Công cụ của phương pháp vấn đáp

» Câu 6 Nội dung cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng

by hoangsieudk1993 31/5/2013, 5:07 pm

» Câu 5 : chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng ta trong những năm 1939 – 1945


by hoangsieudk1993 31/5/2013, 5:00 pm

» Câu 4 : mục tiêu, quan điểm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới.


by hoangsieudk1993 31/5/2013, 4:50 pm

» Câu 3 : bày kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.


by hoangsieudk1993 31/5/2013, 4:46 pm

» Câu 1: VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


by hoangsieudk1993 31/5/2013, 4:37 pm

» Tư tưởng hồ chí minh về đạo đức


by onlylove 15/12/2012, 10:01 am

» TT Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và vì dân.


by onlylove 15/12/2012, 9:59 am

» Tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc


by onlylove 15/12/2012, 9:55 am

» TT Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc


by onlylove 15/12/2012, 9:52 am

» Câu : Các khâu của quá trình giáo dục[logic của quá trình GD]


by onlylove 12/12/2012, 8:45 pm

» Câu 4: Phương pháp giáo dục[ khái niệm , phương pháp luyện tập , pp khuyên bảo] ?


by onlylove 12/12/2012, 5:30 pm

» Câu 3: Mục đích con người giáo dục đạo đức, thể chất cho HS THCS ?


by onlylove 12/12/2012, 5:29 pm

Page 2

» Câu 6 Nội dung cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng

by hoangsieudk1993 31/5/2013, 5:07 pm

» Câu 5 : chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng ta trong những năm 1939 – 1945


by hoangsieudk1993 31/5/2013, 5:00 pm

» Câu 4 : mục tiêu, quan điểm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới.


by hoangsieudk1993 31/5/2013, 4:50 pm

» Câu 3 : bày kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.


by hoangsieudk1993 31/5/2013, 4:46 pm

» Câu 1: VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


by hoangsieudk1993 31/5/2013, 4:37 pm

» Tư tưởng hồ chí minh về đạo đức


by onlylove 15/12/2012, 10:01 am

» TT Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và vì dân.


by onlylove 15/12/2012, 9:59 am

» Tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc


by onlylove 15/12/2012, 9:55 am

» TT Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc


by onlylove 15/12/2012, 9:52 am

» Câu : Các khâu của quá trình giáo dục[logic của quá trình GD]


by onlylove 12/12/2012, 8:45 pm

» Câu 4: Phương pháp giáo dục[ khái niệm , phương pháp luyện tập , pp khuyên bảo] ?


by onlylove 12/12/2012, 5:30 pm

» Câu 3: Mục đích con người giáo dục đạo đức, thể chất cho HS THCS ?


by onlylove 12/12/2012, 5:29 pm

Ngân hàng câu hỏi ôn tập Mô đun 3 gồm những câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn, trắc nghiệm đúng sai, trắc nghiệm điền khuyết khi học tập module 3. Mời các thầy cô tham khảo để hoàn thành việc tập huấn mô đun 3 tốt nhất.

b./ GV có thể điều chỉnh hoạt động để đạt mục tiêu hiệu quả hơn.

………………………………………………………………………………………

Phương pháp vấn đáp là quá trình tương tác giữa giáo viên và học sinh được thực hiện thông qua hệ thống câu hỏi và câu trả lời tương ứng về một chủ đề nhất định được giáo viên đặt ra.

Có 3 loại vấn đáp: Vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích minh họa và vấn đáp tìm tòi

Vấn đáp tái hiện: Được thực hiện khi những câu hỏi do giáo viên đặt ra chỉ yêu cầu học sinh nhắc lại kiến thức

Vấn đáp giải thích minh họa được thực hiện khi những câu hỏi giáo viên đặt ra có kèm theo các VD minh họa [bằng lời hay bằng hình ảnh trực quan] giúp học sinh dễ hiểu, dễ ghi nhớ

Vấn đáp tìm tòi [ hay vấn đáp phát hiện] là loại vấn đáp mà giáo viên tổ chức sự trao đổi ý kiến giữa thầy với cả lớp, giữa trò với trò

Rèn luyện tư duy cho học sinh qua các tài liệu có sẵn hoặc do học sinh tự tìm tòi

