Đa dạng sinh học ở Việt Nam hiện nay

Báo cáo được Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên tại Việt Nam (WWF-Việt Nam) và Cục Bảo tồn Thiên nhiên và Đa dạng Sinh học (BCA) công bố.

Theo đó Việt Nam là một trong 16 quốc gia sở hữu sự đa dạng sinh học cao nhất thế giới. Hơn 50.000 loài đã được xác định trong đó có 20.000 loài thực vật trên cạn và dưới nước, 10.500 động vật trên cạn, 2.000 loài động vật không xương sống và cá nước ngọt, cùng hơn 11.000 loài sinh vật biển.

Báo cáo nêu, cũng như nhiều quốc gia khác, Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng suy thoái đa dạng sinh học ngày càng lớn. Trong đó hoạt động sản xuất của con người (sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản...) ảnh hưởng rất lớn đối với suy giảm đa dạng sinh học tại Việt Nam.

Từ các dữ liệu phân tích, báo cáo cho thấy 21% các loài thú, 6,5% các loài chim, 19% các loài bò sát, 24% các loài lưỡng cư, 38% các loài cá... đã bị đe doạ.

Cầy hương bị mắc bẫy dây Khu bảo tồn Sao la tỉnh Thừa Thiên-Huế. Ảnh: WWF

Trong gần 20 năm trở lại đây, các khu vực có rừng là sinh cảnh bị ảnh hưởng nhiều nhất với hơn 10.544 km2 diện tích đất rừng đã bị mất, chủ yếu do chuyển đổi thành đất rừng trồng và đất trồng cây ăn quả. Khoảng 2,8 triệu ha rừng tự nhiên đã bị mất do chuyển đổi sang phát triển các loài cây trồng thương mại khác.

Đây là báo cáo đầu tiên trong chuỗi các hoạt động đánh giá khoa học chỉ ra hiện trạng tổng quan về đa dạng sinh học tại Việt Nam, phân tích một số những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp dẫn tới sự suy giảm đa dạng sinh học. Từ đó, khuyến nghị các mô hình chuyển đổi có tính tích cực cho thiên nhiên và con người trong tương lai.

Ông Vương Quốc Chiến, WWF-Việt Nam cho rằng, giải quyết các nguyên nhân cốt lõi bằng cách lồng ghép đa dạng sinh học trong tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh tế đang được xem là một trong những xu hướng tất yếu. Trong đó, các doanh nghiệp sản xuất được xem là những nhân tố quan trọng đóng góp để tạo ra sự thay đổi này. "Năng lực, nhận thức và sự chủ động của các doanh nghiệp khi tham gia các mô hình cam kết tự nguyện hướng đến sản xuất bền vững sẽ là yếu tố then chốt để góp phần phục hồi đa dạng sinh học của Việt Nam", ông Chiến nói.

Hải Minh

  • Phát triển bền vững

Thứ tư, 10/11/2021 07:00 (GMT+7)

Đa dạng sinh học ở Việt Nam đang suy giảm?

Miền BắcMiền Nam

Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản ảnh hưởng rất lớn đối với suy giảm đa dạng sinh học tại Việt Nam. Thực tế con người vừa phụ thuộc vừa phá hủy hệ sinh thái.

Đây là kết luận của Báo cáo “Đánh giá Đa dạng sinh học tại Việt Nam” được Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên tại Việt Nam (WWF Việt Nam) và Cục Bảo tồn Thiên nhiên và Đa dạng sinh học (Bộ TN&MT) vừa công bố.

Thực tiễn, con người đang hoàn toàn phụ thuộc vào các hệ sinh thái để tồn tại. Thế nhưng, các hệ sinh thái này lại đang ngày ngày bị chúng ta xâm phạm không thương tiếc. Báo cáo cho thấy, 21% các loài thú, 6,5% các loài chim, 19% các loài bò sát, 24% các loài lưỡng cư, 38% các loài cá và 2,5% các loài thực vật có mạch đã bị đe dọa.

Trong gần 20 năm trở lại đây, các khu vực có rừng là sinh cảnh bị ảnh hưởng nhiều nhất với hơn 10.544 km2 diện tích đất rừng bị mất, chủ yếu do chuyển đổi thành đất rừng trồng và đất trồng cây ăn quả. Khoảng 2,8 triệu ha rừng tự nhiên cũng đã bị mất do chuyển đổi sang phát triển các loài cây trồng thương mại khác…

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới sự suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam bao gồm cả những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp như: Khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên, khai thác gỗ trái phép, buôn bán trái phép các loài hoang dã, các hoạt động phát triển cơ sở hạ tầng, mở rộng thâm canh nông nghiệp, cũng như các hoạt động sản xuất kinh tế khác nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng gia tăng của con người.

