Chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu còn gọi là gì

các mô hình thay thế nhập khẩu chiến lược của chính phủ là tìm cách thay thế một số hàng nhập khẩu bằng cách kích thích sản xuất trong nước để tiêu thụ nội địa, thay vì sản xuất cho thị trường xuất khẩu. Xuất khẩu và nhập khẩu là những công cụ kinh tế thiết yếu cho tăng trưởng.

Tuy nhiên, sự mất cân bằng do phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu là bất lợi cho nền kinh tế của một quốc gia. Thay thế nhập khẩu là nhằm tạo ra việc làm, giảm nhu cầu ngoại tệ, khuyến khích đổi mới và làm cho đất nước tự túc trong các lĩnh vực quan trọng như thực phẩm, quốc phòng và công nghệ cao..

Chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu còn gọi là gì

Mô hình thay thế nhập khẩu trở nên phổ biến trong những năm 1950 và 1960 như một chiến lược thúc đẩy độc lập và phát triển kinh tế ở các nước có nền kinh tế mới nổi.

Nỗ lực ban đầu này đã thất bại phần lớn do sự kém hiệu quả tương đối của các cơ sở sản xuất thế giới thứ ba và do không có khả năng cạnh tranh trong một thị trường toàn cầu hóa. Do đó, việc tập trung vào xúc tiến xuất khẩu đã trở thành một tiêu chuẩn..

Chỉ số

  • 1 Đặc điểm
  • 2 Ưu điểm
    • 2.1 Thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng của các ngành công nghiệp địa phương
    • 2.2 Bảo vệ các ngành công nghiệp mới
    • 2.3 Tạo việc làm
    • 2.4 Giảm chi phí vận chuyển
    • 2.5 Tạo điều kiện đô thị hóa
  • 3 nhược điểm
    • 3.1 Thiếu cạnh tranh bên ngoài
    • 3.2 Không thỏa mãn nhu cầu
    • 3.3 Bảo vệ thương mại
    • 3,4 Kinh tế quy mô
    • 3.5 Phân phối thu nhập phân cực
  • 4 tài liệu tham khảo

Tính năng

- Mô hình thay thế nhập khẩu đề cập đến một quốc gia thực hiện các biện pháp khác nhau để hạn chế nhập khẩu một số sản phẩm công nghiệp nước ngoài, ưu tiên các mặt hàng sản xuất trong nước hơn các sản phẩm từ nước ngoài, tìm cách thúc đẩy công nghiệp hóa quốc gia.

- Nó ngụ ý rằng một quốc gia phụ thuộc vào sản xuất quốc gia. Trong trường hợp này, xuất khẩu có xu hướng lớn hơn nhập khẩu, bằng cách giảm thiểu nhập khẩu để hạn chế cạnh tranh với các sản phẩm địa phương.

- Mô hình này đã được thực hiện chủ yếu bởi các nền kinh tế mới nổi, trong thời gian dài phụ thuộc vào các nền kinh tế phát triển.

- Nó cũng được gọi là một mô hình công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Nó là sản phẩm của một chiến lược phát triển kinh tế hướng nội.

- Nói chung, các quốc gia cấp ưu đãi cho thuế, đầu tư và bán hàng. Điều này khuyến khích vốn nước ngoài tạo ra các công ty liên kết với thủ đô địa phương hoặc hợp tác với các công ty quốc gia, thông qua việc cung cấp nguyên liệu hoặc chuyển giao công nghệ để cải thiện mức độ công nghiệp hóa quốc gia.

- Các phương tiện khác nhau được sử dụng để phát triển ngành công nghiệp địa phương, như tăng thuế, tăng số lượng hạn chế và kiểm soát ngoại tệ để hạn chế nhập khẩu sản phẩm, do đó cạnh tranh nhập khẩu có điều kiện cạnh tranh ít hơn hoặc không thể cạnh tranh trong ngành quốc gia..

Ưu điểm

Thúc đẩy sự sáng tạo và tăng trưởng của các ngành công nghiệp địa phương

Việc hạn chế nhập khẩu tạo ra nhu cầu lớn hơn cho các sản phẩm trong nước. Đổi lại, điều này tạo ra một khoảng cách trong nền kinh tế đòi hỏi phải đầu tư trong giới hạn nội bộ của đất nước.

Do đó, các nguồn lực địa phương tập trung vào việc sản xuất các dịch vụ và sản phẩm đó sẽ dẫn đến sự hình thành các ngành công nghiệp mới.

Ngoài ra, những lợi ích thu được từ các khoản đầu tư này sẽ được chuyển giao với tỷ lệ tiết kiệm, đầu tư và hình thành vốn cao hơn..

Bảo vệ các ngành công nghiệp mới

Một công ty mới sẽ không phải cạnh tranh với các công ty và thị trường quốc tế được thành lập.

Sự cạnh tranh này sẽ dẫn đến việc đóng cửa các ngành công nghiệp như vậy bởi vì các công ty quốc tế có lợi thế cạnh tranh lớn so với các ngành công nghiệp địa phương, cả về giá cả và nguồn cung.

Mô hình thay thế nhập khẩu phục vụ để chuẩn bị các ngành công nghiệp cho sự phát triển và tăng trưởng của họ; cũng để có khả năng tăng sự hiện diện của họ trên thị trường quốc tế.