Kích thích tính tích cực của học sinh trong học tập

Bồi dưỡng năng lực diễn đạt bằng lời cho học sinh một cách chính xác, đầy đủ, xúc tích

Tạo tương tác hai chiều cho cả giáo viên và học sinh giúp giáo viên điều chỉnh bài giảng của mình cho phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh

Theo dõi sát quá trình học tập của học sinh

I.2. Những yêu cầu đối với hình thức kiểm tra vấn đáp

Hoạt động của giáo viên trong lúc kiểm tra vấn đáp rất phức tạp, vì thế

người giáo viên phải chuẩn bị cho việc hỏi miệng thật cẩn thận, chu đáo

không kém gì việc chuẩn bị bài mới. Sau đây là một số yêu cầu cụ thể đối với

hình thức kiểm tra vấn đáp:

– Trước hết, phải xác định thật chính xác các kiến thức cần kiểm tra, qua

đó chính xác hoá, củng cố kiến thức đã thu nhận được, rèn luyện kỹ năng

trình bày mạch lạc và chuẩn bị để tiếp thu kiến thức mới.

– Câu hỏi đặt ra phải chính xác, rõ ràng để học sinh không thể hiểu theo

nhiều nghĩa khác nhau dẫn đến trả lời lạc đề.

– Những câu hỏi, bài tập giáo viên nêu ra kích thích tích cực tư duy của

học sinh.

– Câu hỏi nêu lên phải phù hợp với từng đối tượng học sinh. Giáo viên

cần theo dõi lắng nghe câu trả lời của học sinh, tạo điều kiện cho họ bộc lộ

một cách tự nhiên, đầy đủ nhất những hiểu biết của họ. Sau khi học sinh trả

lời, giáo viên phải uốn nắn, bổ sung kiến thức, hướng dẫn học sinh câu trả lời

ngắn gọn, xúc tích.

– Trong khi hỏi vấn đáp, giáo viên có thể nêu ra những câu hỏi bổ sung,

đặc biệt những câu hỏi yêu cầu học sinh phải vận dụng kiến thức suy nghĩ tích

cực.

I.3. Ƣu điểm và nhƣợc điểm của kiểm tra vấn đáp

I.3.1. Ƣu điểm

– Bồi dưỡng năng lực diễn đạt kiến thức bằng lời nói, giúp học sinh trau dồi

phản ứng nhanh chóng trước câu hỏi, phát triển ngôn ngữ nói mạch lạc, tập

cho học sinh trình bày vấn đề một cách thuyết phục.

– Đối với những câu hỏi tương đối phức tạp, qua câu trả lời của học sinh,

giáo viên đánh giá được sự hiểu biết và kĩ năng diễn đạt kiến thức theo một

trình tự logic, cách lập luận những quan điểm lý thuyết một cách thuyết phục.

19

– Kiểm tra vấn đáp có tác dụng tốt trong việc hoàn thiện kiến thức cho học

sinh, nghĩa là trong khi nghe bạn trả lời, các học sinh khác có thể tự củng cố

hoặc bổ sung kiến thức của bản thân.

– Vận dụng khéo léo hình thức kiểm tra vấn đáp sẽ phát huy được tính tích cực,

độc lập, đồng thời tạo ra bầu không khí sôi nổi trong học tập của học sinh.

– Thông qua kiểm tra vấn đáp, giáo viên nhanh chóng nhận được những

thông tin, tín hiệu ngược từ phía người học để kịp thời chỉnh sửa hoạt động

giảng dạy và học tập phù hợp với mục đích dạy học.

– Kiểm tra vấn đáp có thể kiểm tra được kiến thức rộng hơn so với kiểm tra viết.

I.3.2. Nhƣợc điểm

– Kiểm tra vấn đáp không phát triển cho học sinh năng lực trình bày, hệ

thống hóa kiến thức, năng lực diễn đạt kiến thức bằng văn viết.