Đi sâu vào vấn đề để thấy, sử dụng tập trung các hệ sinh thái thường đem lại lợi ích ngắn hạn hiệu quả nhất, nhưng cũng là nguyên nhân rơi vào tình trạng quá tải và dẫn tới những tổn thất ghê gớm về lâu dài.

Một quốc gia có thể có GDP cao nhờ việc tàn phá các khu rừng và “vắt kiệt” tài nguyên ngành ngư nghiệp để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, đó là sự phát triển thiếu bền vững, về lâu dài, tài nguyên và sinh kế của người dân sẽ không còn. Nếu giá trị kinh tế đầy đủ của các hệ sinh thái được xem xét trong việc đưa ra quyết định của các nhà quản lý thì sự suy thoái sẽ giảm xuống rõ rệt và thậm chí còn được đẩy lùi.

Hệ lụy là suy giảm các dịch vụ hệ sinh thái đang làm tổn hại đến nhiều người nghèo nhất. Đáng ngại hơn cả lại là nhân tố chính gây ra tình trạng đói nghèo, vì nó làm tăng sự lệ thuộc vào các dịch vụ hệ sinh thái. Điều này sẽ tăng thêm áp lực cho các hệ sinh thái, các nỗ lực giảm đói nghèo cũng như sự suy thoái hệ sinh thái.

Đa dạng sinh học ở Việt Nam hiện nay
Suy giảm các dịch vụ hệ sinh thái khiến nhiều người lo lắng. (Ảnh minh họa)

Chính vì vậy, đẩy lùi sự suy thoái của các hệ sinh thái trong khi vẫn đòi hỏi chúng đáp ứng được các nhu cầu ngày càng tăng của con người là một thách thức lớn. Những thay đổi trong chính sách có thể làm giảm đi nhiều hệ quả tiêu cực của áp lực gia tăng đối với hệ sinh thái. Tuy nhiên, những hoạt động tích cực mà con người đã xúc tiến dường như còn quá khiêm tốn. Và chắc chắn các hệ sinh thái đang bị hủy hoại nặng nề và các dịch vụ hệ sinh thái sẽ còn tiếp tục bị mất đi nếu chúng ta không có những chương trình hành động hữu hiệu.

Trái Đất - nơi cung cấp đầy đủ các điều kiện để thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của nhân loại. Chúng ta cần ăn, mặc, đi lại, giao tiếp… tất cả những nhu cầu đó được thỏa mãn bởi các thành phần của tự nhiên là đất, nước, rừng, không khí… Tuy nhiên, trong số 51 tỉ ha diện tích bề mặt, Trái Đất chỉ có thể cung cấp cho con người 18% diện tích có khả năng tạo năng suất sinh học để thỏa mãn những nhu cầu trên.

Rõ ràng, điều chúng ta cần là một chuẩn mực để đánh giá và định hướng nhu cầu sử dụng, điều này giúp chúng ta xác định được “điểm ngưỡng nhu cầu” - mức nhu cầu được thỏa mãn mà không làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái.

Còn nếu vẫn áp đặt tư duy phát triển nóng, tiếp tục bào mòn, bóp nghẹt hệ sinh thái - chính là chúng ta đang tự bào mòn đi chất lượng sống của chính mình.

Nguyễn Linh (T/h)

Bạn đang đọc bài viết Đa dạng sinh học ở Việt Nam đang suy giảm?. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0917 681 188 Hoặc email:

  • đa dạng sinh học
  • suy giảm đa dạng sinh học
  • việt nam
  • hệ sinh thái
  • động thực vật

Mục lục bài viết

  • 1. Tình trạng suy thoái đa dạng sinh học và tác động của nó
  • 2. Hiện trạng đa dạng sinh học ở Việt Nam
  • 3. Vai trò của tài nguyên đa dạng sinh học đối với Việt Nam
  • 4. Suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam
  • 5. Hậu quả của sự suy thoái đa dạng sinh học

Luật sư hướng dẫn:

1. Tình trạng suy thoái đa dạng sinh học và tác động của nó

Đa dạng sinh học đang bị suy thoái một cách nghiêm trọng. Trong những thập kỉ qua, sự suy thoái đa dạng sinh học đã xảy ra với một tốc độ khủng khiếp trên thế giới, ở cả các nước phát triển như Mỹ, Nhật đến các nước chậm phát triển ở châu Phi, châu á và Mỹ Latỉn. Điều này có thể lí giải bằng tốc độ tăng dân số và tốc độ khai thác. Dân số tăng dẫn đến nhu cầu cung cấp thực phẩm tăng, do đó gây áp lực lên quá trình khai thác các giống, loài cấu thành nên đa dạng sinh học. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là tốc độ khai thác. Đê làm biến mất một cánh rừng đại ngàn, các cộng đồng ttong các quốc gia nông nghiệp có khi phải cần đến vài thế hệ. Trong lúc đó, chỉ cần một vài ngày, một công ti khai thác gỗ đã có thể làm biến mất cả hàng chục héc ta rừng. Chỉ với những chiếc thuyên câu và những mành lưới nhỏ, các cộng động khó có thể làm suy kiệt được nguồn hải sản, vì thế giữ được chúng cho đến ngày hôm nay. Ngày nay, bằng những lưới bắt cá rộng hàng dặm, được kéo bởi những con tàu có tốc độ lớn thì các loài thuỷ sản khỏ bảo toàn được sự tồn tại của mình trong biển cả. Thêm vào đó, việc khai thác thuỷ sản bằng điện và chất nổ đang tận diệt tất cả các loài thuỷ sàn, kể cả những thuỷ sản không nằm trong mục tiêu khai thác. Các loài động vật, nhất là những động vật có giá trị về y học như hổ, tê giác, về trang sức như chồn, gấu trắng đang bị tiêu diệt đến mức báo động tuyệt chủng. Theo tính toán của các nhà khoa học thì có khoảng 10 đến 30 triệu loài sống trên trái đất và có khoảng 50 đến 90% trong số đó tồn tại ttong các cánh rừng nhiệt đới. Tuy nhiên, theo ước tính của các nhà khoa học, 60 trong số 240.000 loài thực vật của thế giới có thể sẽ bị tuyệt chủng trong 3 thập kỉ tới. số loài côn trùng có thể bị tuyệt chủng với số lượng lớn hơn. Hàng năm có 25.000 đến 50.000 loài tuyệt chửng và đa số những loài này chưa được nhận dạng. Theo số liệu được công bố tại Hội nghị bảo tồn thế giới, Liên minh bào tồn thế giới (IUNC) đù số loài ttong sách đỏ ngày càng tăng vọt. Sách đỏ năm 2004 cho thấy có 12.259 loài bị đe doạ.

Sự suy thoái đa dạng sinh học không chỉ đe doạ các loại động vật và thực vật. Nhiều cộng đồng người cũng bị tuyệt chủng. Ở Brazil, hàng năm có một bộ lạc da đỏ biến mất. Các nhà khoa học dự đoán một nửa trong 6000 ngôn ngữ của nhân loại sẽ triệt tiêu ttong 100 năm tới. Trong số 3000 ngôn ngữ còn lại thì một nửa sẽ không còn tồn tại lâu.

Suy thoái đa dạng sinh học có ảnh hưởng nghiêm ttọng đến sự tồn tại của tất cả các hệ sinh thái trên trái đất.

2. Hiện trạng đa dạng sinh học ở Việt Nam

- Đa dạng hệ sinh thái và sự suy thoái cùa các hệ sinh thái tự nhiên

Các kiểu hệ sinh thái ở Việt Nam rất đa dạng, ở những vùng địa lí không lớn cũng có nhiều kiểu hệ sinh thái. Kết quà nghiên cứu cho thấy có 95 kiểu hệ sinh thái thuộc 7 dạng hệ sinh thái chính ở trên cạn; 39 kiểu hệ sinh thái đất ngập nước, gồm 28 kiểu đất ngập nước tự nhiên và 11 kiểu đất ngập nước nhân tạo; 20 kiểu hệ sinh thái biển khác nhau. Có thể kể đến một số hệ sinh thái tiêu biểu sau đây:

+ Hệ sinh thái rừng: Hệ sinh thái rừng ở Việt Nam khá phong phú với các kiểu rừng kín vùng cao, rừng kín vùng thấp, rừng thưa với hệ thực vật vô cùng phong phú.