Do đó, nó giúp phát triển nền kinh tế địa phương, khuyến khích họ tự túc và giảm sự sụp đổ của các doanh nghiệp mới.

Thế hệ việc làm

Do công nghiệp hóa địa phương, mô hình thay thế nhập khẩu cải thiện yêu cầu đối với các ngành thâm dụng lao động, tạo cơ hội việc làm. Đổi lại, điều này làm giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế.

Ngoài ra, chất lượng cuộc sống của công nhân được cải thiện, điều này sẽ làm giảm tỷ lệ người dân sống trong nghèo đói. Mặt khác, nền kinh tế trở nên chống lại các cú sốc kinh tế toàn cầu hơn, do đó củng cố sự ổn định và bền vững kinh tế.

Giảm chi phí vận chuyển

Các sản phẩm sẽ không còn đến từ khoảng cách xa, mà sẽ được sản xuất trong giới hạn địa phương. Trọng tâm là phát triển các sản phẩm gia dụng và giảm chi phí vận chuyển để đầu tư vào các ngành công nghiệp.

Ngoài ra, mô hình thay thế nhập khẩu không giới hạn việc nhập khẩu thiết bị và máy móc cần thiết cho công nghiệp hóa.

Tạo điều kiện đô thị hóa

Với sự mở rộng của các ngành công nghiệp, đô thị mới có thể được phát triển để chứa công nhân của các công ty mới này. Cách này giúp thúc đẩy ngành xây dựng.

Nhược điểm

Thiếu cạnh tranh bên ngoài

Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả của các ngành công nghiệp địa phương mới. Do đó, điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự tăng trưởng của bạn.

Ngoài ra, các hạn chế như giấy phép nhập khẩu, tiền gửi bảo lãnh và hàng rào thuế quan cản trở thương mại giữa các quốc gia. Sự không hiệu quả này sẽ làm giảm tổng sản lượng, dẫn đến tốc độ tăng trưởng giảm.

Nhu cầu không hài lòng

Sự thiếu tuân thủ của các ngành công nghiệp quốc gia đang phát triển mới trong việc đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng có thể tạo ra sự phát triển của "thị trường đen".

Rò rỉ tài chính sẽ có tác dụng làm giảm thu ngân sách của chính phủ và cơ sở vốn toàn cầu của nền kinh tế.

Bảo vệ thương mại

Bảo vệ thương mại gây ra bởi mô hình thay thế nhập khẩu có thể tạo ra tỷ giá hối đoái được định giá cao gây ra sự gia tăng giá nội địa.

Ngoài ra, nó đòi hỏi các chính phủ phải chi nhiều hơn để trợ cấp đầu tư công nghiệp. Lạm phát xảy ra và xuất khẩu ít cạnh tranh hơn. Ngoài ra, nó gây ra thâm hụt ngân sách cao.

Kinh tế quy mô

Quy mô nhỏ của thị trường địa phương không thể khai thác nền kinh tế theo quy mô sản xuất địa phương. Trong trường hợp như vậy, điều này cản trở sản xuất và tăng trưởng, mang lại sự sụp đổ của các ngành công nghiệp tương tự.

Một ví dụ là nền kinh tế Brazil. Brazil đã từ bỏ việc sử dụng mô hình thay thế nhập khẩu cho máy tính vào những năm 1990..

Phân phối thu nhập phân cực

Trong các bối cảnh này có sự hiện diện của phân phối thu nhập nội bộ phân cực. Quyền sở hữu các phương tiện sản xuất sẽ là độc quyền, tạo ra khoảng cách lớn giữa người giàu và người nghèo. Điều này dẫn đến sự bất bình đẳng cao trong một quốc gia.

Tài liệu tham khảo

  1. Từ điển kinh doanh (2018). Nhập khẩu thay thế. Lấy từ: businessdipedia.com.
  2. Calvin Fok (2015). Thay thế nhập khẩu là gì? Nó đã bao giờ làm việc? Có chấp nhận rằng thay thế xuất khẩu là lý thuyết kinh tế ưu việt cho các quốc gia đang phát triển? Quora Lấy từ: quora.com.
  3. Tiểu luận cơ bản (2018). Ưu điểm và nhược điểm của việc thay thế nhập khẩu (mẫu tiểu luận). Lấy từ: essaybasics.com.
  4. Anushree (2018). Nhập khẩu thay thế và xúc tiến xuất khẩu. Thảo luận kinh tế. Lấy từ: economicsdiscussion.net.
  5. Đầu tư (2018). Công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (ISI). Lấy từ: Investopedia.com.

