Điểm giống nhau giữa bài Tự tình và Thương vợ

Trọng nam khinh nữ mới nghe qua hẳn ai trong chúng ta cũng không khỏi phê phán tư tưởng lỗi thời, lạc hậu chứa đựng trong câu nói trên, bởi một lí do đơn giản, chúng ta đang sống trong một xã hội công bằng bình đẳng.Tuy nhiên, sẽ chẳng có gì đáng nói nếu đây là một xã hội phong kiến bất công,khi mà quan niệm kia vẫn còn phổ biến rộng rãi. Đã sinh ra làm kiếp con người, ai mà không phải trải qua những thăng trầm, sóng gió, ai mà không nếm qua những cay đắng trong cuộc sống để rồi mới đạt được tới chân của hạnh phúc. Nhưng xưa kia, khi hạnh phúc đối với người đàn ông bao la rộng lớn bao nhiêu thì với người phụ nữ, người vợ - những người đã hết mình cống hiến cho gia đình, xã hội lại hạn hẹp và thu gọn bấy nhiêu. Những nỗi thống khổ ấy đã có rất nhiều thi sĩ thấu hiểu. Họ gửi lòng cảm thông, trân trọng, tiếc thương sâu sắc của mình qua nhiều tác phẩm và cũng đã rất khéo léo khi xây dựng lên một hình ảnh người phụ nữa Việt Nam đảm đang, không những đẹp về hình thức mà còn rất đẹp về tâm hồn, nhưng phải chịu cuộc đời long đong, lận đận, vất vả, thân phận trôi nổi, bèo bọt với bao oan khiên trước sự vùi dập của xã hội phong kiến.  Một trong những tác phẩm ấy hẳn phải kể tới “Tự tình (II) của nữ sĩ Hồ Xuân Hương và “Thương vợ” của nhà thơ trào phúng Trần Tế Xương. Trong xã hội phong kiến thối nát và hoang tàn, những người phụ nữ bé nhỏ không được coi trọng, cuộc đời thì long đong lận đận, duyên tình trái ngang, có tài mà không được coi trọng (Hồ Xuân Hương), hay cũng như việc làm của người vợ “bà Tú” ít được cảm thông dù cho quanh năm vất vả. Họ như những con thiêu thân, những con thoi mải miết dệt hoa cho đời không ngừng nghỉ để đổi lấy gì? Chả là gì cả? Họ chỉ đổi được nhiều thọt thòi , nhìu đau khổ bế tắc cho chính mình.Họ cống hiến hết cho cuộc đời mà khồn hề đòi hỏi quyền lợi ngoài tấm lòng cảm thông, chia sẻ và chút hạnh phúc riêng của mình:  “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn.Trơ cái hồng nhan với nước non”  Giữa đêm thanh vắng, tiếng trống canh vang lên, xa dần, xa dần, xa dần… để lại một người phụ nữ ngồi quạnh hiu, đơn lẻ, khung cảnh ấy mới chua xót làm sao!  Nửa đêm là thời gian sum họp vợ chồng, là thời điểm của hạnh phúc lứa đôi. Vậy mà lại có 1 người phụ nữ tỉnh dậy vào đúng thời khắc thiêng liêng ấy, hay vì cả đêm người phụ nữ ấy đã không ngủ được. Vì thiếu vắng 1 điều gì đó, vì tâm trạng đang mang nặng một nỗi niềm? Tiếng trống canh âm vang từ xa vọng lại như đang thúc giục thời gian qua mau, gọi đến 1 điều vô cùng đáng sợ đối với 1 người đàn bà vẫn còn thân đơn gối chiếc: Tuổi già - Tuổi già càng đến gần nghĩa là hi vọng càng tuột xa, mọi mong mỏi, khát khao càng trở nên vô vọng. Tiếng trống dồn dập cứ xoáy vào tâm can tác giả, nó âm vang, trong tâm tưởng, âm vang trong suy nghĩ, không tài nào dứt ra được. Dồn dập, hối hả, tiếng trống không chỉ bao trùm lên không gian mà còn lên cả thời gian nữa, và ta tự hỏi, đây có thật là tiếng trống hiện hữu trong đời sống thực tại hay phải chăng đó là tiếng trống cất lên từ tấm lòng thổn thức của tác giả, tiếng trống ám ảnh về 1 bi kịch đang ngày đến gần hơn với bà. “Trơ cái hồng nhan với nước non” Khi thời gian cứ lướt qua càng lúc càng dồn dập, thì cũng là lúc “cái hồng nhan" ngày một “trơ” ra với đời. “Hồng nhan” là một từ dùng để chỉ nhan sắc, chỉ gương mặt xinh đẹp của người phụ nữ. Đó là điều mà bất cứ người phụ nữ nào có được. cũng phải hết sức tự hào, hết sức coi trọng và nâng niu. Nhưng từ “cái” gắn liền với “hồng nhan” như một hòn đá kéo nặng cả câu thơ xuống, khi đập tan bao nhiêu niềm tự hào, bao nhiêu trân trọng mà biến “hồng nhan” trở thành một thứ đồ vật tầm thường không hơn không kém. Hồng nhan để làm gì khi nửa đêm phải tỉnh giấc, trong cái trống trải lạnh lẽo đến đắng cay? Tác giả ý thức được nhan sắc của mình nhưng cũng ý thức được những bất hạnh và chua xót mà mình đã, đang và sẽ phải nếm trải. Hồng nhan để làm gì khi nó đâu phải là vĩnh cửu mà sẽ nhanh chóng vỡ tan theo từng nhịp trống dồn.  