– Nếu các bài thi học kì, thi cuối năm sử dụng hình thức kiểm tra vấn đáp sẽ

mất nhiều thời gian hoặc trên lớp với thời gian hạn chế người giáo viên chỉ có

thể sử dụng một số ít câu hỏi với một số học sinh hạn chế. Đôi khi việc kiểm

tra vấn đáp có thể bị kéo dài do học sinh chuẩn bị bài không tốt, giáo viên lại

không muốn đánh giá không đúng về học sinh nên kiểm tra chi tiết hơn, như

vậy ảnh hưởng đến thời gian giảng bài mới.

II. Quan sát

– Là hình thức kiểm tra giúp giáo viên xác định được những thái độ, những

khó khăn, những phản ứng vô thức, những kĩ năng thực hành và một số kĩ

năng khác về nhận thức: chẳng hạn cách giải quyết một vấn đề trong một tình

huống đang được nghiên cứu.

– Đối với hóa học – môn khoa học thực nghiệm, phương pháp quan sát có ý

nghĩa rất quan trọng. Qua việc quan sát các kĩ năng thí nghiệm của học sinh,

người giáo viên có thể đánh giá được hứng thú, nhiệt tình, thái độ học tập và

một phần nào kết quả học tập của học sinh. Hoặc qua việc quan sát thái độ

của học sinh khi đi thực tế tham quan các nhà máy, các dây chuyền sản xuất

20

hoặc các hoạt động ngoại khóa hóa học, giáo viên có thể đánh giá được một

số mặt ở học sinh.

III. Kiểm tra viết

III.1. Khái niệm

– Trắc nghiệm [Test] là hình thức đo đạc được “tiêu chuẩn hoá”cho mỗi cá

nhân học sinh bằng “điểm”.

– Mục tiêu của trắc nghiệm là đánh giá kiến thức và kỹ năng của học sinh.

– Các câu hỏi trắc nghiệm có thể chia làm 2 loại:

1. Câu hỏi trắc nghiệm tự luận

2. Câu hỏi trắc nghiệm khách quan

III.2. Trắc nghiệm tự luận

III.2.1. Khái niệm

– Trắc nghiệm tự luận là phương pháp đánh giá kết quả học tập bằng việc

sử dụng công cụ đo lường là các câu hỏi, học sinh trả lời dưới dạng bài viết

trong một khoảng thời gian đã định trước.

– Trắc nghiệm tự luận cho phép có một sự tự do tương đối nào đó để trả

lời một vấn đề đặt ra, đồng thời đòi hỏi học sinh phải nhớ lại kiến thức, phải

biết sắp xếp và diễn đạt ý kiến của mình một cách chính xác rõ ràng.

– Bài trắc nghiệm tự luận trong một chừng mực nào đó được chấm điểm

một cách chủ quan, điểm số được chấm bởi những người chấm khác nhau có

thể không thống nhất. Một bài tự luận thường có ít câu hỏi vì phải mất nhiều

thời gian để viết câu trả lời.

– Khi viết câu hỏi tự luận, giáo viên cần phải diễn đạt câu hỏi một cách

rõ nghĩa, đầy đủ, cần làm rõ những yêu cầu trong câu trả lời cả về độ dài của

nó; việc chấm bài tốn thời gian.

III.2.2. Các dạng câu hỏi trắc nghiệm tự luận

a] Câu hỏi tự luận có sự trả lời mở rộng: loại câu này có phạm vi tương

đối rộng và khái quát học sinh được tự do diễn đạt tư tưởng và kiến thức trong

21

câu trả lời nên có thể phát huy óc sáng tạo và suy luận. Loại câu trả lời này

được gọi là tiểu luận.

b] Câu tự luận với sự trả lời có giới hạn: loại này thường có nhiều câu

hỏi với nội dung tương đối hẹp. Mỗi câu trả lời là một đoạn ngắn nên việc

chấm điểm dễ hơn.

Có 3 loại câu trả lời có giới hạn:

Loại câu điền thêm và trả lời đơn giản. Đó là một nhận định viết dưới

dạng mệnh đề không đầy đủ hay một câu hỏi được đặt ra mà học sinh phải trả

lời bằng một câu hay một từ [trong trắc nghiệm khách quan được gọi là câu

điền khuyết].

Loại câu từ trả lời đoạn ngắn trong đó học sinh có thể trả lời bằng hai

hoặc ba câu trong giới hạn của giáo viên.