HỌC VIỆN NGÂN HÀNGĐỀ TÀI THẢO LUẬNVẤN ĐỀ CÔNG NGHIỆP HÓA THAY THẾ NHẬPKHẨU Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀVIỆT NAMMỤC LỤCI. CÁC KHÁI NIỆM (MỞ ĐẦU)1. Công nghiệp hóa :Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi một cách căn bản, toàn diện các hoạtđộng sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức laođộng thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng vớicông nghệ, phương tiện, phương pháp tiến bộ , hiện đại, dựa trên sự phát triển củacông nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hộicao.Tại sao lại phải ưu tiên công nghiệp hóa?Do trong quá trình chuyển từ một nền kinh tế lạc hậu mang tính chất tự nhiênsang một nền kinh tế thị trường có nghĩa là trong quá trình thực hiện việcchuyển đổi cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ sang một nền kinh tếsản xuất lớn ngày càng hiện đại. Một nền sản xuất lớn đòi hỏi phải có một cơcấu cơ sở hạ tầng và những công cụ lao động ngày càng tiến bộ. Để tạo lập ranhững cơ sở vật chất kỹ thuật đó thì theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác, mọiquốc gia đều phải tiến hành quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.Do yêu cầu phải rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế, kỹ thuật, công nghệnước ta với các nước trong khu vực và thế giới.Do yêu cầu tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đảm bảo cho sự tồn tại vàphát triển của CNXH.--2. Công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu:Là một đường lối công nghiệp hóa theo đó quốc gia tiến hành công nghiệp hóanỗ lực thành lập và nuôi dưỡng các ngành công nghiệp trong nước để sản xuất racác sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu. Chiến lược này đòi hỏi các biện pháp bảohộ với những ngành công nghiệp trong nước bằng cách dựng lên các hang rào mậudịch chống lại hàng nhập khẩu và bằng các khoản trợ cấp.II. CHIẾN LƯỢC CÔNG NGHIỆP HÓA THAYTHẾ HÀNG NHẬP KHẨUCác quốc gia khi giàu lên đều tăng tỉ trọng công nghiệp và giảm tỉ trọng nôngnghiệp. Vấn đề là tìm con đường tốt nhất để xây dựng một khu vực công nghiệp cóthể tự mình tăng trưởng bền vững? Có hai chiến lược. Thứ nhất là bảo hộ bằngthuế quan, hạn ngạch và thứ hai là cấm nhập khẩu. Ý tưởng ở đây là nâng giá sảnphẩm để các doanh nghiệp nội địa có thể học cách trở nên hiệu quả. Về nguyên tắc,bảo hộ sẽ phải giảm dần để người tiêu dùng các sản phẩm này không mãi mãi phảichịu giá cao. Thực ra, khi một ngành đã quen được bảo hộ thì sẽ rất khó chuyểnsang cuộc sống không có nó. Một công ty được bảo hộ đạt lợi nhuận cao bằng cáchthuyết phục các quan chức chính phủ hay chính trị gia rằng công ty phải được bảohộ hơn nữa, trong khi chẳng dành nhiều nỗ lực để giảm giá thành hay cải thiện sảnphẩm. Đôi khi một chính phủ mạnh tay và buộc doanh nghiệp phải trở nên cạnhtranh, nhưng điều này rất hiếm. Thông thường, một khi công nghiệp hóa bắt đầuvới giá thành cao thì sẽ tiếp tục như vậy.Năm 1971, ALin Coln nói: ” Tôi không biết nhiều về thuế quan .Nhưng tôi biết rấtrõ khi tôi mua một cái áo ở nước Anh, tôi có áo và nước Anh có tiền. Khi tôi muamột cái áo ở Mĩ thì tôi có áo và nước Mĩ có tiền”. Có thể thấy ở đây một sự chútrọng vào thị trường nội địa, lấy nó làm trung tâm để sản xuất và lưu thông hànghoá. Bảo hộ hàng sản xuất trong nước, chống lại sự cạnh tranh của hàng ngoại lànhiệm vụ trung tâm của chiến lược thay thế nhập khẩu.1. Khái niệmLà một đường lối công nghiệp hóa theo đó quốc gia tiến hành công nghiệp hóa nỗlực thành lập và nuôi dưỡng các ngành công nghiệp trong nước để sản xuất ra cácsản phẩm thay thế hàng nhập khẩu. Chiến lược này đòi hỏi các biện pháp bảo hộvới những ngành công nghiệp trong nước bằng cách dựng lên các hàng rào mậudịch chống lại hàng nhập khẩu và bằng các khoản trợ cấp.Chiến lược này đã được thực hiện thành công ở các nước Mỹ Latinh vàĐông Á vào thập niên 1960 và nửa đầu 1970 (g=3%).Sau cú shock dầu lửa thứ hai (1973) cá nước Mỹ Latinh vẫn tiếp tục thực thichiến lược này, còn các nước Đông Á đã có sự chuyển hướng trong chiếnlược TMQT của mình.2. Mục tiêu :Đặt trọng tâm phát triển công nghiệp để thay thế những hàng hóa nhập khẩu.Chiến lược này nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, dùng các hàng rào thuế quan đểnâng đỡ các ngành sản xuất non trẻ trong nước.3. Cơ sở lý thuyết :-Lợi thế theo qui môBi quan xuất khấu4. Phương pháp luận của chiến lược thay thế