Chú Đại Bi nghĩa là gì

Chú Đại Bi là một bài kinh trì niệm quen thuộc với những người tín Phật. Vậy, nghe Chú Đại Bi có tác dụng gì? Ý nghĩa của Chú Đại Bi là gì?

>> Xem thêm: Lịch âm dương - Lịch vạn niên - Âm lịch hôm nay

Chú Đại Bi là gì?

Chú Đại Bi, hay Đại Bi Tâm Đà La Ni (Maha Karunika citta Dharani), là bài chú căn bản minh họa công đức nội chứng của Đức Quán Tự Tại Bồ Tát (Avalokiteśvara Bodhisatva). Bài chú này còn có các tên gọi là: Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni, Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Thanh Cảnh Đà La Ni…

Chân ngôn này được trích từ Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Kinh. Theo đó, bài chú này được Bồ Tát Quán Thế Âm đọc trước một cuộc tập họp của các Phật, Bồ Tát, các thần và vương. Chú Đại Bi là chân ngôn phổ biến cùng với Phật Quán Thế Âm ở Đông Á, thường được dùng để bảo vệ hoặc để làm thanh tịnh.

Chú Đại Bi thường dùng chính là Tâm Chú của Đức Thanh Cảnh Quán Tự Tại Bồ Tát (Nìlakantha Avalokite’svara Bodhisatva) chủ yếu do hai ngài Bất Không Kim Cương và Kim Cương Trí dịch vào khoảng giữa thế kỷ thứ 6. Các bản này được lưu truyền dưới 2 dạng là bản dài với bản ngắn.

Bản dài (quảng bản) được ghi nhận qua các bài:

  • Thanh Cảnh Quán Tự Tại Bồ Tát Đà La Ni, Bất Không Kim Cương dịch.
  • Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Nễ La Kiến Tha Đà La Ni, Kim Cương Trí dịch.
  • Quán Tự Tại Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Chỉ Không dịch.
  • Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Chú, Kim Cương Trí dịch.

Bản ngắn (lược bản) được ghi nhận qua các bài:

  • Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Tự Tại Vương Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Tự Tại Thanh Cảnh Đại Bi Tâm Đà La Ni, Bất Không Kim Cương dịch.
  • Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà La Ni, Bất Không dịch.
  • Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Già Phạm Đạt Ma dịch.

Do các bản Chú Văn có nhiều loại phiên dịch nên chương cú cũng dựa theo các Kinh Văn mà có sự khác biệt kể cả số lượng câu và Phạn Ngữ. Tuy nhiên, bản phổ biến nhất hiện nay là bản kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, do ngài Già Phạm Đạt Ma dịch từ thời Đường, bao gồm 84 câu.

>> Tham khảo: 

Ý nghĩa và tác dụng của kinh Chú Đại Bi

Bồ Tát Quán Thế Âm vì tâm đại bi đối với chúng sinh, muốn cho chúng sinh được thành tựu tất cả các thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu mà nói ra Thần Chú này. Trong kinh ngài Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn, tôi có Chú Đại Bi tâm đà ra ni, nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sanh được an vui, được trừ tất cả bệnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi doãn hứa.”, rồi sau đó đọc Chú Đại Bi.

Bồ Tát thuyết chú xong, cõi đất sáu phen biến động, trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác, mười phương chư Phật thảy đều vui mừng, thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc. Tất cả chúng hội đều được quả chứng.

Theo kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, người trì tụng Chú Đại Bi sẽ được 15 điều lành, không bị 15 thứ hoạnh tử bức hại.

15 điều lành bao gồm:

  • Sinh ra thường được gặp vua hiền.
  • Thường sinh vào nước an ổn.
  • Thường gặp vận may.
  • Thường gặp được bạn tốt.
  • Sáu căn đầy đủ.
  • Tâm đạo thuần thục.
  • Không phạm giới cấm.
  • Bà con hòa thuận thương yêu.
  • Của cải thức ăn thường được sung túc.
  • Thường được người khác cung kính, giúp đỡ.
  • Có của báu không bị cướp đoạt.
  • Cầu gì đều được toại ý.
  • Long, Thiên, thiện thần thường theo hộ vệ.
  • Được gặp Phật nghe pháp.
  • Nghe Chánh pháp ngộ được nghĩa thâm sâu.

