Một tác phẩm văn học chân chính phải là một lời đề nghị về lẽ sống

Show

Một tác phẩm văn học chân chính phải là một lời đề nghị về lẽ sống

"Mỗi tác phẩm chân chính phải là lời đề nghị về lẽ sống"
Suy nghĩ và làm rõ lời đề nghị về lẽ sống của tác giả qua "Thuật Hoài" của Phạm Ngũ Lão.

* Giải thích: - Tác phẩm chân chính là gì? (Là tác phẩm sống mãi, trường tồn cùng thời gian, mang lại giá trị tốt đẹp cho văn học và cuộc sống.) - Lời đề nghị (đưa ý kiến, yêu cầu đến với mọi người.) - Lẽ sống là gì? (Giá trị, ý nghĩa sống đẹp) -> truyền tải đến người đọc thông điệp về lẽ sống sâu sắc -> Đề cập tới mối liên hệ giữa văn học và cuộc đời. * Bàn luận: - LLVH: dựa trên kiến thức về giá trị hiện thực và giá trị nhận thức) - Phân tích chứng minh:

+ Tác phẩm đưa đến người đọc về lẽ sống- có công danh với núi sông:


  • Khát vọng của trang nam nhi đời Trần được thể hiện qua cụm từ “nợ công danh”.
  • Đây là nội dung quen thuộc của văn học trung đại, là khát vọng lập công, lập danh- xuất phát từ ý thức, trách nhiệm vai trò của trang nam nhi trong xã hội.
  • Nguyễn Công Trứ từng viết:
“Chí làm trai nam bắc tây đông Cho thỏa sức vẫy vùng bốn biển Hay Làm người sống ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông
  • -> Tác dụng: Khách lệ, cổ vũ nam tử hán cống hiến tài trí xây dựng đất nước, từ bỏ lối sống ích kỷ, tầm thường.
+ Với PNL, chí nam nhi gắn với công cuộc chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước. + Tác giả ý thức “còn vương nợ” nghĩa là chưa trả hết nợ công danh cho cuộc đời.
  • Nỗi thẹn của tác giả:
    + Thẹn với ai? Thẹn với Vũ Hầu Gia Cát Lượng- một bậc tài trí tuyệt định trong lịch sử Trung Quốc có công giúp Lưu Bị không phục lại nhà Hán.
+ Tại Sao thẹn? Vì ông thấy mình chưa có tài, chưa cống hiến hết mình cho đất nước. + Ý nghĩa của nỗi thẹn (Thực chất) ` thứ nhất, là sự khiêm tốn của PNL. ` thứ hai, nỗi thẹn của ông là bài học có ý nghĩa giáo dục với đời sau. ` thứ ba, nỗi thẹn còn cháy lên khát vọng muốn được cống hiện, được phụng dưỡng nhiều hơn nữa. => Đây là nỗi thẹn cao cả, làm ngời sáng nhân cách con người PNL. Tác giả ý thức được giá trị của bản thân, sự nghiệp công danh của bản thân thống nhất với sự nghiệp chung lớn lao của dân tộc. Đó là lý tưởng sống cao đẹp mang ý nghĩa tốt. (Chính những con người ấy đã làm nên HKĐA) + Để hoàn thành khát vọng, công danh ấy, Thuật hoài còn là lời nhắn về khả năng để làm nên sự nghiệp công danh- đó là phải có sức mạnh, có khí thế của những bậc hào tử anh hùng:

* Vẻ đẹp người tráng sĩ thời Trần:

"Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu"
  • Tư thế của người tráng sĩ: cụm từ “hoành sóc”- cầm ngang ngọn giáo. Bản dịch là “múa giáo”-> nghiêng về tư thế động nhưng lại chỉ thể hiện được kỹ thuật biểu diễn, không thể hiện được sức mạnh.
  • “Hoành sóc” lại là tư thế tĩnh, dồn nén sức mạnh ở bên trong. Vẽ bức chân dung con người hùng dũng, hiên ngang, chủ động đối mặt với kẻ thù.
  • Tầm vóc: to lớn, kỳ vĩ sánh ngang với vũ trụ bởi người tráng sĩ được đặt trong không gian “giang sơn”. Đây là không gian lớn lao của núi sông bờ cõi. -> đặt trong thời gian “kháp chỉ thu”- đã mấy nghìn năm, một thời gian dài.
  • Ý chí chiến đấu: rất bền bỉ, quyết tâm. Chiến đấu bảo vệ non sông, đất nước trong thời gian mấy năm nhưng chưa hề có dấu hiệu mệt mỏi hay chán nản.
=> Nhận xét:
  • Đây là một câu thơ cảm xúc, tuy có 7 chữ nhưng đã vẽ lên được một cách sinh động hình tượng người tráng sĩ thời Trần với tư thế, ý chí bền vững.
  • So sánh với những câu thơ của Tố Hữu trong bài thơ thơ Tây Bắc:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo Núi không đè nổi vai vươn tới Lá ngụy trang reo với gió đèo.”