nhập khẩu :Trước hết cố gắng tự sản xuất để đáp ứng đại bộ phận nhu cầu về hàng hóa vàdịch vụ cho thị trường nội địa. Đảm bảo cho các nhà sản xuất trong nước có thểlàm chủ được kỹ thuật sản xuất hoặc các nhà đầu tư nước ngoài cung cấp côngnghệ vốn và quản lý hướng vào việc cung cấp cho thị trường nội địa là chính.Cuối cùng lập hàng rào bảo hộ để hỗ trợ cho sản xuất trong nước có lãi, khuyếnkhích các nhà đầu tư trong những ngành công nghiệp là mục tiêu phát triển.5. Các biện pháp thực hiện thay thế nhập khẩuThường là thuế quan bảo hộ, hạn ngạch nhập khẩu và tỷ giá cao quá mức.Ví dụ: Một trong những biểu hiện rõ nét nhất của chính sách bảo hộ áp dụng trongngành công nghiệp ôtô tại Việt Nam là hàng rào hải quan chống lại ôtô nhập khẩu:Trước tháng 1/1999, ôtô nhập khẩu bị đánh thuế 155% (55% là thuế nhập khẩu,100% là thuế tiêu thụ đặc biệt); sau thời gian này thì bị cấm nhập; năm 2004 thìchịu thuế đến 180% (chưa kể thuế giá trị gia tăng). Năm 2010, đối với xe ô tô dưới9 chỗ ngồi, cụ thể: xe chạy xăng, trên 2500 cc là 80%; xe ô tô 4 bánh 2 cầu chủđộng là 77%, các loại xe chạy xăng dưới 2500 cc và chạy diesel giữ nguyên mứchiện hành của năm 2009 là 83% .Thuế nhập khẩu có thể được dùng như công cụ bảo hộ mậu dịch:Giảm nhập khẩu bằng cách làm cho chúng trở nên đắt hơn so với các mặt hàngthay thế có trong nước và điều này làm giảm thâm hụt trong cán cân thương mại.Chống lại các hành vi phá giá bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu của mặt hàngphá giá lên tới mức giá chung của thị trường.Bảo hộ cho các lĩnh vực sản xuất then chốt, chẳng hạn nông nghiệp giống như cácchính sách về thuế quan của Liên minh châu Âu đã thực hiện trong Chính sáchnông nghiệp chung của họ.Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để có thểcạnh tranh sòng phẳng trên thị trường quốc tế.6. Lợi thế và hạn chế của chính sách Công nghiệp hóa thay thế nhập khẩua) Lợi thế :• Thoát khỏi vị thế làm nước cung cấp nguyên liệu, nông sản: giả thuyếtPrebisch-Singer đề cập tới hiệu ứng giá cánh kéo theo đó giá hàng nông sảnvà nguyên vật liệu ngày càng rẻ và giá hàng chế tạo ngày càng đắt tươngđối.•••b)••••••••••Học tập thông qua thực tiễn: gây dựng kinh nghiệm kinh doanh cho doanhnghiệp trong nước thông qua môi trường cạnh tranh không quá khắc nghiệtkhi không có hàng nhập khẩu.Sự cần thiết phải đạt được tính kinh tế nhờ quy mô: tính kinh tế nhờ quy môđược cho là cần thiết cho phát triển doanh nghiệp trong thời kỳ công nghiệphóa. Dành thị trường trong nước chỉ cho doanh nghiệp trong nước được tinrằng sẽ giúp đạt được tính kinh tế nhờ quy mô.Các mối liên kết liên ngành: các ngành thay thế nhập khẩu phát triển có thểtạo cơ hội cho các ngành khác cung cấp đầu vào cho chúng hay sử dụng đầura của chúng phát triển theo.Hạn chế :Mất cân đối trong cơ cấu ngành: những ngành thay thế nhập khẩu được bảohộ và hỗ trợ nên phát triển mạnh trong khi những ngành khác thì lại có thểkhông có cơ hội phát triển.Thâm hụt cán cân thanh toán: các ngành thay thế nhập khẩu phát triển đãkéo theo nhu cầu nhập khẩu máy móc và nguyên liệu đầu vào tăng lên,nhưng ngoại tệ lại chỉ có thể kiếm được thông qua xuất khẩu (mà nhiều khikhu vực này lại không phát triển). Để giải quyết khó khăn về ngoại tệ, quốcgia có thể phải đi vay nước ngoài, dẫn tới vấn đề nợ nước ngoài (một dạngphụ thuộc kinh tế khác).Quá nhiều loại hình tổ chức mua bán và thương nhân nhỏ lẻ làm thị trườngmanh mún, lợi ích người tiêu dùng không được tôn trọng.Sai lầm của các doanh nghiệp khi cho rằng người tiêu dùng chuộng hàngngoại, các họ cần là chất lượng và dịch vụ chăm sóc khách hàng chứ khôngphải là nhãn mácTrình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu,vốn đầu tư trong nước còn thấpViệc xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủnghĩa bị buông lỏngChênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng và thu nhập giữa tầng lớpdân cư có chiều hướng ngày càng mở rộngPhân phối trong xã hội còn nhiều bất hợp lý,đất nước nghèo nhưng còn tiêudùng quá khả năng làm ra ,chưa dồn sức vào đầu tư phát triển.Cần đất nước có quy mô dân số đông, sức tiêu thụ lớnTriệt tiêu động lực cạnh tranh của doanh nghiệp do có sự bảo hộ từ nhànước.