm giác ta đã sống, đã cảm nhận sâu sắc,cảm nhận đủ đầy mùa thu Việt Nam nơi chốn quê thanh bình, yên tĩnh.Khác với không gian Thu điếu, Thu vịnh, bài thơ Thu ẩm lại tạo nên một vẻ đẹp khác rất quenmà sao hấp dẫn, cuốn hút, mê say. Bài thơ mở ra không phải là không gian cao trong, rộng rãi,khoáng đạt đến vô cùng của Thu điếu, Thu vịnh, không phải là trời mây, non nước, là thiên nhiêntạo vật đắm say. Bài thơ mở ra một không gian gần gũi, thân thuộc của quê nghèo Việt Nam buổiấy:Năm gian nhà cỏ thấp le teNgõ tối đêm sâu đóm lập loè.Năm gian nhà cỏ hiện lên đủ để tạo cảm nhận về sự nghèo đói của quê hương, của đời riêngNguyễn khuyến nhưng còn nghèo hơn, khổ hơn, tối tăm hơn với cụm từ thấp le te. Đã thấp lạicòn le te! Tưởng như năm gian nhà chạm đất được. Phải chăng đấy là hình ảnh rất chân thực củalàng quê ông, một vùng đồng bằng chiêm trũng chưa mưa đã úng, quanh năm đói nghèo? Cảnhvẫn đẹp, vẫn nên thơ say lòng nhưng cuộc sống thì lấm lem, nghèo đói:Năm gian nhà cỏ thấp le teNgõ tối đêm sâu đóm lập loè.Nhà thấp. Một sự tối. Lại thêm ngõ tối, đêm sâu. Không gian càng tối đen, ngột ngạt hơn. Giữađêm tối mịt mùng, sự lập loè của đom đóm không làm sáng lên không gian, không làm ấm lên.Ngược lại cảm giác tối càng rợn ngợp hơn, đặc quánh lại, đầy ám ảnh. Phải nói rằng, NguyễnKhuyến đã rời khỏi không gian tràn đầy ánh sáng, tràn đầy màu sắc đẹp đẽ của thu để trở về cảmthương trước cảnh sống, trước không gian sống quen thuộc quanh mình. Đọc những vần thơ ấy,trước hiện thực tăm tối ấy. Bài thơ vì thế như ngoặt sang hướng khác, không còn nữa sự thảnhthơi, thư thái trước đất trời tạo vật. Thế nhưng:Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.Câu thơ không tả trăng, chỉ gợi về trăng nhưng đủ để vẻ đẹp ấy ngời toả, lung linh. Ta đã gặpnhiều hình ảnh về trăng trong thơ, nhất là thơ thu. Đây là trăng trong thơ Xuân Diệu: Thỉnhthoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ - một vầng trăng như người con gái đầy tâm trạng ngẩn ngơ. Vàđây là trăng thu trong thơ Bác: Trung thu trăng sáng như gương. Nó khác hẳn trăng trong thơNguyễn Khuyến. Trăng không hiện hình, trăng ẩn mặt. Nhưng mặt ao vẫn soi được bóng trăng.Trăng rát bạc lên mặt cao khiến cho không gian lung linh, lóng lánh đầy ánh sáng. Sắc trăng,sánh trăng như loe dài, như lan toả trên mặt ao. Từ loe được Nguyễn Khuyến sử dụng rất đắt, tạonên duyên riêng của trăng, của câu thơ, tạo nên vẻ đẹp riêng của bài thơ.Có thể nói, bức tranh cảnh thu ở mỗi bài thơ là một vẻ đẹp riêng, một nét đẹp riêng không hoàlẫn. Cùng với việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong sáng, điêu luyện. Nguyễn Khuyến đã gópnhững tiếng thơ hay, những bài thơ hấp dẫn, độc đáo trong thơ thu. Có lẽ hiếm có một tác giảnào có thể để lại chùm thơ cùng đề tài sống mãi, cuốn hút, giành được sự yêu mến mãi nhưNguyễn Khuyến với ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh.Đặc biệt không chỉ sáng tạo mới mẻ trong thể hiện cảnh thu, Nguyễn Khuyến còn đặt dấu ấnriêng trong hình ảnh nhân vật trữ tình. Tất cả đều mang nét buồn nhưng mỗi bài thơ là một vẻriêng, một sự buồn riêng không giống nhau. Ở Thu điếu, nhân vật trữ tình dường như chìm khuấttrong hình ảnh. Hiển hiện lên trang thơ là con người vui thú “an bần lạc đạo”, vui cùng điền viênnhưng kì thực đã thả hồn theo đất trời thu hay nỗi niềm gì lẩn khuất tự bao giờ. Tựa gối ôm cầnnhưng nhưng chẳng hề chú tâm đến việc câu. Thu điếu vậy mà điếu hầu như chẳng được mảymay bận tâm. Cái còn lại có chăng chỉ là con người mang nặng tâm trạng, tìm về với thiên nhiên,đất trời để “thanh lọc tâm hồn”, để tìm chỗ nghỉ trên chặng đường đời. Ở Thu ẩm ấy lại là ngườiuống rượu. Say sưa với tâm sự u uẩn, gửi vào đó bao nhiêu nỗi niềm không thể nào giải toả. Conmắt đỏ hoe kia hẳn không phải là say rượu. Có lẽ đó là do khóc cho đời, cho kiếp người chăng?Đằng sau vẻ uống rượu say nhè, đằng sau hình ảnh mắt lão không đầy cũng đỏ hoe kia chứađựng biết bao nhiêu tâm trạng, bao nhiêu nỗi niềm.Rồi nữa, ở Thu vịnh lại là con người mang tâm trạng hoài niệm xa xăm:Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,Một tiếng trên không ngỗng nước nào?Tâm trạng thảng thốt như đang gửi ở phương nào nay sực tỉnh. Thi hứng tràn về, vậy mà chẳngthể nào cất bút: Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Thẹn vì lẽ tài thơ chưa bằng hay thẹn vì nỗi khôngcó khí phách, chí khí của Đào Tiềm? Có lẽ là cả hai nhưng căn cốt vẫn ở phần sau. Phải chăngđó cũng là nỗi lòng u uẩn trong hai bài thơ trên chưa thể nói ra. Cùng một tâm trạng, cùng mộtnỗi lòng nhưng mỗi lần mỗi khác, những nét vẻ riêng, những diện mạo riêng không hoà lẫn.Cái gì đã giúp cho chùm ba bài thơ thu này vượt qua sự băng hoại của thời gian, tồn tại mãi trêndòng thơ ở tầm cao, ở chiều sâu của nó, chiếm lĩnh, ăn sâu trong lòng bạn đọc? Phải chăng là ởcả ba bài thơ đã được tinh luyện, chắt lọc từ hiện thực cuộc đời đẹp đẽ, nên thơ xen lẫn ca nhữngvất vả, lấm lem bùn đất? Hiện thực vẻ đẹp quê hương qua lăng kính của nhà thơ đã khúc xạ, phátquang lên trang viết. Hiện thực mà không sao chép, không quy chụp. Ngược lại, Nguyễn Khuyếnđã hút lấy phần tinh tuý nhất, sâu sắc nhất của hồn thu, của tình người để tạo nên trang thơ thậttinh tế.Vẻ đẹp quê hương soi chiếu trong cái nhìn, cảm quan người nghệ sĩ trở nên lung linh, đa vẻ, đamàu như chiếc kính vạn hoa kì diệu dưới bàn tay điều khiển của người sáng tác.Thay đổi gócnhìn, thay đổi độ ngắm, bài thơ lại ngời lên vẻ đẹp mới, toả hương.Ba bài thơ mùa thu được viết nên, nhào nặn nên từ những gì rất thực, rất đời, từ vẻ đẹp của quêhương nhưng hơn thế, cái để tác phẩm sống là phần tình mà nhà văn gửi gắm, trao chọn cho nó.Một trái tim yêu quê, một xúc cảm chân thành nồng nhiệt trước cuộc đời, trước cái đẹp đã thănghoa, vút lên thành những vần thơ. Tình cảm cùng sự liên tưởng, chọn lựa của nhà thơ đã thổiphồng căng cánh diều hiện thực của quê hương. Hồn thơ tung cánh, câu thơ vút lên, ngân nganhư câu hát. Để rồi xúc cảm bạn đọc. Từ trái tim đến trái tim, tác phẩm thơ sống mãi, trường tồn,vượt qua mọi thử thách của thời gian, sự cách trở của không gian, tri âm với triệu triệu conngười.Hơn nữa, cùng bắt nguồn từ hiện thực, vẻ đẹp mùa thu và tâm trạng trước thu, nhà thơ đã luônđặt mình trong hành trình khám phá, chinh phục và sáng tạo cái mới. Có còn gì chăng nếu mùathu muôn đời vẫn thế trong thơ? Cảm quan nghệ sĩ tạo nên sự khác biệt mới lạ trong cách cảmnhận, thể hiện so với các nhà thơ khác và mỗi người lại phải cố gắng không giẫm lên dấu chânngười khác và không lặp lại chính mình. Nhờ thế ba bài thơ, ba vẻ đẹp riêng, ba sức hấp