15 thứ hoạnh tử gồm:

  • Chết vì đói khát khốn khổ.
  • Chết vì bị gông cùm, giam cầm đánh đập.
  • Chết vì oan gia báo thù.
  • Chết vì chiến trận.
  • Chết vì bị ác thú hổ, lang sói làm hại.
  • Chết vì rắn độc, bò cạp.
  • Chết trôi, chết cháy.
  • Chết vì bị thuốc độc.
  • Chết vì trùng độc làm hại.
  • Chết vì điên loạn mất trí.
  • Chết vì té từ cây cao hoặc rớt xuống vực thẳm.
  • Chết vì người ác trù ếm.
  • Chết vì tà thần, ác quỷ làm hại.
  • Chết vì bệnh nặng bức bách.
  • Chết vì tự tử.

Nói dễ hiểu hơn thì khi trì niệm lời kinh sẽ giúp hóa giải chướng nghiệp, tiêu trừ ác duyên, nhận được phước đức và chết thì sinh Cực Lạc… nếu biết trì niệm một cách thành tâm và luôn hướng Phật, hướng thiện. Ngoài ra, trì niệm Chú Đại Bi còn là một cách giúp tâm thanh tịnh, đoạn trừ phiền não. Khi tâm thanh tịnh sẽ tạo ra thế giới bình “tướng tự tâm sanh”, mây tan thì ắt trăng sẽ tỏa sáng.

>> Xem thêm:

Những lưu ý khi trì niệm Chú Đại Bi

Trong phần hình trạng tướng mạo đã chỉ rõ mười đặc tính cốt yếu của Chú Đại Bi, trong đó, quan trọng hàng đầu là tâm Đại Từ Bi. Vì vậy, mỗi lần trì tụng thần chú này, hành giả phải bắt đầu hướng tâm vào việc quán tưởng khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh. Một cách lý tưởng, để đạt được những công năng mà thần chú mang lại, trong thời gian trì tụng, hành giả phải:

  • Giữ gìn giới hạnh, đặc biệt là sát, đạo, dâm, vọng.
  • Phải kiêng cữ rượu thịt, các thứ hành, hẹ, tỏi, cùng các thức ăn hôi hám. Tốt nhất là nên ăn chay.
  • Phải giữ vệ sinh thân thể, thường xuyên tắm gội, thay đổi y phục sạch sẽ, không nên để cho trong người có mùi hôi. 
  • Trước khi trì chú cũng phải đánh răng, súc miệng sạch sẽ, nếu trước đó có đi đại tiện, tiểu tiện thì phải rửa tay sạch sẽ trước khi trì tụng.

Tuy nhiên, như phần trên đã nói, Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng Chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện. Chính vì vậy, điều này cho phép hành giả có thể trì tụng bất cứ lúc nào mà điều kiện cho phép, ví dụ như trên xe, trên tàu, trên máy bay, tại công sở, tại nhà...

Với tâm thành, tâm chúng ta lúc đó sẽ hòa nhập vào lời trì tụng để cùng thể nhập vào pháp giới, mười phương chư Phật. Bởi vì Bồ Tát đã cho chúng ta biết, mỗi lần trì tụng Chú Đại Bi, thập phương chư Phật đều đến chứng minh cho lòng thành của chúng ta.

Khi trì tụng Chú Đại Bi, chúng ta nên trì tụng lớn tiếng, giọng điệu trầm hùng, nhanh và liên tục bằng cách lấy hơi từ bụng ra. Lớn tiếng ở đây không có nghĩa là phải la lớn lên, nhưng giọng đọc phải rõ ràng, nghe đủ tiếng, không lờ mờ, trại giọng.

Sau đây, mời bạn cùng META nghe bản Chú Đại Bi 21 biến 84 câu (có chữ).

Video lời Chú Đại Bi 21 biến tiếng Việt có chữ dễ đọc. 

Ngoài ra, bạn cũng có thể download Chú Đại Bi bản MP3 TẠI ĐÂY để nghe hằng ngày.

>> Xem thêm:

Qua bài viết trên đây, chắc hẳn bạn đã hiểu được nguồn gốc, ý nghĩa và tác dụng khi nghe Chú Đại Bi thường xuyên rồi phải không? Hy vọng rằng qua việc hiểu rõ ý nghĩa của Chú Đại Bi, bạn sẽ biết cách tu tập đạt hiệu quả cao hơn. Đừng quên sử dụng tai nghe, loa nghe nhạc... của META.vn để hỗ trợ trong quá trình bạn trì niệm bài kinh Chú Đại Bi nhé! Chi tiết xin tham khảo tại website hoặc liên hệ hotline dưới đây để được hỗ trợ.