•Tệ nạn phát sinh từ việc thực hiên không nghiêm túc của các đối tượng chịuthuế như trốn thuế, đút lót => gây thất thu cho nhà nước, người dân mất lòngtin vào chính phủ.III. THỰC TIỄN VỀ CHIẾN LƯỢC CÔNG NGHIỆPHÓA THAY THẾ HÀNG NHẬP KHẨU Ở CÁCNƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ VIỆT NAM1. Các nước đang phát triểna) Thực trạng về chiến lược công nghiệp hóa thay thế hàng nhập khẩu ởmột số nước đang phát triểnChiến lược công nghiệp hoá theo hướng sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩuđã được hầu hết các nước công nghiệp phát triển hiện nay theo đuổi trong thế kỷXIX. Trong các nước đang phát triển, chiến lược thay thế hàng nhập được thửnghiệm đầu tiên ở các nước Mỹ Latinh. Một số nước châu Á như Ấn Độ và ThổNhĩ Kỳ cũng đã thực hiện chiến lược này trên con đường công nghiệp hóa từ trướcChiến tranh thế giới lần 2. Ở hầu hết các nước châu Á và Châu Phi, mong muốnnhanh chóng xây dựng một nền kinh tế độc lập và đó là lý do chính khiến các nướcđi vào con đường phát triển thay thế nhập khẩu. Trong những năm 60 thay thếnhập khẩu đã trở thành chiến lược phát triển kinh tế chủ đạo.Về cơ bản chiến lược này được áp dụng trong giai đoạn đầu với khoảng thờigian ngắn nhằm tạo tiền đề chuyển hướng chiến lược hướng về xuất khẩu.- Đối với Hàn Quốc việc thực hiện kế hoạch 5 năm đầu tiên tạo điều kiệntăng dần dung lượng thị trường nội địa nhất là đẩy mạnh các ngành côngnghiệp nhẹ có khả năng sử dụng nhiều sức lao động nhưng cần ít vốn nhưcác ngành : dệt, may mặc, chế biến...- Trong khi đó, Đài Loan sử dụng chiến lược phát triển nông nghiệp gắnvới chiến lược phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu nhằm đáp ứng nhucầu tiêu dùng nội địa và giải quyết việc làm. Tuy nhiên, ngay trong giai đoạnnày Đài Loan cũng đã thấy được khuyết điểm của chiến lược mà họ đang sửdụng đó là thị trường trong nước có quy mô nhỏ sức mua không lớn lên tăngtrưởng chậm lại .- Kế hoạch 5 năm 1966 - 1970 của Malaixia thể hiện rõ đường lối pháttriển kinh tế là thực thi chiến lược thay thế nhập khẩu để khẳng của Malaixiatrong buôn bán cũng như trong phân công lao động quốc tế. Thời kỳ nàyMalaxyia chú trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp đặc biệt làsản xuất nông nghiệp nhằm cơ giới hoá việc gieo trồng các loại cây màMalayxia đã phải nhập khẩu. Có thể thấy rằng trong kế hoạch 5 năm 19661970 Malayxia tiến hành chiến lược thay thế nhập khẩu nhưng lại không lấycây lúa làm trọng tâm mà lại phát triển cây công nghiệp dài ngày để thu sảnphẩm xuất khẩu. Do đó, kết quả của việc thực hiện chiến lược này Malayxiakhông những đảm bảo cơ bản về nhu cầu lương thực mà còn tiết kiệm đượcngoại tệ làm tiền đề chuyển hướng chiến lược hướng về xuất khẩu.- Khác với Malayxia, Thái Lan ngay từ đầu đã có một cơ sở kinh tế khávững vàng do Mỹ xây dựng trong thời kỹ chiến tranh Đông Dương. Cộngvới vị trí địa lý thuận lợi, Thái Lan bước vào chiến lược thay thế nhập khẩuvới mục tiêu chính là đẩy mạnh phát triển công nghiệp và những ngành côngnghiệp sử dụng nhiều lao động để tận dụng nguồn lao động trong nước. Nếunhư Malayxia có chính sách phát triển nông nghiệp chú trọng vào cây côngnghiệp : cọ dừa, cà phê, ca cao... thì Thái Lan lại tập trung vào phát triển câylương thực, áp dụng những chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng nôngsản và những sản phẩm dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Kết quả làThái Lan luôn là một nước xuất khẩu lương thực lớn ra thị trường thế giới,đồng thời giải quyết được vấn đề việc làm cho xã hội góp phần ổn định đấtnước.Tóm lại, việc thực thi chiến lược thay thế nhập khẩu ở các nước NICs cũng nhưcác tiến hành chiến lược thay thế nhập khẩu các nước đều khắc phục được vấn đềlương thực và giải quyết được việc làm cho xã hội .Ngay từ nhận định ban đầu, chiến lược thay thế nhập khẩu chỉ phát huy trongthời gian ngắn với quy mô thị trường nhỏ. Sau đó, nó bộc lộ những hạn chế củamình như giới hạn về thị trường trong nước, không cập nhật được với khoa họccông nghệ hiện đại đặc biệt là làm chậm tiến độ công nghiệp hoá của đất nước.b) Hệ quảChính sách công nghiệp hóa bằng thay thế nhập khẩu đã bắt đầu bị thất sủngkhi việc các nước theo đuổi chính sách này không bắt kịp các nước tiên tiến. Mộtgiai đoạn bảo hộ sẽ không tạo ra 1 khu vực công nghiệp chế tạo có khả năng cạnhtranh nếu tồn tại lý do khiến cho một nước không có lợi thế so sánh trong côngnghiệp chế tạo.- Lý do khiến các nước không phát triển được thường do tình trạng thiếu kinhnghiệm về công nghệ chế tạo.