Giải bài toán có liên quan tới trị số có tính toán số học để ra một kết

quả cụ thể đúng theo yêu cầu của đề bài.

III.2.3. Ƣu nhƣợc điểm của trắc nghiệm tự luận

a] Ƣu điểm

– Trong một khoảng thời gian nhất định có thể kiểm tra với số lượng lớn

học sinh trong lớp, trong một thời gian ngắn, tốn ít thời gian và công sức cho

việc chuẩn bị đề của giáo viên.

– Phát huy được độc lập tư duy sáng tạo của học sinh

– Qua bài làm của học sinh giáo viên có thể đánh giá được trình độ kiến

thức, kỹ năng, sự phát triển ngôn ngữ, cách diễn đạt vấn đề của học sinh Đồng

thời qua bài làm của học sinh, giáo viên có thể năng lực nhận thức của của

sinh: phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống hóa kiến thức

– Kiểm tra bằng tự luận tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy

logic. Trong quá trình kiểm tra, học sinh chăm chú vào bài làm hơn,suy luận

dễ dàng hơn, suy nghĩ kĩ hơn về cách giải và trả lời chính xác hơn.

22

– Trắc nghiệm tự luận không những kiểm tra được mức độ chính xác

của kiến thức mà còn kiểm tra được kỹ năng giải bài định tính cũng như

định lượng của học sinh.

– Qua kiểm tra bằng tự luận có thể kiểm tra – đánh giá các mục tiêu liên

quan đến thái độ, sự hiểu biết những ý niệm, sở thích.

b] Nhƣợc điểm

– Chỉ kiểm tra được một phần kiến thức nhất định nào đó trong khoảng

thời gian nhất định. Như vậy, không bao quát được toàn bộ kiến thức đã học

của học sinh mà khiến cho học sinh dễ có chiều hướng học tủ, học lệch.

– Kiểm tra theo kiểu tự luận khó có điều kiện đánh giá được kĩ năng thực

hành thí nghiệm, sử dụng đồ dùng dạy học, kĩ năng phát triển ngôn ngữ nói.

– Bài kiểm tra theo kiểu tự luận khó đại diện đầy đủ cho nội dung môn

học do số lượng nội dung ít.

– Việc chấm điểm phụ thuộc vào người đặt thang điểm và chủ quan của

người chấm.

– Điểm số có độ tin cậy thấp và nhiều nguyên nhân như: phụ thuộc vào

tính chất chủ quan, trình độ người chấm, học sinh có thể học tủ, học lệch. Kết

quả bài kiểm tra còn phụ thuộc vào việc tổ chức kiểm tra có nghiêm túc chu

đáo hay không, hơn nữa mất nhiều thời gian và công sức trong việc chấm bài.

– Trong thực tế ở các trường phổ thông, số lượng học sinh mỗi lớp khá

đông sẽ dễ dẫn đến tình trạng quay cóp trong khi làm bài gây khó khăn cho

việc đánh giá chính xác kết quả học tập của học sinh.

III.3. Bài kiểm tra trắc nghiệm khách quan

III.3.1. Khái niệm

– Trắc nghiệm khách quan là phương pháp kiểm tra – đánh giá kết quả học tập

của học sinh bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan gọi là “khách

quan” vì hệ thống cho điểm hoàn toàn khách quan không phụ thuộc vào người

chấm.Bài trắc nghiệm được chấm điểm bằng cách đếm số lần mà người làm

23

trắc nghiệm đã chọn được những câu trả lời đúng trong số các câu trả lời đã

được cung cấp. [ Một số cách chấm điểm còn có cả sự phạt điểm do đoán mò]

– Một bài trắc nghiệm khách quan gồm nhiều câu hỏi với nội dung kiến thức

khá rộng, mỗi câu hỏi thường được trả lời bằng một dấu hiệu đơn giản. thông

thường có nhiều câu trả lời được cung cấp cho mỗi câu hỏi của bài trắc

nghiệm, nhưng chỉ có một câu là câu trả lời đúng hay câu trả lời tốt nhất.

– Nội dung bài trắc nghiệm khách quan cũng có phần chủ quan vì không khỏi

Xem thêm:  Giá quả Na bao nhiêu 1kg hôm nay 2022? Mua ở đâu rẻ?

bị ảnh hưởng tính chủ quan của người soạn câu hỏi. Chỉ có việc chấm điểm là

khách quan.