dẫnriếng sống mãi. Phải chăng như Nguyễn Tuân phát biểu: “Thơ là mở ra một cái gì mà trước câuthơ đó, trước nhà thơ đó như là vẫn phong kín”. Mới về nội dung, mới về cảm xúc và mới vềnghệ thuật biểu hiện nữa. Bởi như L.Lêônôp đã nói: “Mỗi tác phẩm văn học phải là một phátminh về hình thức và một khám phá về nội dung”. Vẫn là cảnh ấy, tình ấy nhưng ở mỗi bài thơ,Nguyễn Khuyến đã tìm cho mình hệ thống phương tiện ngôn ngữ riêng. Câu chữ thay đổi, nétnghĩa cơ hồ cũng khác trước. Bài thơ, câu thơ không lặp lại. Những lớp nghĩa, những tầng nghĩakhép mở, đổi thay trong hình thức ngôn từ. Có bao nhiêu tinh hoa của ngôn ngữ tiếng Việt trongsáng, biểu cảm, Nguyến Khuyến đã dành trọn để thể hiện làng quê. Câu chữ bình dị mà trongsáng, hình ảnh gần gũi mà giàu sức gợi, sức cảm. Nội dung, hình thức thống nhất, quyện hoà,bình và rượu thống nhất, hoà hợp, đan xen, tạo nên sức hấp dẫn thu hút người đọc vào hành trìnhbất tận.Vẻ đẹp chắt lọc từ cuộc đời, tình cảm chân thành mãnh liệt vút lên từ trái tim cùng với sự sángtạo, đổi mới không ngừng trong cảm nhận và biểu hiện vẻ đẹp của cảnh thu, tình thu đã làm nênsức hấp dẫn không gì cưỡng lại nổi của ba bài thơ thu. Phải chăng đó cũng là yêu cầu đặt ra vớibất kì một tác phẩm văn học đích thực nào? Vẻ đẹp cuộc đời sẽ nuôi dưỡng, bồi đắp nguồn chấtliệu xây nên tác phẩm, tạo nên niềm xúc cảm chân thành, mãnh liệt mà cô đọng, mà tinh lọc nêntrang văn. Nhưng hơn hết, sự sáng tạo là không ngừng nghỉ. “ Văn chương không cần đến nhữngngười thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những ngườibiết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì chưa có”. Một tácphẩm như thế tất sẽ tạo nên một lực để nâng nó lên trên mọi dập vùi của định kiến.Tác phẩm văn học thực sự có giá trị khi nó nói thật, nói chân thành, xúc động và nhất là nói hayvề một vẻ đẹp, một cảnh, một tình. Sự đòi hỏi của văn chương là nghiệt ngã, là khắt khe. Chẳngthế mà Nguyễn Bính từng phải kêu lên:Ai bảo dính vào duyên bút mựcSuốt đời mang lấy số long đong.Tác phẩm có giá trị trường tồn cùng thời gian. Cùng với nó, tên tuổi nhà văn, phong cách tác giảsống mãi. Mỗi tác phẩm văn học đích thực là một động lực thúc đẩy sự phát triển của dòng vănhọc, của kiểu sáng tác và cả nền văn học nói chung.Có thể nói, Nguyễn Khuyến, bằng tài năng và trái tim người nghệ sĩ, đã cảm nhận và thể hiệntinh tế mùa thu với sắc vẻ riêng, nên thơ và hấp dẫn lạ kì. Nó đã đạt được những yêu cầu chungđối với bất kì tác phẩm văn học chân chính nào: “Thơ là hiện thực, là cuộc đời và còn là thơnữa”.Cuộc đời cộng hưởng trong cái nhìn, cảm quan người nghệ sĩ tạo nên vốn chất liệu làmthành tác phẩm. Chất hồ kết dính, nhào nặn nó chính là sức liên tưởng, tưởng tượng, sự sáng tạocủa riêng thi sĩ. Vì thế chăng mà ba bài thơ thu cùng tên tuổi Nguyễn Khuyến sống mãi? Thực tếvăn học đặt ra yêu cầu bức thiết cho mỗi nhà văn khi bước chân vào làng văn là phải sống thựcsự mà đón nhận tinh lọc cuộc đời, đãi cát tìm vàng giữa bể đời rộng lớn, tinh luyện nên chấtmuối cuộc đời từ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa khách quan hiện thực và chủ quan nhà thơ, kếthợp cuộc đời với trái tim giàu xúc cảm, dễ ngân dung của người sáng tác. Đó không chỉ là đòihỏi với cá nhân nhà thơ mà cả với dòng thơ, nền thơ.

Video liên quan

Chủ Đề