Tại Hà Nội:

56 Duy Tân, Dịch Vọng Hậu, Cầu Giấy

Điện thoại: 024.3568.6969

Tại TP. HCM:

716-718 Điện Biên Phủ, Phường 10, Quận 10

Điện thoại: 028.3833.6666

303 Hùng Vương, Phường 9, Quận 5

Điện thoại: 028.3833.6666

>> Tham khảo thêm:

Gửi bình luận

Xem thêm: ý nghĩa của chú đại bi, thiết bị số, loa nghe nhạc, tai nghe nhạc

Chú Đại Bi đề cập đến lời tụng của Thanh Cảnh Quan Âm. Theo kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, bài chú này được Bồ tát Quán Thế Âm đọc trước một cuộc Hội kiến của các Phật, bồ tát, các thần và vương. Cũng như câu Om Mani Padme Hum rất phổ biến ngày nay, Đại Bi chú là chân ngôn phổ biến cùng với phật Quán Thế Âm ở Đông Á, bài chú này thường được dùng để bảo vệ hoặc để làm thanh tịnh, quả báo phước đức của người trì tụng chú thật không thể nghĩ bàn!

Chú Đại Bi nghĩa là gì

Chú đại bi được khắc trên bia. Đền Fo Ding Shan Chao Sheng ở thị trấn Sanyi, Đài Loan. Được dựng vào tháng 6 năm 2005.

Chú Đại Bi (tiếng Phạn: महा करुणा धारनी, Mahā Karuṇā Dhāranī) hay Đại Bi Tâm Đà La Ni (Mahā Karuṇā-citta Dhāranī), tên gọi đầy đủ Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bố Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh Đại Bi Thần Chú, còn được gọi là Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm Đại Bi Chú (Sahasrabhuja Sahasranetra Avalokiteśvara Mahā Karuṇā Dhāranī), Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Vô Ngại Đại Bi Đà La Ni, Quảng Đại Viên Mãn Đà La Ni, Mãn Nguyện Đà La Ni, Tùy Tâm Tự Tại Đà La Ni, Cứu Khổ Đà La Ni, Diên Thọ Đà La Ni, Diệt Ác Thú Đà La Ni, Phá Ác Nghiệp Chướng Đà La Ni, Tốc Siêu Thập Địa Đà La Ni, là tên gọi của Thanh Cảnh Quan Âm Đại Bi Chú (tiếng Phạn: नीलकण्ठ धारनी,Nīlakaṇṭha Dhāraṇī) tên gọi khác là Thanh Cảnh Đà La Ni. Tại Bán đảo Triều Tiên thường được gọi là Thần Diệu Chương Cú Đại Đà La Ni (tiếng Triều Tiên: 신묘장구대다라니) là bài chú trong "Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh" ("Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh") của Phật giáo Đại thừa, có 84 câu được soạn bằng tiếng Phạn.

Nguồn gốc

Trong Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh Đức Phật Đà nói với Tôn giả A-nan-đà: "như là thần chú, có nhiều tên gọi khác nhau: tên là Quảng Đại Viên Mãn, tên là Vô Ngại Đại Bi, tên là Cứu Khổ Đà La Ni, tên là Diên Thọ Đà La Ni, Diệt Ác Thú Đà La Ni, Phá Ác Nghiệp Chướng Đà La Ni, Mãn Nguyện Đà La Ni, Tùy Tâm Tự Tại Đà La Ni, Tốc Siêu Thập Địa Đà La Ni".

Tên của chú này thể hiện sức mạnh từ bi vĩ đại của Quán Thế Âm Bồ Tát mong muốn hạnh phúc và lợi ích cho tất cả chúng sinh, không có chướng ngại cho lòng đại bi, và thần chú này không chỉ có thể tiêu trừ mọi tai họa, mà còn tất cả các nghiệp ác; Và nó có thể đáp ứng mọi pháp thiện và thực hiện mong muốn của mọi người; tránh xa mọi nỗi sợ hãi oán hận, đức uy thần nhanh chóng lên đến Cõi Phật. Người ngày nay được đặt tên theo tên viết tắt của "Chú Đại Bi", được đặt tên theo sức mạnh từ bi của Bồ tát Quán Thế Âm đối với tất cả chúng sinh.