+ Hệ sinh thái rừng ngập mặn: Đây là loại hình hệ sinh thái đặc thù ở vùng triều cửa sông, ven biển nước ta. Chúng góp phần quan trọng vào việc bảo vệ đất đai, điều hoà khí hậu đồng thời là môi trường sinh sống của nhiều động thực vật vùng triều có tính đa dạng lớn và còn là nơi nuôi dưỡng ấu trùng của nhiều thuỷ sản có giá trị.

+ Hệ sinh thái rạn san hô: Khu vực và thành phần các loài san hô biển nước ta rất phong phú. Rạn san hô cũng như rừng trên mặt đất, không chỉ cho nguồn lọi sinh vật thuỷ sản lớn mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì trạng thái cân bằng của cà vùng nước.

+ Hệ sinh thái đầm phá, vũng, vịnh: Loại hình hệ sinh thái này chủ yêu tập trung ven biển miền Trung nước ta. Chúng là nơi sinh sống của nhiều sinh vật cửa sông, các loài rong tảo nước lợ, nơi phân bố của nhiều nhuyễn thể hai mảnh quý như trai ngọc, sò, vẹm và một số vùng là nơi cư trú của các loài chim nước có giá trị thuộc đối tượng bảo tồn của Công ước Ramsar.

Thành phần các quần xã ttong các hệ sinh thái nêu ttên cũng rất đa dạng, cấu trúc quần xã trong các hệ sinh thái phức tạp, nhiều tầng bậc, nhiều nhánh. Đặc điểm này làm cho đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam có nhiều điểm khác biệt so với các nước trên thế giới.

Các hệ sinh thái ở Việt Nam phần lớn là những hệ sinh thái có tính mềm dẻo về sinh thái, có khả năng thích ứng và phục hồi nhanh trước những biến động môi trường. Do đó, chúng có tính ổn định không cao, thế cân bằng sinh thái dễ bị phá vỡ khi có tác động từ bên ngoài hay nội tại.

- Đa dạng loài và sự suy giảm các loài tự nhiên

Việc Nam là một trong những nươc có đa dạng sinh học cao thứ 16 trên thế giới, về các loài động vật, thực vật và vi sinh vật, do sự phong phú về các dạng địa hình, khí hậu. Sau đây là các con số thống kê:

về thực vật, các kết quả điều tta cho thấy nước ta có khoảng 13.894 loài thực vật, trong đó có 2.400 loài thực vật bậc thấp, 11.494 lài thực vật bậc cao, 14 loài cỏ biển, 151 loài rong biển.

về động vật trên cạn: Cho đến nay đã thống kê xác định được 312 loài và phân loài thú trên cạn, 840 loài chim, 260 loài bò sát, 200 loài giun đất, 162 loài ếch. Tính độc đáo của đa dạng sinh học ở Việt Nam khá cao: gần 10% số loài động thực vật (chim, thú và cá) của thế giới tìm thấy ở Việt Nam, gần 40% loài thực vật thuộc loài đặc hữu.

về vi sinh vật: Đã ghi nhận 7500 loài, trong đó có hơn 2800 loài gây bệnh cho thực vật, 1500 loài gây bệnh cho người và gia súc và hơn 700 loài vi sinh vật có lợi.

Các hệ sinh thái của Việt Nam còn là nơi cư trú của một số động vật quý hiếm trên thế giới. Trong mỗi hệ sinh thái đặc trưng của Việt Nam, tính đa dạng loài cũng rất lớn. Ví dụ, hệ sinh thái rạn san hô có trên 400 loài san hô khác nhau, gồm 80 giống, 17 họ.

Bên cạnh tính đa dạng cao của các loài sinh vật trong các hệ sinh thái thì sự giảm sút ngay càng nhiều các cá thể, các loài trong tự nhiên là vấn đề đáng báo động ở Việt Nam. về mức độ suy thoái, Việt Nam được xếp vào nhóm 15 nước hàng đầu thế giới về số loài thú, nhóm 20 nước về số loài chim, nhóm 30 nước về số loài thực vật lưỡng cư.