Và khi nỗi đau lên đến đỉnh điểm, người phụ nữ sẽ trở nên “trơ” ra với “nước non”, với cuộc đời. Từ “trơ” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh sự vô cảm, lạnh lùng, thờ ơ trước những đớn đau đã trở nên quá quen thuộc. Còn gì đau xót hơn khi những bất hạnh lại trở thành một điều gì đó rất thường tình, cứ đeo đẳng, bám lấy con người ta và thậm chí khiến người ta trở nên nhàm chán, mất hết cảm xúc và trở nên trơ ra như gỗ đá? Chưa hết, từ “trơ” trong câu thơ còn mang một nghĩa khác, một hàm ý cay đắng và chua xót không kém: Trơ trọi. Tác giả nhận thấy mình không có gì cả, không có tình yêu, không có hạnh phúc, chỉ đơn độc, lẻ loi một mình trong cuộc đời này.  Câu thơ như một lời đay nghiến, mỉa mai chính mình, có hồng nhan mà phải trơ ra như thế. Thật đáng thương cho số phận của nhà thơ, đáng thương cho một kiếp người tài hoa mà bất hạnh. Và cũng thật đáng thương cho những người phụ nữ đương thời bị đè nén, áp bức với những hủ tục phong kiến đến mức xơ xác, héo mòn cả một phận hồng nhan. Nhưng, dù đáng thương, chua xót đến mức nào, chúng ta vẫn phải công nhận một “bản lĩnh Xuân Hương” rất đáng nể phục trong hai câu thơ, khi mà “trơ” không chỉ là một sự bẽ bàng hay vô cảm mà còn là thách thức. “Trơ” kết hợp với “nước non” và “hồng nhan” đựoc xếp ngang tầm thiên nhiên vũ trụ đã cho ta thấy sự can đảm, dám đương đầu với những gì lớn lao nhất, khó khăn nhất của bà. Đó quả thật là một ý chí đáng nể phục, một bản lĩnh đáng ngưỡng mộ của Hồ Xuân Hương.  “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh, Vầng trăng bóng xê khuyết chưa tròn”  Hồ Xuân Hương uống rượu mà như uống bao giọt sầu giọt tủi, như nuốt từng giọt đắng giọt cay. Chén rượu là chén sầu mà người uống chẳng thể đổ đi đươc mà chỉ có thể lặng lẽ, âm thầm nuốt vào cổ họng, để đau khổ cũng chẳng mất đi đâu mà lại trở lại trong chính tâm trí mình. "Say lại tỉnh". Uống rượu có thể say, nhưng sau cơn say người ta sẽ lại tỉnh. Những lần say và những cơn day ấy cư lối tiếp nhau thành một vòng tuần hoàn nghiệt ngã của số phận. Cố say, cố quên, vậy mà lúc tỉnh dậy thì thấy bao nhiêu dối trá, hững hờ của người đời vẫn còn đó, và nỗi đau khổ, bẽ bàng của mình cũng vẫn còn nguyên. Và ta chợt nhớ một hình ảnh bẽ bàng. Tủi nhục của nàng kiều ngày nào:   “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Giật mình mình lại thương mình xót xa” Trăng vốn là một biểu tượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho cho những ước mơ và hy vọng. Thế nhưng, hạnh phúc của Hồ Xuân Hương cũng như bao người phụ nữ khác lại xót xa đến mức khuyết chưa tròn”, một hạnh phúc không hề trọn vẹn, một cuộc đời còn dang dở với những éo le, trắc trở trong tình duyên. Hạnh phúc của bà chỉ như vầng trăng khuyết mà bà không thể biết ngày mai trăng sẽ lại khuết tiếp hay sẽ tròn. Ánh trăng sáng mà lạnh lẽo vô cùng khi ẩn hiện trong nó một nỗi cô đơn, trống vắng. Tuổi xuân của Xuân Hương đang dần mất đi mà tình duyên vẫn không được trọn vẹn. Và sâu thẳm trong tâm trí bà, dù yếu ớt đến đâu vẫn luôn lóe lên một ánh lửa khát khao, hy vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên thay đổi cuộc sống