- Các nước nghèo thiếu lao động lành nghề,thiếu các nhà kinh doanh, thiếu nănglực quản lý và có những vấn đề về tổ chức xã hội gây khó khăn cho các nước nàycung ứng một cách đảm bảo mọi thứ kể từ những linh kiện thay thế điện năng.Chính sách bảo hộ của nhiều nước kém phát triển đã làm lệch lạc các khuyếnkhích một cách tồi tệMột phần vấn đề là ở chỗ nhiều nước đã sử dụng các hạn ngạch nhập khẩu chi tiếtvà thường là chồng chéo, những kiểm soát buôn bán và các luật lệ về hàm lượngnội địa thay cho các chế độ thuế quan đơn giảnKhuynh hướng áp dụng hạn chế nhập khẩu để thúc đẩy sản xuất ở quy mô nhỏkhông có hiệu quảKhi một thị trường nhỏ được bảo hộ (ví dụ hạn ngạch xuất khẩu) thì nếu mộ côngty duy nhất gia nhập thị trường này, nó sẽ thu được lợi nhuận độc quyền. Sự cạnhtranh giành lợi nhuận dẫn đến tình trạng một vài công ty gia nhập vào thị trườngmà thực tế chỉ đủ chỗ cho một công ty và tiến hành sản xuất trên quy mô rất khôngcó hiệu quả.Tới những năm 1980 chỉ trích về công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu đượcchấp nhận rộng rãi. Xét về mặt bình quân, các nước đang phát triển lựa chọn chínhsách thương mại tự do tương đối tăng trưởng nhanh hơn các nước lựa chọn chínhsách thương mại theo hướng bảo hộ.Sự thay đổi này dẫn đến một dịch chuyển lớn trong các chính sách trong thực tế,khi nhiều nước đang phát triển đã dỡ bỏ hạn ngạch và hạ thấp mức thuế quan.2. Việt Nama) Điều kiện Kinh tế - xã hội Thuận lợi- Nguồn nhân lực:Vào thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2014, tổng số dân của Việt Nam là90.493.352 người, trong đó có khoảng 53 triệu là lực lượng lao động. Giá nhâncông rẻ tạo thuận lợi cho Việt Nam khi tham gia phân công lao động quốc tế kếthợp với truyền thống cần cù, đoàn kết, thông minh, sáng tạo có khả năng nắm bắtkhoa học-kinh tế hiện đại và ứng dụng nó, có khả năng thích ứng với tình huốngphức tạp. Người Việt Nam càng ngày càng được nâng cao về thể lực trình độ kỹthuật, kỷ luật, trình độ quản lý, nguồn lao động được nhân lên và có sức mạnhnhiều hơn.-Nguồn tài nguyên thiên nhiên:Đa dạng, phong phú bao gồm: đất đai, rừng biển, nguồn nước, khoáng sản, khí hậu.Với 1 phần tài nguyên như thế đất nước ta có điều kiện thuân lợi với tiềm năng đểphát huy lợi thế của mình.-Vị trí địa lý:Việt Nam có vị trí thuận lợi, có chiều dài tiếp giáp với biển Đông, có tuyến đườnggiao thông hàng hải, hàng không từ Đông sang Tây. Đường bộ, đường sông nối 3nước Đông Dương thành thế chiến lược kinh tế. Cho phép Việt Nam có khả năngphát triển nhiều loại hình kinh tế, DV khác nhau.-Mặt thuận lợi khác về tình hình kinh tế, xã hội, chính trị, các chủ trươngchính sách của Đảng và nhà nước:• Công cuộc đổi mới đã khai phá 1 chặng đường rất quan trọng, tạo ra tiền đề cơbản cho những bước đi tiếp theo, môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi, tình hìnhchính trị ổn định.• Nhất quán chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu chính phủ Việt Namđưa ra các chính sách khuyến khích sản xuất hàng hoá có lợi thế so sánh cao trêncơ sở nguồn lực dồi dào trong nước.• Cơ chế quản lý kinh tế của Việt Nam trở nên nhạy cảm hơn vì chính sách mởcửa, tạo thuận lợi cho kinh tế Việt Nam hoà nhập với kinh tế toàn cầu.Thách thứcĐiểm xuất phát thấp:-• Nước ta vẫn còn là 1 nước nghèo và kém phát triển. Số dân vẫn sống trong tìnhtrạng nghèo khổ.• Dân số còn tăng nhanh và mật độ dân cư nhiều vùng rất cao nhưng lại thiếu đấtlàm ăn. Nước ta hiện nay còn 70% lực lượng lao động làm nông nghiệpÁp lực dân số đông và thiếu việc làm là rất lớn.• Trình độ công nghệ trong các ngành kinh tế nói chung còn rất thấp. Chỉ 1 số ít cócông nghệ tương đối hiện đại.• Trình độ phát triển kinh tế kém, nền kinh tế hàng hoá mới bắt đầu hình thành, lựclượng sản xuất nhỏ bé, cơ sở vật chất còn lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệchuyển biến chậm. Thêm vào đó VN còn chưa hiểu biết đầy đủ về thị trường quốctế => mất thời gian ngỡ ngàng lung túng trong việc hợp tác kinh tế với nước ngoài.Điểm xuất phát thấp đồng nghĩa với việc tụt hậu nhiều và nguy cơ tụt hậungày càng xa hơn với thế giới là rất rõ.-Nền kinh tế còn đang trong quá trình chuyển đổi:Một sự chuyển đổi vừa theo định hướng thị trường, vừa theo định hướng xã hộichủ nghĩa. kinh tế thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa là sự mới mẻ mà chưa cómấy thành công trên thế giới.