III.3.2. Các dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan

Hiện nay đa số các nhà giáo dục thống nhất chia các câu hỏi trắc nghiệm

khách quan làm 4 loại chính, sắp xếp theo tần suất sử dụng giảm dần như

sau:

1. Câu trắc nghiệm có nhiều câu để lựa chọn

2. Câu trắc nghiệm “đúng, sai”

3. Câu trắc nghiệm ghép đôi

4. Câu hỏi trắc nghiệm điền khuyết hay có câu trả lời ngắn

III.3.2.a. Câu trắc nghiệm có nhiều câu để lựa chọn

– Đây là loại câu hỏi thông dụng nhất, được sử dụng nhiều nhất và có hiệu quả

nhất. Nó cho phép kiểm tra những trình độ cao hơn về nhận thức, thuận lợi

hơn so với các câu trắc nghiệm khác.

– Câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn gồm hai phần: phần đầu là phần dẫn [có thể

là một câu hỏi hoặc một câu dẫn], phần sau là từ 3 đến 5, thường là 4 hoặc 5

phương án trả lời với ký hiệu là các chữ cái A, B, C, D, E hoặc các chữ số 1,

2, 3, 4, 5. Trong các phương án đó chỉ có duy nhất một phương án là đúng

nhất – gọi là đáp án. Các phương án khác gọi là phương án gây nhiễu [các

phương án trả lời khác nhau nhưng đều có vẻ hợp lý là các câu nhiễu].

24

Ví dụ :

Tính chất hoá học của NH3 là:

A. Tính bazơ mạnh, tính khử

B. Tính bazơ yếu, tính oxi hoá

C. Tính bazơ yếu, tính oxi hoá

D. Tính khử, tính bazơ yếu

Đáp án : D

* Ƣu điểm

– Khi làm bài học sinh chỉ việc đánh dấu vào câu trả lời được chọn. Vì

vậy có thể kiểm tra nhanh nhiều vấn đề trong một thời gian ngắn, việc chấm

bài cũng nhanh.

– Giáo viên có thể dùng loại câu hỏi này để kiểm tra – đánh giá những

mục tiêu dạy học khác nhau như:

+ Xác định mối tương quan nhân quả.

+ Nhận biết các điều sai lầm

+ Ghép các kết quả hay các điều quan sát được với nhau

+ Định nghĩa các khái niệm

+ Tìm nguyên nhân của một số sự kiện

+ Nhận biết điểm tương đồng hay khác biệt giữa hai hay nhiều vật

+ Xác định nguyên lý hay ý niệm tổng quát từ những sự kiện

+ Xác định thứ tự hay cách sắp đặt giữa nhiều vật

+ Xét đoán vấn đề đang được tranh luận dưới nhiều quan điểm.

– Độ tin cậy cao hơn khả năng đoán mò hay may rủi ít hơn so với các

loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan khác khi số phương án lựa chọn tăng

lên, học sinh buộc phải xét đoán, phân biệt kỹ trước khi trả lời câu hỏi.

– Với bài trắc nghiệm có nhiều câu trả lời để chọn:Tính giá trị tốt hơn vì

có thể đo được các khả năng nhớ, áp dụng các nguyên lý, định luật, tổng quát

hoá của học sinh hiệu quả.

25

– Với bài trắc nghiệm nhiều lựa chọn,khi chấm bài thật sự khách quan.

Điểm số của bài trắc nghiệm khách quan không phụ thuộc vào chủ quan của

người chấm, chữ viết và khả năng diễn đạt của học sinh.

* Nhƣợc điểm

– Đối với người soạn: loại câu này khó soạn và phải tìm cho được câu trả

lời đúng nhất, còn những câu còn lại gọi là câu nhiễu thì cũng phải có vẻ hợp

lý. Đặc biệt, phải soạn câu hỏi sao cho có thể đo được các mức trí nâng cao

hơn mức biết, nhớ, hiểu.

– Đối với học sinh: không thoả mãn với những học sinh thông minh, có

óc sáng tạo, tư duy tốt có thể tìm ra những câu trả lời hay lớn hơn đáp án.