3. Vai trò của tài nguyên đa dạng sinh học đối với Việt Nam

Như bất kì quốc gia nào ttên thế giới, Việt Nam cũng phụ thuộc vào đa dạng sinh học để tồn tại và phát ttiển. Sự khác nhau về tầm quan trọng của đa dạng sinh học đối với Việt Nam là ở mức độ. Là một nước nông nghiệp với trình độ phát triển kinh tế chưa cao, Việt Nam phải phụ thuộc rất lớn vào tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên đa dạng sinh học nói riêng. Những số số liệu sau đây sẽ cho thấy vai ttò to lớn của đa dạng sinh học đối với Việt Nam.

+ Các cộng đồng dân cư sống ttên lãnh thể Việt Nam đã sử dụng tói 2.300 loài thực vật để làm lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thức ăn gia súc, tơ sợi và nguyên vật liệu. Trong số đó, lúa ngô, khoai sắn là những loài chủ yếu cung cấp lương thực. Tổng sản lượng lương thực thu được từ các giông loài ở Việt Nam đã đạt đển ước đạt 37,5 triệu tấn trong năm 2003, tăng 1,5% so với 2002.

+ Hơn 700 loài thực vật được y học Việt Nam sử dụng làm dược liệu để chế biến các loại thuốc chữa bệnh khác nhau phục vụ cho nhu cầu của cộng đồng. Nhiều loài thực vật có công dụng chữa được một số bệnh nan y như cây xạ đen, cây trinh nữ hoàng cung... Y học cổ truyền dựa trên phương thuốc bào chế từ các giống loài thực vật và động vật khác nhau hiện nay đang chiếm vị trí ngày càng lớn trong hoạt động chữa bệnh của đất nước ta.

+ Các loài thuỷ sản đã cung cấp cho đất nước ta hàng triệu tấn thực phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cộng đồng và xuất khẩu. Riêng năm 2003, ngành thuỷ sản đã cung cấp hơn 2.354 nghìn tấn, tăng 6,8% so với cùng kì năm 2002.

+ Tài nguyên rừng là bộ phận không thể thiếu trong sản xuất và tiêu dùng của đất nước ta. Gỗ và các sản phẩm chế biến từ gỗ đóng vai trò quan trọng tíong đời sống hàng ngày và xuất khẩu.

4. Suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam

Suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam bắt nguồn trước hết từ sự giảm sút diện tích rừng. Rừng, đặc biệt là rừng già là hệ sinh thái cổ độ da dạng sinh học phong phú nhất. Đó là nơi cư trú, phát triển của nhiều giống loài thực vật, động vật và vi sinh vật. Tốc độ giảm sút diện tích rừng ở nước ta là khá cao. Năm 1943, đất nước ta có diện tích rừng che phủ chiếm gần 50% diện tích cà nước song hiện tại chỉ còn 33,2% (kể cả rừng nhân tạo được trồng mới những năm gần đây theo các chương trình của Chính phủ cũng như sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế). Năm 1995, diện tích rừng che phủ chi còn 28%. Diện tích rừng bị thu hẹp dần, xé lẻ và phân cách đến mức ở nhiều vùng rừng không còn khả năng hỗ trợ duy trì tính phong phú về loài ở quy mô ban đầu. Sự suy giảm diện tích rừng tạo ra một áp lực vô cùng lớn đối với đa dạng sinh học. Cùng với sự mất đi của rừng, sự suy giảm nhiều hệ sinh thái, các loài động thực vật hoang dã cũng dửng trước nguy cơ suy thoái về số lượng và nhiêu loài đang trong tình trạng đe doạ bị tuyệt chủng. Tổng số loài bị đe doạ là cao (350 loài thực vật và hơn 300 loài động vật có mặt trong sách đỏ Việt Nam đang ở trong tình trạng báo động) phản ánh tình trạng nghiêm trọng của hiểm hoạ đối với sinh cảnh hoang dại Việt Nam. Nguy cơ mất đỉ 28% loài thú, 10% loài chim, 21% các loài bò sát và lưỡng cư tồn tại ở nước ta là hiện hữu. Các loài voi châu á, tê giác một sừng hay sao la sẽ tuyệt chủng trong tương lai không xa. Cùng với chúng, nguồn gen vô cùng quý giá, không thể tái tạo cũng sẽ biến mất vĩnh viễn.