-Cạnh tranh quốc tế gay gắt:Nước ta là 1 quốc gia ven biển Đông vừa có thuận lợi cho sự phát triển, đồng thờicũng chứa đựng nhiều tranh chấp rất phức tạp về chủ quyền và lợi ích. Đối phó vớisức uy hiếp ngày càng tăng từ thế giới, buộc chúng ta phải hết sức coi trọng việccủng cố và tăng cường khả năng quốc phòng.-Nguồn nhân lực bị hạn chế:Ở giai đoạn hiện nay, VN đang đương đầu với thách thức về lợi thế so sánh nguồnnhân lực. Mặt hạn chế và yếu kém về chất lượng, nhất là những vùng nông thôn,miền núi còn là trở ngại lớn cho sự phát triển. Đòi hỏi lớn và cấp bách song khảnăng đầu tư cho phát triển nguồn nhần lực lại quá nhỏ bé.-Vốn đầu tư:Nền kinh tế lúc này đã bước vào giai đoạn muốn tăng trường nhất thiết phải có vốnđầu tư. Trong khi đó, đầu tư trực tiếp của nước ngoài đang có xu hướng chững lại,tốc đổ rải ngân vốn ODA chậm, cùng với hiện tượng co cụm lại trong việc huyđộng và cho vay vốn của NH trong nước tạo nên mối lo ngại về tình trạng suygiảm vốn đầu tư, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế trong tương lai.Những thách thức nêu trên chỉ là 1 phía mà ở phía kia chính là cơ hội, thậmchí là thời cơ. Vấn đề là phải có chính sách đúng để khai thác mọi thơi cơvượt qua thách thức đi tới mục tiêu.b) Thực trạng về chiến lược công nghiệp hóa thay thế hàng nhập khẩu ởViệt NamỞ miền Bắc, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiếnthẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua phát triển chủ nghĩa tư bản, mặt khác,vừa phải xây dựng CNXH vừa phải chiến đấu chống Mỹ. Điểm xuất phát của ViệtNam khi bước vào thực hiện CNH rất thấp. Năm 1960, công nghiệp chiếm tỷtrọng18,2% và 7% lao động xã hội; tương ứng nông nghiệp chiếm tỷ trọng 42,3%và 83%. Sản lượng lương thực/người dưới 300 kg; GDP/người dưới 100 USD.Trong khi phân công lao động chưa phát triển và LLSX còn ở trình độ thấp thìQHSX đã được đẩy lên trình độ tập thể hóa và quốc doanh hóa là chủ yếu ( đếnnăm 1960: 85,8% nông dân vào HTX; 100% hộ tư sản được cải tạo, gần 80% thợthủ công cá thể vào HTX tiểu thủ công nghiệp). Trong bối cảnh đó, Đại hội ĐảngIII xác định rõ mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là xây dựngmột nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước đầu xây dựng cơ sở vậtchất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài, phải thựchiện qua nhiều giai đoạn.Về cơ cấu kinh tế, Đảng xác định: kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấycông nghiệp nặng làm nền tảng. (Tỷ trọng giá trị công nghiệp tăng từ 18,2% /1960lên 22,2%/1965; 26,6%/1971; 28,7%/1975)Về chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa, Hội nghị TW lần thứ 7 (khóa III) nêuphương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là:• Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.• Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.• Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển côngnghiệp nặng. (Vốn đầu tư cho công nghiệp nặng trong thời kỳ 1960 - 1975 tăng11,2 lần, cho công nghiệp nhẹ tăng 6,9 lần, nông nghiệp tăng 6 lần)• Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển côngnghiệp địa phương. (Hình thành các trung tâm công nghiệp như Hải Phòng, QuảngNinh, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định…)Về thực chất, đây là sự lựa chọn mô hình chiến lược CNH thay thế nhậpkhẩu mà nhiều nước, cả nước XHCN và nước TBCN đã và đang thực hiệnlúc đó. Chiến lược này được duy trì trong suốt 15 năm ở miền Bắc (1960 –1975) và 10 năm tiếp theo trên phạm vi cả nước ( 1976 – 1986).Trên phạm vi cả nước, sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước độc lậpthống nhất và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chiến lược “Ưu tiên phát triển côngnghiệp nặng…” tiếp tục được khẳng định lại sau 16 năm tại Đại hội IV của Đảng(1976) nhưng chính sách thì đã có thay đổi chút ít “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xãhội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinhtế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triểncông nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và côngnghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơcấu kinh tế công – nông nghiệp vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triểnkinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong mộtcơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất”.Những thay đổi trong chính sách CNH dù còn chưa thật rõ nét song cũng đã tạomột sự thay đổi nhất định trong phát triển:+ Số xí nghiệp công nghiệp quốc doanh tăng từ 1913 cơ sở năm 1976 lên 2627 cơsở năm 1980 và 3220 cơ sở năm 1985.