Giá trị cơ bản nhất trong quá trình hình thành tư tưởng hồ chí minh là chủ nghĩa

Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng lỗi lạc, có nhiều cống hiến kiệt xuất vào kho tàng tư tưởng – lý luận của dân tộc và nhân loại. Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, thế giới đều thừa nhận có tư tưởng Hồ Chí Minh và bản thân Người thực sự là một nhà tư tưởng, nhà lý luận vĩ đại của thời đại chúng ta.Với mỗi người dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là biểu tượng sáng ngời về đạo đức cách mạng, tấm gương hi sinh, hiến dâng trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; Người còn để lại cho các thế hệ mai sau một di sản tinh thần vô cùng quý báu, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức Hồ Chí Minh, phong cách Hồ Chí Minh và Thời đại Hồ Chí Minh.Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18/2/1995 của Bộ Chính trị khóa VII khẳng định: “Trong khi giải quyết n hững vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX [2001], lần thứ XI đều viết:  “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.”.Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những bài học sâu sắc từ Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga nhưng Người không rập khuôn, sao chép theo nền tảng đó mà tiếp thu cái tinh thần của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Qua luận cương của Lênin, Hồ Chí Minh đã thấy được cái cần thiết cho dân tộc Việt Nam – con đường giải phóng dân tộc. Từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam, từ những hiểu biết sâu sắc văn hóa phương Đông, văn hóa Pháp, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác – Lênin, Người cho rằng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc”, nhân dân thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng chính mình, cuộc cách mạng có thể thắng lợi trước ở một nước thuộc địa.Hồ Chí Minh xem chủ nghĩa Mác – Lênin như một kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và luôn nhấn mạnh rằng cần phải vận dụng sáng tạo “cẩm nang thần kỳ” đó.Từ phương pháp tiếp cận đúng đắn, mạnh dạn, khoa học trong kế thừa và phát triển học thuyết Mác – Lênin, đồng thời bám sát thực tiễn Việt Nam và thế giới, Hồ Chí Minh đã có những luận điểm sáng tạo góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác – Lênin trong vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ mới và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước phương Đông, thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu.Luận điểm sáng tạo lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là luận điểm về chủ nghĩa thực dân và vấn đề giải phóng dân tộc. Bằng những tác phẩm “Bản chất chế độ thực dân Pháp” [1925] và “Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương”, Hồ Chí Minh đã vạch trần bản chất, quy luật vận động, địa vị lịch sử, những thủ đoạn bóc lột, đàn áp, tàn sát dã man của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa; nêu rõ những nguyện vọng khát khao được giải phóng và những cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Sự phân tích về chủ nghĩa thực dân của Hồ Chí Minh đã vượt hẳn những gì mà những nhà lý luận mát – xít đề cập đến. Người đã nêu lên những luận điểm sáng tạo: Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan hệ chặt chẽ với cách mạng chính quốc, nhưng không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng chính quốc. Nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc “có thể chủ động đứng lên, đem sức ta mà giải phóng cho ta”, giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc và qua đó, thúc đẩy cách mạng chính quốc.Hai là, khi phân tích xã hội của các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lê nin một cách sáng tạo, Người tìm thấy con đường duy nhất đúng đắn cho dân tộc, đó là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Theo Hồ Chí Minh, ở Việt Nam cũng như các nước phương Đông, do trình độ sản xuất phát triển nên sự phân hóa giai cấp và đấu tranh giai cấp không giống như ở các nước phương Tây. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của sự phát triển đất nước” ; gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng Thế giới, đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới, nghĩa là Người đã quốc tế hóa những vấn đề của cách mạng nước ta.Vấn đề thứ ba là vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Hồ Chí Minh khẳng định: Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, chúng ta nhất định phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta mới thực sự giải phóng được dân tộc, xã hội và con người. Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.Luận điểm thứ tư là về Đảng và xây dựng Đảng được Hồ Chí Minh nêu lên đầy mới mẻ và sáng tạo. Với một đất nước thuộc địa nửa phong kiến, nông dân chiếm đa số dân cư như Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xác định quy luật hình thành của Đảng là “kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, bản chất của Đảng trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu – Đảng là của giai cấp, đồng thời của dân tộc và của nhân dân lý luận, chính trị, tổ chức mà cả về văn hóa.Thứ năm, Hồ Chí Minh đã có những cống hiến sáng tạo về tư tưởng quân sự, đăht nền móng cho sự hình thành học thuyết quân sự cách mạng Việt Nam hiện đại. Xuất phát từ nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu của cách mạng Việt Nam là đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, ngay từ đầu, Người đã xác định: Phải giành chính quyền bằng bạo lực, bằng khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng nếu kẻ thù ngoan cố, không chịu hạ vũ khí. Điểm thứ sáu là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, sau khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản sẽ thiết lập nên nền chuyên chính vô sản. Ở Hồ Chí Minh đã hình thành và phát triển một hệ thống các quan điểm sáng tạo về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Người đã vận dụng sáng tạo quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, một cuộc cách mạng từ giải phóng dân tộc mà phát triển lên. Trong chánh cương vắn tắt [1930], Hồ Chí Minh đã nêu: Thiết lập chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông. Tại Hội nghị TW8 [5/1941], Người đề ra chủ trương thành lập “một nước Việt Nam dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng một giai cấp nào, mà của chung toàn thể dân tộc”.Bảy là, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp Hồ Chí Minh đã có các quan điểm sáng tạo về chiến lược đại đòan kết dân tộc theo phương châm: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”. Đường lối của cách mạng Việt Nam là đi từ giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Động lực cơ bản của toàn bộ sự nghiệp cách mạng đó là đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.Những luận điểm sáng tạo nêu trên là những sáng tạo nổi bật trong hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo của Chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta, là người dẫn đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản vô giá mà Người đã để lại cho dân tộc Việt Nam, Người là tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi người dân, đảng viên chúng ta hiện nay. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên, qua đó để giáo dục, rèn luyện mình, xứng đáng là công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Lượt xem: 141322