Chú này được tuyên thuyết bởi 99 ức hằng hà sa chư Phật đời quá khứ, sau vào lúc tịnh độ của Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai, Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai truyền thụ cho Quan Thế Âm Bồ Tát "Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Đà La Ni", và nói rằng "Thiện Nam Tử, ông nên thọ trì tâm chú này để rộng vì hết thảy chúng sanh trong đời ác vị lai mà làm cho họ an vui và được sự lợi ích lớn". Vào lúc bấy giờ sau khi nghe chú, Quan Thế Âm Bồ Tát đang ở Địa Thứ Nhất, liền siêu vượt đến Địa Thứ Tám. Vì vậy tâm sanh hoan hỷ, liền phát lời thệ nguyện rằng "Vào đời vị lai, nếu con có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh, thì hãy khiến thân con lập tức đầy đủ ngàn tay ngàn mắt", Sau khi phát nguyện xong, trên thân tức khắc đều trọn đủ ngàn tay ngàn mắt. Khắp các quốc độ trong mười phương, đại địa chấn động sáu cách. Chư Phật trong mười phương đều phóng quang minh vô lượng chiếu đến thân chiếu soi vô biên thế giới khắp mười phương.

Chân ngôn này được trích từ Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Kinh. Trong kinh ngài Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn, con có chú Đại Bi tâm đà ra ni, nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sanh được an vui, được trừ tất cả bệnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi doãn hứa.", rồi sau đó đọc Chú Đại Bi.[1]

"Bồ tát thuyết chú xong, cõi đất sáu phen biến động, trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác, mười phương chư Phật thảy đều vui mừng, thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc. Tất cả chúng hội đều được quả chứng."[1]

Phiên bản tiếng Việt của Chú Đại bi như sau:[2]

Thiên thủ Thiên nhãn vô ngại Đại bi Tâm Đà la ni

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế thước bác ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án. tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.

Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da. Bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì. hế rị ma ha bàn đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng. a thể dựng, tát bà tát đa na ma bà già. ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án! a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng. cu lô cu lô kiết mông. độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ, Bồ đà dạ bồ đà dạ, Di đế rị dạ, na ra cẩn trì. địa rị sắc ni na, Ba dạ ma na. ta bà ha. Tất đà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ. ta bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. ta bà ha. Na ra cẩn trì. Ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ. Ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ. Ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, Ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Ta bà ha. Ma bà lợi (lị) thắng yết ra dạ. Ta bà ha.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da, Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, Ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.

Chú Đại Bi thường dùng chính là Tâm Chú của Đức Thanh Cảnh Quán Tự Tại Bồ Tát (Nìlakantha Avalokite’svara Bodhisatva) chủ yếu do hai ngài Bất Không Kim Cương và Kim Cương Trí dịch vào khoảng giữa thế kỷ thứ 6. Các bản này được lưu truyền dưới 2 dạng là bản dài với bản ngắn:

1) Bản dài (quảng bản) được ghi nhận qua các bài:

  • Thanh Cảnh Quán Tự Tại Bồ Tát Đà La Ni, Bất Không Kim Cương dịch.
  • Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Nễ La Kiến Tha Đà La Ni, Kim Cương Trí dịch.
  • Quán Tự Tại Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Chỉ Không dịch.
  • Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Chú, Kim Cương Trí dịch.

2) Bản ngắn (lược bản) được ghi nhận qua các bài:

  • Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Tự Tại Vương Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Tự Tại Thanh Cảnh Đại Bi Tâm Đà La Ni, Bất Không Kim Cương dịch.
  • Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà La Ni, Bất Không dịch.
  • Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Già Phạm Đạt Ma dịch.

Do các bản Chú Văn có nhiều loại phiên dịch nên chương cú cũng dựa theo các Kinh Văn mà có sự khác biệt kể cả số lượng câu và Phạn Ngữ.