+ 1976 – 1978 công nghiệp phát triển khá. Năm 1978 tăng 118,2% so với năm1976.Tuy nhiên, do trên thực tế chúng ta chưa có đủ điều kiện để thực hiện (nguồnviện trợ từ nước ngoài đột ngột giảm, cách thức quản lý nền kinh tế nặng tính quanliêu, bao cấp, nhiều công trình nhà nước xây dựng dở dang vì thiếu vốn, côngnghiệp trung ương giảm, nhiều mục tiêu không đạt được…) nên đây vẫn là sự biểuhiện của tư tưởng nóng vội trong việc xác định bước đi, và sai lầm trong việc lựachọn ưu tiên giữa công nghiệp và nông nghiệp. Kết quả là thời kỳ 1976 – 1980 nềnkinh tế lâm vào khủng hoảng, suy thoái, cơ cấu kinh tế mất cân đối nghiêm trọng.Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) đã xác định trong chặng đường đầu tiêncủa thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sứcphát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển côngnghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiếtthực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nộidung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Đây là bước điềuchỉnh rất đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhờ vậy, nền kinh tế quốcdân trong thời kỳ này đã có sự tăng trưởng khá hơn so với thời kỳ 5 năm trước đó.Cụ thể là:+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế 1981: 2,3%1985: 5,7%+ Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 1981: 9,5%+ Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 1981: 5,3%1985: 3%+ Năm 1985, công nghiệp nhóm A chiếm 32,7%, công nghiệp nhẹ 67,3%, tiểu thủcông nghiệp 43,5%, công nghiệp địa phương 66%, công nghiệp quốc doanh vàcông tư hợp doanh 56,5%.+ Tỷ trọng công nghiệp tăng từ 20,2%/1980 lên 30%/1985.+ Nhập khẩu lương thực giảm hẳn so với 5 năm trước (từ 5,6 triệu tấn thời kỳ1976-1980 xuống 1 triệu tấn thời kỳ 1981-1985).Tuy nhiên, trên thực tế chính sách này vẫn không có mấy thay đổi so với trước.Mặc dù nông nghiệp được xác định là mặt trận hàng đầu nhưng Đại hội vẫn xácđịnh “Xây dựng cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp hiện đại, lấy hệ thống côngnghiệp nặng tương đối phát triển làm nòng cốt”. Sự điều chỉnh không dứt khoát đóđã khiến cho nền kinh tế Việt Nam không tiến xa được bao nhiêu, trái lại còn gặpnhiều khó khăn và khuyết điểm mới, tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhândân sau 5 năm không những không ổn định được mà còn lâm vào khủng hoảngtrầm trọng. Giải pháp khắc phục- Tập trung thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng với một lộ trình và bước điphù hợp. Nâng cao hiệu quả và chất lượng của công tác xây dựng quy hoạch, kếhoạch phát triển các ngành, lĩnh vực, địa bàn theo các mục tiêu, yêu cầu về CNH,HĐH; tăng cường trao đổi thông tin, phối hợp xây dựng và triển khai quy hoạch,kế hoạch giữa các địa phương để khắc phục tình trạng cắt khúc của quy hoạch.- Tiếp tục củng cố và tái cấu trúc hệ thống tài chính, các ngân hàng thương mại đểthực hiện huy động và phân bổ các nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế - xãhội... Đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với thị trường tài chính, thịtrường bảo hiểm, thúc đẩy sự phát triển của hệ thống các thị trường tài chính theochiều sâu trên cơ sở đa dạng hóa các định chế tài chính, hàng hóa trên thị trường tàichính.- Tăng cường hiệu quả huy động, phát triển nguồn lực đẩy nhanh quá trình CNH,HĐH: Thực hiện đơn giản hóa hệ thống chính sách ưu đãi thuế, đảm bảo việc thiếtkế và tổ chức thực hiện các chính sách ưu đãi thuế được gắn chặt với các địnhhướng ưu tiên phát triển ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn theo yêu cầu của CNH,HĐH.- Hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước nhằm hạn chế sự chồng chéo trong lĩnh vựcsản xuất công nghiệp.- Tập trung thực hiên các ngày công nghiệp thế mạnh phù hợp với đất nước.- Thực hiện cải cách hành chính theo hướng: các cơ quan quản lý Nhà nước hướngmạnh về doanh nghiệp và vì doanh nghiệp.- Nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực tài chính nhà nước trong đầu tư pháttriển kinh tế - xã hội gắn với thu hút sự tham gia đầu tư của khu vực tư nhân.- Phát triển hệ thống cơ sở như giao thông, thủy lợi y tế, giáo dục.- Quy hoạch phát triển các vùng kinh tế trên phạm vi cả nước, để có quy hoạchtổng thể, đồng bộ về ngành, lĩnh vực và vùng miền.