– Các câu hỏi nhiều lựa chọn có thể không đo được khả năng phán đoán

tinh vi và khả năng giải quyết vấn đề khéo kéo, sáng tạo một cách hiệu

nghiệm bằng loại câu trắc nghiệm tự luận.

– Tốn kém giấy mực để in và mất nhiều thời gian để học sinh đọc nội

dung câu hỏi.

* Những lƣu ý khi soạn câu hỏi nhiều lựa chọn

– Câu hỏi nhiều lựa chọn có thể dùng để thẩm định trí năng ở mức biết,

khả năng vận dụng, phân tích, tổng hợp hay ngay cả khả năng phán đoán cao

hơn. Vậy nên, khi soạn câu hỏi loại này cần lưu ý cẩn thận lựa chọn những ý

tưởng quan trọng và viết ra những ý tưởng ấy một cách rõ ràng để làm căn

bản cho việc soạn thảo các câu hỏi trắc nghiệm.

– Trong việc soạn các phương án trả lời sao cho câu đúng phải đúng một

cách không tranh cãi được, còn các câu nhiễu đều phải có vẻ hợp lý. Các câu

nhiễu phải có tác động gây nhiễu với các học sinh có năng lực tốt và tác động

thu hút các học sinh kém hơn. Câu dẫn phải có nội dung ngắn gọn, rõ ràng, lời

văn sáng sủa và phải được diễn đạt một cách rõ ràng. Không nên dùng các từ

phủ định, nếu không tránh được thì câu phải được nhấn mạnh để học sinh

không bị nhầm [Ví dụ phải in đậm những từ phủ định như: không đúng, sai].

26

Câu dẫn phải là câu hỏi trọn vẹn để học sinh hiểu rõ mình đang được hỏi vấn

đề gì. Câu chọn cũng phải rõ ràng, dễ hiểu và phải có cùng loại quan hệ với

Xem thêm:  A closer look 2 - unit 7 - sgk tiếng anh 6 thí điểm

câu dấu, phải phù hợp về mặt ngữ pháp với câu dấu.

– Mỗi câu hỏi nên có 4 hoặc 5 phương án để chọn. Nếu số phương án trả

lời ít hơn thì khả năng đoán mò, may rủi sẽ tăng lên. Độ tin cậy của câu hỏi

thấp. Nhưng nếu có quá nhiều phương án để chọn thì giáo viên khó soạn và

học sinh mất nhiều thời gian để đọc câu hỏi.

– Không được đưa vào 2 câu chọn cùng ý nghĩa, mỗi câu kiểm tra chỉ

nên soạn một nội dung kiến thức nào đó.

– Các câu trả lời đúng nhất phải được đặt ở các vị trí khác nhau, sắp

xếp theo thứ tự ngẫu nhiên, số lần xuất hiện ở mỗi vị trí A, B, C, D, E

phải gần như nhau.

– Mỗi khi soạn xong câu trắc nghiệm loại này, ta nên đọc lại toàn bộ

câu trắc nghiệm [cả phần gốc và phần lựa chọn] để xem các phần ấy có kế

tiếp nhau theo đúng cấu trúc văn phạm hay không.

III.3.2.b. Câu trắc nghiệm “đúng, sai”

– Đây là loại đặc biệt của câu hỏi nhiều lựa chọn nhưng chỉ có hai cách

chọn là đúng

hoặc sai. Câu dẫn thường không phải là câu hỏi.

– Loại câu hỏi này thích hợp với việc kiểm tra kiến thức, sự kiện , định

nghĩa, khái

niệmLoại câu này rất có ích trong việc phát hiện ra quan niệm sai trong lĩnh

vực hóa học.

* Những lƣu ý khi xây dựng dạng câu trắc nghiệm “đúng, sai”

– Tránh dùng những từ như: tất cả, không bao giờ, không một ai,

không thể nào,Vì những câu có từ ấy thường là những câu sai. Vậy nên,

soạn câu trắc nghiệm “đúng, sai” cần lưu ý: đúng cũng phải đúng hoàn toàn,

sai cũng phải sai hoàn toàn.