Mỗi hình tượng của đức quán thế âm bồ tát lại cầm các pháp bảo như chuông loa,loa ốc,bàng bài,nhành dương liễu và tịnh bình,...v.v Mỗi pháp bảo ấy tượng trưng cho 42 thủ nhãn ấn pháp của đức quán âm nghìn tay nghìn mắt

Văn bản tiếng Phạn được tái tạo

Sau đây là phần tái hiện văn bản bằng tiếng Phạn IAST dựa trên các công trình của sử gia Lê Tự Hỷ (Vn))[3] và Lokesh Chandra (Ấn Độ)[4] · [5]. Nó được chia thành 18 câu có cấu trúc ngữ pháp, không giống trường hợp của văn bản chuyển ngữ được đọc trong các nghi lễ tôn giáo, được chia thành 84 câu, để tôn trọng nhịp điệu thuận theo quy định của nghi lễ (Người ta có thể nhận thấy rằng các thuật ngữ "dhāraī "và" mantra "được sử dụng luân phiên).

  • I. Lời chào mở đầu:
01. Namo ratna-trayāya 02. Nama āryāvalokiteśvarāya bodhisattvāya mahā-sattvāya mahā-kāruṇikāya
  • II. Danh hiệu của đức Quán Tự Tại:
03. Oṃ sarva-bhayeṣu trāṇa-karāya tasya namaskṛtvā imam Āryāvalokiteśvara-stavanaṃ Nīlakaṇṭha-nāma
  • III. Sự tụng lên câu kệ về Công đức của bài Tâm Chú
04. hṛdayaṃ vartayisyāmi sarvārtha-sādhanaṃ śubham 05. ajeyam sarva-bhūtānām bhava-mārga-viśodhakam
  • IV. Dhāraṇī (Các câu chú):
06. Tadyathā: Om Ālokapate lokātikrānta 07. Ehi Hare mahā-bodhisattva sarpa-sarpa smara- smara mama hṛdayam 08. Kuru-kuru karma dhuru-dhuru vijayate mahā-vijayate 09. Dhara-dhara dharaṇī-rāja cala-cala mama vimala-mūrte 10. ehi ehi kṛṣṇa-sarpopavīta viṣa- viṣaṃ praṇāśaya 11. Hulu-hulu Malla hulu-hulu Hare sara-sara siri-siri suru-suru 12. Bodhiya-bodhiya bodhaya-bodhaya maitreya Nīlakaṇṭha darśanena prahlādaya manaḥ svāhā 13. siddhāya svāhā mahā-siddhāya svāhā siddhayogīśvarāya svāhā 14. Nīlakaṇṭhāya svāhā varāha-mukhāya svāhā narasiṃha-mukhāya svāhā 15. Gada-hastāya svāhā cakra-hastāya svāhā padma-hastāya svāhā 16. Nīlakaṇṭha-vyāghrāya svāhā Mahābali-Śaṅkarāya svāhā
  • V. Lời chào kết thúc:
17. Namo ratna-trayāya Nama āryāvalokiteśvarāya bodhisattvāya svāhā 18. Oṃ sidhyantu me mantra padāni svāhā.

Nếu ai tụng trì thần chú đại bi, sẽ được 15 chỗ sanh tốt.

  1. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp đấng quốc vương hiền lành.
  2. Tùy theo chỗ sanh, thường ở cõi nước an lành.
  3. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp thời đại tốt,
  4. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp bạn lành.
  5. Tùy theo chỗ sanh, thân căn thường được đầy đủ.
  6. Tùy theo chỗ sanh, đạo tâm thuần thục.
  7. Tùy theo chỗ sanh, không phạm cấm giới.
  8. Tùy theo chỗ sanh, thường được quyến thuộc hòa thuận, có ân nghĩa.
  9. Tùy theo chỗ sanh, vật dụng, thức ăn uống thường được đầy đủ.
  10. Tùy theo chỗ sanh, thường được người cung kính giúp đỡ.
  11. Tùy theo chỗ sanh, tiền của châu báu không bị kẻ khác cướp đoạt.
  12. Tùy theo chỗ sanh, những việc mong cầu đều được toại nguyện.
  13. Tùy theo chỗ sanh, long thiên, thiện thần thường theo ủng hộ.
  14. Tùy theo chỗ sanh, thường được thấy Phật nghe pháp.
  15. Tùy theo chỗ sanh, khi nghe chánh pháp ngộ giải nghĩa sâu.