* Sức mạnh của ba quân:

Tam Quân tì hổ khí thôn thôn Ngưu Hình ảnh “tam quân” gợi về quân đội xưa thường được chia làm tiền quân, trung quân. -> chỉ quân đội có sức mạnh lớn lao. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật so sánh để diễn tả sức mạnh của ba quân như hổ báo.
  • Nghệ thuật phóng đại “khí thôn Ngưu”
Có hai cách hiểu: + thứ nhất như thế của ba quân mạnh mẽ, hừng hực cũng như hổ báo. + thứ hai, khí thế của ba quân hừng hực bốc cao như át cả sao Ngưu trên trời. -> dù hiểu theo cách nào thì NT phóng đại trong câu thơ cũng cụ thể hóa được sức mạnh vật chất, khái quát hóa sức mạnh tinh thần bằng cảm xúc niềm tự hào, niềm tự tôn dân tộc. => Nhận xét:
  • Cơ sở tạo nên sức mạnh là xuất phát từ lòng yêu nước, lòng căm thù giặc và khát chiến đấu bảo vệ đất nước. Câu 1 và câu 2 là quan hệ bổ sung giữa cá nhân với cộng đồng.
* Đặc sắc nghệ thuật:
  • Thể thơ tứ tuyệt hàm súc.
  • Ngôn ngữ thơ giàu sức gợi hình.
  • Hình ảnh thơ kỳ vĩ, có sức khái quát lớn.
  • Sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật như so sánh, phóng đại, sử dụng điển tích điển cố.
  • Giọng thơ dứt khoát, mạnh mẽ.
Phần cuối bạn khái quát, đánh giá và mở rộng thêm vấn đề nhé!

Reactions: Trẩn Ngọc Thảo Linh

Nguyễn Duy được xem là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ những nhà thơ trẻ trưởng thành trong giai đoạn thơ ca kháng chiến chống Mĩ. Thơ Nguyễn Duy vừa mộc mạc gần gũi, vừa có tính chiều sâu tư tưởng, nó nói lên những băn khoăn trăn trở của nhà thơ trước cuộc đời vốn nhiều biến đống, đổi thay. Bài thơ Ánh trăng được Nguyễn Duy viết vào năm 1978, ba năm sau khi đất nước sạch bóng quân thù. Toàn bài thơ là những hoài niệm đẹp đẽ về những năm tháng đã qua và là lời nói tự cảnh tỉnh chính mình về lẽ sống ân nghĩa, thuỷ chung cao đẹp trong cuộc đời của mỗi con người.

Thân bài

Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian, trong đó ánh trăng là hình tượng xuyên suốt, giàu ý nghĩa biểu tượng. Ánh trăng không chỉ là tiếng lòng, là những suy ngẫm riêng tư của Nguyễn Duy mà là của cả một lớp người, một thế hệ đang tự cảnh tình, tự nhắc nhở mình về lối sống ân nghĩa thuỷ chung đối với quá khứ của dân tộc.

Mở đầu bài thơ là những hồi ức, hoài niệm đẹp đẽ của tác giả về những năm tháng tuổi thơ bên đồng quê ngập tràn ánh trăng, những năm tháng sống ở chiến trường nơi núi rừng hoang vắng, bóng trăng soi vằng vặc trên đầu núi:

Hồi nhỏ sống với đồng Với sông rồi với bể Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ

Không gian sống của tuổi thơ là “đồng”, là “sông”, là “bể”, là một không gian làng quê êm ả, thanh bình. Không gian ấy đã nuôi lớn tâm hồn của con người gắn liền với những năm tháng hồn nhiên, những kỉ niệm êm đềm bên cạnh những người thân yêu ruột thịt. Không gian ấy rất đỗi thiêng liêng, nên thơ và tuyệt đẹp. Nó trở đi trở lại trong thơ của Nguyễn Duy bằng những hình ảnh vô cùng mộc mạc bình dị, đặc trưng cho làng quê Việt Nam. Hình ảnh dòng sông, con đò, cây đa, bến nước, đồng ruộng mênh mông, biển khơi xa thẳm, sung chát đào chua, cánh cò, câu ca mẹ hát là nguồn sống cuộn trào trong kí ức không bao giờ mờ phai

Trong không gian ấy, vầng vầng trăng hiện hữu lung linh mờ tỏ. Đối với tuổi thơ, vầng trăng trên cao vẫn là cái gì đó xa xôi vời vợi. Mãi đến khi trở thành một người lính cầm súng xa nhà đi chiến đấu ở núi rừng hoang vu, quạnh vắng thì lúc ấy vầng trăng mới trở nên gắn bó, đi vào tâm hồn người chiến sĩ.

Trăng trở thành người bạn chia sẻ với con người những buồn vui, gian khổ đời lính. Ánh trăng lung linh mờ ảo bàng bạc cả không gian. Ánh trăng nên thơ tuyệt đẹp giúp con người quên đi những nhọc nhằn, vất vả sau một ngày hành quân gian khổ, giúp con người không cảm thấy trống trải, buồn bã, cô đơn giữa núi rừng heo hút. Ánh trăng làm vơi đi nỗi nhớ quê nhà bởi trong lòng người chiến sĩ vầng trăng sẻ chia.