Trang chủ / Công tác Đảng

          Báo cáo chính trị Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đồng thời Báo cáo chính trị chỉ ra: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm lý luận chính trị toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. Trong những năm gần đây, đời sống chính trị- xã hội  thế giới có nhiều biến động lớn, Việt Nam vẫn vững bước trên con đường CNXH mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Thế giới đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh còn sống mãi.

          Giá trị lớn nhất, xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gắn bó hữu cơ giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta trong việc kết hợp biện chứng vấn đề gai cấp, vấn đề dân tộc và vấn đề nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ rõ cách mạng giải phóng dân tộc phải gắn chặt với sự nghiệp giải phóng giai cấp. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới; lý tưởng độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đó là con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam.

          Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng quá trình nhận thức và giải quyết những vấn đề cách mạng Việt Nam. Khi chưa có Đảng nhân dân ta sống chìm đắm trong vòng nô lệ của chế độ thực dân phong kiến, tưởng như không có lối ra. Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, thành lập Đảng cộng Sản Việt Nam, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn cho sự phát triển của nước ta. Nhờ có tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng, cách mạng Việt Nam đã tìm ra con đường đi đúng, vượt qua mọi thử thách đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhận thức và hành động đúng trong việc đề ra các mục tiêu chiến lược, chiến thuật của cách mạng; huy động tối đa nguồn sức mạnh của nhân dân; đường lối đối nội, đối ngoại sáng tạo.

          Tư  tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Những chỉ đạo của người về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh để thực sự là hạt nhân lãnh đạo của cách mạng nước ta về xây dựng nhà nước, hệ thống chính quyền thực sự của dân, do dân, vì dân; xây dựng các đoàn thể, cán bộ là công bộc của dân mãi mãi vẫn còn nguyên giá trị.

          Tư tưởng Hổ Chí Minh về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là nguồn sức mạnh vô tận để chiến thắng mọi kẻ thù, bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Người chỉ rõ đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công. Muốn vậy phải đoàn kết trong Đảng, đoàn kết trong nhân dân và đoàn kết quốc tế. Đoàn kết vì lợi ích chung và sự phát triển của các thành viên của cả cộng đồng. Đoàn kết vì mục tiên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

          Tư tưởng Hồ Chí Minh đề cao giá trị nhân văn. Đó là lòng yêu thương hết mực con người, nhất là những người lao động, bị áp bức, đau khổ, thiệt thòi. Hồ Chí Minh đặt niềm tin cao độ vào phẩm giá và sức mạnh của con người. Vì vậy, Người sẵn sàng hi sinh chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng con người.

          Về phương pháp luận, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp ta cách nhìn nhận và hành động khoa học, tránh giáo điều, rập khuôn, máy móc hoặc xét lại, bảo thủ trì trệ. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở chúng ta học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Người cán bộ làm việc gì, ở cấp bậc nào đều phải đi sâu nghiên cứu lí luận, không ngừng học tập nâng cao trình độ, đồng thời phải coi trọng tổng kết thực tiễn, bổ sung, làm sáng rõ cho lý luận. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Thực tiễn không có lý luận soi đường là thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có thực tiễn là lý luận suông. Trong công tác luôn hướng về cơ sở, tin ở dân, dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong đấu tranh cách mạng luôn chủ động, sáng tạo, biến yếu thành mạnh, biến ít thành nhiều, tạo thế để phát triển. Người luôn nhắc chúng ta phải kiên định, khôn khéo,  dĩ bất biến, ứng vạn biến;  biến cái đại sự thành cái tiểu sự; biến cái tiểu sử thành cái vô sự. Tuyệt đối không để cái vô sự thành cái đại sự. Vì thế, Hồ Chí Minh giản dị đến vĩ đại và vĩ đại một cách giản dị.

          Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và của dân tộc. Giá trị ấy được khai thác có hiệu quả tới đâu tùy thuộc vào ý thức, trình độ, năng lực vận dụng của mỗi người chúng ta. Nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là công việc rất quan trọng và cần thiết. Vào thời điểm hiện nay lại càng quan trọng và cần thiết. Nếu mỗi cấp ủy và mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên thấm nhuần và quán triệt sâu sắc những  tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh, thật sự tự giác rèn luyện, tu dưỡng theo những lời dạy của Người thì nhất định Đảng ta sẽ ngày càng trong sạch, vững mạnh, khắc phục được những nguy cơ của một đảng cầm quyền, tiếp tục được nhân dân tin yêu ủng hộ.

Khoa Lý luận chính trị - Tâm lý Giáo dục

Video liên quan

Chủ Đề