Suy thoái đa dạng sinh học còn bắt nguồn từ sự huỷ hoại hệ sinh thái khác như đất ngập nước. Việc phá các vùng rừng đước nguyên sinh để nuôi tôm, thiểu sự bảo vệ cần thiết để xảy ra cháy các khu rừng ngập mặn đang làm cho hệ sinh thái đất ngập nước thu hẹp dần. Hậu quả là các giống loài gắn liền vói hệ sinh thái này bị suy kiệt và có nguy cơ tuyệt chủng.

Sự suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam bắt nguồn cả từ ở sự suy giảm các hệ sinh thái biển. Các vùng nước lớn ven biển và cửa sông của Việt Nam là nơi tụ hội rất nhiều nguồn cá cũng như các loại hệ sinh thái đa dạng. Nhưng do việc khai thác quá mức ở các vùng biển gần bờ với những phương thức đánh bắt lạc hậu, thậm chí huỷ diệt hàng loạt, quy hoạch sử dụng đất ven biển chưa tốt đã làm suy giảm đáng kể đa dạng sinh học biển. Các hệ sinh thái rạn san hô cũng đứng trước những nguy cơ bị tàn phá bởi con người.

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, tốc độ suy giảm đa dạng sinh học của nước ta là rất đáng báo động. Đánh giá sau đây ưong Kế hoạch đa dạng sinh học của Chính phủ cũng khẳng định điều này:

“Việc gia tăng quá nhanh dân số nước ta, việc diện tích rừng bị thu hẹp, việc khai thác quá mức tài tài nguyên sinh vật biển, việc áp dụng quá rộng rãi các giống mới trong sản xuất nông nghiệp... đã dẫn tới sự thu hẹp hoặc mất đi các hệ sinh thái, dẫn tới nguy cơ tiêu diệt 28% loài thú, 10% loài chim, 21% loài bò sát và lưỡng cư. Sự mất đi cả loài là mất đi vĩnh viễn, đồng thời mất đi cả nguồn tài nguyên di truyền. Trên thực tế, tốc độ suy giảm đa dạng sinh học của ta nhanh hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực"

5. Hậu quả của sự suy thoái đa dạng sinh học

Sự suy thoái đa dạng sinh học dẫn đến các hậu quả chủ yếu xấu thể hiện trong các mối tương tác sau đây:

+ Sự suy thoái của hệ sinh thái sẽ đật các giống, loài trước nguy cơ bị tuyệt chủng: Theo tính toán gần đây, căn cứ tốc độ hiện nay, 5 - 10% số loài trên thế giới bị tiêu diệt vào những năm 1990 - 2020, có nghĩa là mỗi ngày có thể mất đi khoảng 40 - 140 loài và số loài bị tiêu diệt sẽ lên tới 25% vào khoảng năm 2050.

+ Sự thay đổi hay mất đi của các giống, loài sẽ tác động xấu đến môi trường sống, các hệ sinh thái: Đa dạng sinh học và môi trường sống, các hệ sinh thái hên quan chặt chẽ với nhau. Các hệ sinh thái, các môi trường sống không thể có được nếu không có sự tồn tại của các giống loài vốn dựa vào nhau để tồn tại và phát triển. Sự suy thoái của đa dạng sinh học đật môi trường sống và các hệ sinh thái vào nguy cơ bị huỷ hoại.

Sự suy thoái hoặc triệt tiêu các loài sẽ làm mất đa dạng di truyền (hay sự xói mòn di truyền). Cùng với sự mất đi của các loài, các khu vực phân bố loài, sự xói mòn di truyền trong nội bộ các loài động thực vật, nguồn tài nguyên gen quý giá cũng bị mất theo. Nguồn gen động vật rừng, nguồn gen động thực vật thuỷ sinh trong các sông hồ hay biển cả cũng nằm trong nguy cơ này mà hiện chúng ta chưa thể thống kê hay kiểm soát nổi. Quá trình chuyên canh và việc áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật cũng như sự tuyệt chủng nhanh chóng của các loài sinh vật đã làm cho nguồn gen quý giá của cả các động thực vật hoang dại và những vật nuôi, cây trồng truyền thống, nguyên liệu chính cho lai tạo giống trong sản xuất nông nghiệp đã mất đỉ vĩnh viễn. Thiếu sự đa dạng về nguồn gen, các giống loài cũng sẽ bị thoái hoá dần.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến luật môi trường, đa dạng sinh học - Hãy gọi ngay: 1900.6162 để đươc Luật sư tư vấn pháp luật môi trường trực tuyến.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật môi trường - Công ty luật Minh Khuê