của mình. Hai câu thơ tiếp theo đã nói lên điều ấy:  “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám, Đâm toạc chân mây đá mấy hòn..” Bà không buông xuôi, không đầu hàng mà luôn cố gắng tìm cách để thay đổi vận mệnh, cho dù những cố gắng đó mới chỉ dừng lại trong suy nghĩ. những uất hận ây bị đè nén, gò ép trong lòng bà đến không chịu nổi chỉ chực vỡ òa ra, bà khao khát muốn đạp tung tất cả, muốn lật đổ mọi thứ, muốn tự do biết nhường nào. Nhưng dù sao, bà vẫn chỉ là một người phụ nữ phong kiến, một thân phận nữ nhi cô độc, dù phá phách, dù nổi loạn đến đâu thì tất cả vẫn chỉ kết thúc trong giới hạn ngôn từ. Bà không thể làm gì hơn được nữa.... Thế nhưng , những vần thơ cuối bài lại là một mạch cảm xúc hoàn toàn mới, nêu lên một chân lí mới dù cho vẫn còn chứa đựng biết bao đau thương: Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại, Mảnh tình san sẻ tí con con..”  Những khát khao, vùng vẫy, nổi loạn cuối cùng cũng đã bị dập tắt trong sự chán chường, bất lực. Hồ Xuân Hương đã không thể vượt khỏi thân phận mình, vị thế nhỏ nhoi cô độc của mình trong xã hội. Kết thúc bài thơ là một sự cam chịu được. thốt lên trong một tiếng thở dài ngao ngán. Bà đã phát ngán, đã chán lắm rồi cái vòng xoáy luẩn quẩn của số phận. Càng cố bao nhiêu thì càng thất bại bấy nhiêu, hi vọng càng nhiều thì thất vọng càng lớn, càng chua xót. Bà chán ghét số phận hẩm hiu của mình, chán ghét vòng tình duyên ngang trái luôn đeo đẳng, chán ghét hạnh phúc ít ỏi đến nỗi gần như không tồn tại.  “Mảnh tình”, một cụm từ mang nặng nỗi trớ trêu của số phận. Tình yêu vốn là một điều gì đó thật cao cả thiên nhiên, nhưng tình yêu của Hồ Xuân Hương lại như một mảnh vỡ nhỏ bé được sẻ ra từ hạnh phúc của người khác. Tình yêu của bà rẻ mạt như một sự bố thí, như một thứ đồ vật đã qua sử dụng người ta vứt lại cho bà. Đau xót biết mấy, khi “mảnh tình” lại là một thứ được chia năm sẻ bảy mà bà chỉ được nhận duy nhất một mảnh “tí con con”. Hạnh phúc ấy chẳng những không trọn vẹn mà còn nhỏ bé, ít ỏi đến mức tội nghiệp. Tình duyên như thế thì có để làm gì, chỉ càng thêm tủi nhục đắng cay.? Ấy thế mà, dù bị lãng quên, người phụ nữ không bao giờ tuyệt vọng, đặt một dấu chấm hết cho cuộc đời mình. Họ vẫn vẫn khao khát sống mạnh mẽ, ước ao hạnh phúc tròn đầy. Ý niệm ấy thật đáng trân trọng và cao đẹp làm sao!  Trải qua tác phẩm Tự tình 2 thấm đượm nỗi chua xót, đắng cay trong cuộc đời người phụ nữ của Hồ Xuân Hương, có lẽ bài thơ : “Thương vợ” của Trần Tế Xương được coi là chân dung hoàn chỉnh nhất về hình ảnh người phụ nữ VN trong xã hội phong kiến, cam chịu số phận, vượt qua đắng cay để lo toan, gánh vác việc gia đình. Và phải nói rằng, tình thương vợ sâu nặng của Trần Tế Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả, gian lao, và phẩm chất cao đẹp của người vợ:  "Quanh năm buôn bán ở mom sôngNuôi đủ 5 con với một chồng" Ngày xưa, theo nho giáo, người phụ nữ có bổn phận thờ chồng, nuôi con. Nhưng thờ chồng với bà bao hàm cả việc nuôi chồng, mặc dù đúng ra, người đàn ông là người trụ cột trong gia đình về mọi mặt. Thương bà tú biết bao nhiêu khi bà xuất thân từ một gia đình gia giáo, khá giả, khi ở với cha mẹ, bà không phải chịu cảnh một nắng 2 sương, vất vả sớm hôm. Làm vợ ông Tú lận đận đường khoa thi cử, không nghề nghiệp nên bà đành chấp nhận cảnh sống long đong, cơ cực, nuôi chồng, nuôi con.  “Quah năm” là suốt cả năm.không trừ ngày nào dù mưa hay nắng, quanh năm còn là năm này tiếp năm khác đến rã rời, mệt mỏi chứ đâu phải là 1 năm. Địa điểm bà tú buôn bán là mom sông, như bối cảnh hiện lên hình ảnh bà tú tần tảo, tất bật ngược xuôi , không kể tới gian nan, nguy hiểm đang rình rập để nuôi đủ năm con với một chồng”. Từ đó có thể thấy: cuộc sống vất vả, gian truân càng ngời lên phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ mà bà Tú là một ví dụ điển hình. Bà thực là người phụ nữ đảm đang, tháo vát khi nuôi đủ cả con, cả chồng, đảm bảo đến mức: “Cơm hai nửa”: Cá kho, rau muống Quà một chiều: Khoai lang, lúc ngô” (Thầy đồ dạy học) Thế nhưng để đạt được những điều đó, bà tú đã phải cố gắng, phải lo rất nhiều, làm rất nhiều, nhẫn nhịn cũng rất nhiều: “Lặn lội thân cò khi quãng vắngEo sèo mặt nước buổi đò đông” Thấm thía nỗi gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú đầy tội nghiệp, không biết tự lúc nào đã hoá thành thân cò để lặn lội nơi sông nước, eo sèo nơi quãng vắng thưa người, gợi lên một nỗi đau thân phận không riêng của bà Tú mà là của biết bao người phụ nữ trong xã hội đương thời.  Trong ca dao người mẹ từng dặn con:  “Con ơi nhớ lấy câu này,Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” “Buổi đò đông” không chỉ có lời phàn nàn, cáu gắt, những sự chen lấn xô đẩy mà còn chứa đựng đầy bất trắc hiểm nguy. Tất cả đó đã làm nổi bật lên hình ảnh bà Tú đã vất vả, đơn chiếc lại thêm sự bươn chải trong làm ăn. Vậy mà bà chẳng dám buông lấy một lời kể lể, thở than:  “Một duyên hai nợ âu đành phận,Năm nắng mười mưa dám quản công” Như vậy có thể nói bà Tú đã chấp nhận, đã thuận theo lòng trời, hay nói đúng hơn, buộc phải chấp nhận, thuận theo lòng người, bởi lẽ bà là người phụ nữ đảm đang, nhưng cũng rất mực thuỷ chung. Bà châp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ này, cũng như chấp nhận một ông đồ nho ngông: “Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy” Và bà cũng đã chấp nhận nuôi chồng, nuôi con. Còn nhà thơ thì chỉ biết tự trách mình: “Cha mẹ thói đời ăn ở bạcCó chồng hờ hững cũng như không” Ở cái thời mà xã hội đã có luật không thành văn bản đối với người phụ nữ “xuất giá tòng phu” (lấy chồng theo chồng), đối với mối quan hệ vợ chồng thì “phụ xương, phụ tùy” (chồng nói vợ theo), thế mà có 1 nhà nho giám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự nhận mình là “quân ăn lương vợ”, “ăn ở bạc”. Không những đã biết nhận ra thiếu sót mà còn dám tự nhận khuyết điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm hay sao? Như vậy, nói rằng bà Tú là hình ảnh rõ ràng nhất cho người  phụ nữ trong xã hội VN đương thời quả không sai, bởi lẽ thân phận người phụ nữ giai đoạn này là sự éo le, trắc trở, khổ cực nhưng không có lấy một sự cảm thông, chia sẻ từ chồng, từ con.  Ta thấy, 2 bài thơ trên thật là những vần thơ đáng quý của Văn Học VN trung đại. Qua những vần thơ ấy, hình ảnh người phụ nữ VN xưa kia hiện lên thật rõ nét, thật đẹp đẽ, cao quí nhưng chứa đựng đầy chua xót, đắng cay. Tất cả đều nói chung về thân phận bé nhỏ, số phận chìm nổi, bèo bọt, bị lệ thuộc vào XH của người phụ nữ xưa kia. Phải nói, Hồ Xuân Hương va Trần Tế Xương đã đóng góp không nhỏ vào tiếng nói, tiếng khóc chung để đòi quyền sống, quyền tự do, hạnh phúc cho 1 nửa nhân lọai, những con người gánh vác trọng trách duy sự sống loài người trên trái đất. 

Từ đó, ta có thể khẳng định rằng: vai trò, vị thế của nguời phụ nữ XH ngày càng nâng cao và có đóng góp ngày 1 lớn cho sự phát triển chung trên mọi lĩnh vực. Song, không phải đến bây giờ, giá trị người phụ nữ mới được bộc lộ và tỏa sáng. Nếu nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc, ngay cả trong những thời kì đen tối của chế độ phong kiến trọng nam khinh nữ, người phụ nữ cả 1 đời bị ràng buộc bởi biết bao l