27

– Phải sử dụng lối hành văn độc đáo để câu phát biểu trở nên khó hơn đối

với những học sinh chỉ học vẹt mà chưa hiểu thấu đáo.

– Tránh những điều chưa thống nhất.

– Câu trắc nghiệm “đúng, sai”phải được soạn thảo kĩ càng, không tối

nghĩa,và tránh sự đoán mò.

– Mỗi câu trắc nghiệm “đúng, sai”chỉ nên diễn tả một ý tưởng độc nhất,

tránh phức tạp bao gồm nhiều chi tiết.

– Người soạn phải lựa chọn những câu phát biểu, hay mệnh đề quan

trọng để làm căn bản cho các câu trắc nghiệm.

* Ƣu điểm của câu trắc nghiệm “đúng, sai”

– Câu trắc nghiệm “đúng, sai”là loại câu đơn giản dùng để trắc nghiệm kiến

thức về những sự kiện. Khi soạn loại câu hỏi này tương đối dễ dàng vì không

cần tìm thêm câu hỏi khác nữa để học sinh lựa chọn và so sánh, ít phạm lỗi,

mang tính khách quan khi chấm.

– Có thể đặt được nhiều câu hỏi trong một bài trắc nghiệm với thời gian được

ấn định, như vậy có thể làm tăng thêm tính tin cậy của bài trắc nghiệm ấy.

* Nhƣợc điểm của câu trắc nghiệm “đúng, sai”

– Học sinh có thể đoán mò [may rủi 50%]. Vì vậy độ tin cậy thấp.

– Nếu người soạn chỉ trích ra những câu sẵn có trong SGK dễ tạo điều kiện

cho học sinh học thuộc lòng hơn là hiểu, ít phù hợp với đối tượng học sinh

giỏi.Đôi khi học sinh chỉ cần nhận ra một số chữ quen thuộc trong sách cũng

đủ biết câu nào đúng sai.

– Lời văn hay dùng từ không chính xác, hay thiếu một số thông tin căn bản

khả dĩ giúp học sinh sẽ dẫn đến học sinh có những thắc mắc chính đáng về

tính cách đúng hay sai của các câu phát biểu ấy.

III.3.2. c. Câu trắc nghiệm ghép đôi

– Đây là loại hình đặc biệt của loại câu câu hỏi nhiều lựa chọn.

28

– Loại này gồm hai dãy thông tin. Một dãy là câu hỏi [hoặc câu dẫn], còn

dãy kia là câu trả lời. Có thể dãy này nhiều hơn dãy kia một số câu để gây

nhiễu. Học sinh phải lựa chọn, phải tìm cách ghép những câu trả lời ở cột này

với các câu hỏi ở cột khác sao cho phù hợp về nội dung.

* Ƣu điểm

– Đối với người soạn: dễ viết.

– Đối với người trả lời: dễ dùng.

– Loại câu này thích hợp với việc kiểm tra một nhóm kiến thức có liên

quan [ nhất là kiểm tra các định nghĩa, các khái niệm].

Ví dụ: Ghép các câu ở hai dãy sao cho thích hợp?

A. Axit là những chất

1. có khả năng nhận proton

B. Bazo là những chất

2. có khả năng cho proton

C. Oxit là những chất

3. mà phân tử gồm các cation kim loại

và các anion gốc axit

D. Muối là những chất

4. có chứa ion H+ [H3O +]

5. gồm nguyên tố oxi kiên kết với

nguyên tố hóa học khác

Đáp án: A-2; B-1; C-5; D-3

– Loại này thích hợp với học sinh cấp THCS. Có thể dùng loại câu hỏi

này để đo các mức trí năng khác nhau. Nó đặc biệt hữu hiệu trong việc đánh

giá khả năng nhận biết các hệ thức hay lập các mối tương quan.

* Nhƣợc điểm

– Loại câu hỏi trắc nghiệm ghép đôi không thích hợp cho việc thẩm định

các khả năng như sắp đặt và vận dụng các kiến thức.

– Để soạn loại câu hỏi này để đo mức trí nâng cao đòi hỏi nhiều công

phu. Hơn nữa tốn nhiều thời gian đọc nội dung mỗi cột trước khi ghép đôi của

học sinh.

29

Video liên quan

Chủ Đề