Thập ngũ việc chết xấu

Theo "Kinh Đại bi tâm Đà la ni" nếu người tụng trì thần chú Đại Bi, thì không bị 15 việc chết xấu, sẽ được 15 chỗ sanh tốt. Việc chết xấu là

  1. Không bị chết do đói khát khốn khổ.
  2. Không bị chết do gông tù đánh đập.
  3. Không bị chết vì oan gia thù địch.
  4. Không bị chết giữa quân trận chém giết nhau.
  5. Không bị chết do cọp sói cùng ác thú tàn hại.
  6. Không bị chết bởi rắn rít độc cắn.
  7. Không bị chết vì nước trôi lửa cháy.
  8. Không bị chết bởi phạm nhằm thuốc độc.
  9. Không bị chết do loài sâu trùng độc làm hại.
  10. Không bị chết vì điên cuồng mê loạn.
  11. Không bị chết do té cây, té xuống núi.
  12. Không bị chết bởi người ác trù ếm.
  13. Không bị chết bởi tà thần, ác quỷ làm hại.
  14. Không bị chết vì bịnh ác lâm thân.
  15. Không bị chết vì phi mạng tự hại.

Lợi ích khác

Theo "Kinh Đại bi tâm Đà la ni" người tụng trì thần chú Đại bi có những lợi ích sau:

  1. Diệt trừ được tội nặng trong ngàn muôn ức kiếp sanh tử.
  2. Không bị đọa vào 3 đường ác, được sanh về các cõi Phật.
  3. Được vô lượng tam muội biện tài, được tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, được vừa ý. Duy trừ cầu những việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí thành
  4. Diệt trừ tội xâm tổn tài vật, thức ăn uống của thường trụ.
  5. Không liền diệt được tội nặng, cũng có thể làm nhân bồ đề về kiếp xa sau.
  6. Chuyển đổi thân gái thành thân trai, biến thành nam tử.

Nay do tụng trì chú Đại Bi liền được trừ diệt. Tại sao thế? Bởi khi tụng chú Đại Bi tâm đà ra ni, 10 phương đạo sư đều đến vì làm chứng minh, nên tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt. Chúng sanh nào tụng chú này, tất cả tội thập ác ngũ nghịch, báng pháp, phá người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ, làm nhơ phạm hạnh, bao nhiêu tội ác nghiệp nặng như thế đều được tiêu hết, duy trừ một việc: kẻ tụng đối với chú còn sanh lòng nghi. Nếu có sanh tâm ấy, thì tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu, huống chi tội nặng? Nhưng tuy không liền diệt được tội nặng, cũng có thể làm nhân bồ đề về kiếp xa sau.

  1. ^ a b Việt Dịch: HT. Thích Thiền Tâm. “KINH THIÊN THỦ THIÊN NHÃN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ÐẠI VIÊN MÃN ĐẠI BI TÂM ÐÀ LA NI”. line feed character trong |tiêu đề= tại ký tự số 26 (trợ giúp)
  2. ^ Kinh Dược Sư. Rộng Mở Tâm Hồn. tr. 9–11.
  3. ^ Lê Tự Hỷ: Chú Đại Bi: Về Bản Phạn Văn Và Ý Nghĩa Của Chú Đại Bi.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFLê_Tự_Hỷ:_Chú_Đại_Bi:_Về_Bản_Phạn_Văn_Và_Ý_Nghĩa_Của_Chú_Đại_Bi. (trợ giúp)
  4. ^ Lokesh Chandra 1979, tr. 10-14.
  5. ^ Lokesh Chandra 1988, tr. 93-94, 240.

  • Lê Tự Hỷ (2020). Kinh A Di Đà Phạn. TP Hồ Chí Minh: Hồng Đức, Tu Viện Huệ Quang, 116 Hòa Bình, Phú Trung, Tân Phú.
    (và cả: Lê Tự Hỷ, Chú Đại Bi: Về Bản Phạn Văn Và Ý Nghĩa Của Chú Đại Bi).
  • Lokesh Chandra (1979). Origin of Avalokitesvara of Potala (bằng tiếng Anh). New Delhi, Ấn Độ: Abhinav Publications, Indira Gandhi National Centre for the Arts. tr. 21.
  • Lokesh Chandra (1988). The Thousand-armed Avalokiteśvara, Volume1 (bằng tiếng Anh). New Delhi, Ấn Độ: Abhinav Publications, Indira Gandhi National Centre for the Arts. tr. 303. ISBN 9788170172475. và The Thousand-armed Avalokiteśvara (archive.org Internet Archive).

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Chú_đại_bi&oldid=68295196”