Trăng ở núi rừng hay trăng ở quê nhà thì cũng chỉ là một vầng trăng ấy mà thôi. Con người nhìn vầng trăng mà nguôi ngoai thương nhớ. Và không biết tự bao giờ trăng trở thành người bạn tri âm tri kỉ, gắn bó với con người. Từ “hồi” lặp đi lặp lại hai lần nhấn mạnh hai giai đoạn từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành của con người với biết bao thăng trầm biến động.

Vầng trăng đã gắn bó thân thiết với con người từ lúc nhỏ đến lúc trưởng thành, cả trong hạnh phúc và gian lao. Trăng là vẻ đẹp của đất nước bình dị, hồn hậu; của thiên nhiên vĩnh hằng, tươi mát, thơ mộng. Vầng trăng không những trở thành người bạn tri kỉ, mà đã trở thành “vầng trăng tình nghĩa” biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung:

Trần trụi với thiên nhiên Hồn nhiên như cây cỏ Ngỡ không bao giờ quên

Cái vầng trăng tình nghĩa.

Từ láy “trần trụi” gợi lên một cách sống mộc mạc, chân chất, bình dị, gần gũi gắn bó với thiên nhiên. Tâm hồn vô tư, “hồn nhiên như cây cỏ” chân chất, thiệt thà, không tính toan vụ lợi. Với những năm tháng sống gần gũi, gắn bó với thiên nhiên biết bao nghĩa tình cùng tâm hồn thuỷ chung, trong sáng, hồn hậu của một con người gắn bó với đồng, với sông, với bể, thi sĩ đã từng “ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa” ấy. Cái vầng trăng đã một thời gắn bó sẻ chia những buồn vui gian khổ, cái vầng trăng đã đánh thức trong con người những rung động, những xúc cảm trước cái đẹp, trước cái chân – thiện – mĩ hiện hữu diệu kì.

Nhưng rồi thơi gian trôi qua, cuộc sống đổi thay, chiến tranh lùi xa vào dĩ vãng, con người từ giã núi rừng trở về thành phố, vết thương khít lại, con người bắt đầu đổi thay:

Từ hồi về thành phố Quen ánh điện cửa gương Vầng trăng đi qua ngõ

Như người dưng qua đường.

Cuộc sống đã khác nhiều, không còn là nơi núi rừng hoang vu quạnh vắng với cuộc sống gian khổ, khó khăn, thiếu thốn mà là thành phố rực rỡ ánh đèn với nhà cao cửa rộng, đầy đủ những tiện nghi vật chất. Con người đã quen rồi với “ánh điện, cửa gương” nơi phồn hoa đô hội và như Tố Hữu đã từng bâng khuân:

Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng.

Cho nên không biết tự lúc nào và tự bao giờ, con người trở nên vô tình, vô cảm:

Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường

Vầng trăng vẫn hiện hữu, vẫn mỗi ngày và mỗi đêm lung linh toả sáng. Còn con người dường như dửng dưng, vô tình không hay biết. Trăng vẫn đẹp, vẫn nên thơ và toả rạng rạn trên bầu trời còn con người thì hờ hững không đoái hoài đến.

Phép đối giữa hai khổ thơ giữa một bên là “cái vầng trăng tình nghĩa” một thời gắn bó, ơn sâu nghĩa nặng đối lập với vầng trăng hoàn toàn xa lạ “như người dưng qua đường”. Từ đó, tác giả muốn nói lên cái vô tâm, bạc bẽo của lòng người, dễ dàng quên lãng những tháng năm gắn bó đã qua.

Hình ảnh nhân hoá “vầng trăng đi qua ngõ” làm cho thiên nhiên trở nên vô cùng gần gũi. Ánh trăng như chủ động âm thầm, lặng lẽ dõi theo và tìm cách gặp gỡ người bạn năm cũ. Ta tự hỏi đã bao lần vầng trăng đi qua ngõ để được gặp gỡ, hội ngộ cùng người nhưng con người thì vẫn khép chặt khung cửa, dửng dưng không hay biết. Song, cuộc đời với những bất ngờ không báo trước, một sự cố xảy đến và trong phút giây con người hội ngộ với vầng trăng xưa cũ:

Thình lình đèn điện tắt phòng buyn-đinh tối om vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn.

Đèn điện tắt, căn phòng tối om, ngột ngạt, bức bối, con người “vội bật tung cửa sổ” với mong muốn thoát khỏi cái vùng tối của không gian đang vây bủa chính mình. Đột ngột vầng trăng tròn xuất hiện. Từ láy “đột ngột” miêu tả sự việc vầng trăng xuất hiện một cách bất ngờ, thình lình, nhanh chóng khiến cho con người cũng cảm thấy bàng hoàng, ngỡ ngàng. Sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng khiến nhà thơ ngỡ ngàng, bối rối, gợi cho nhà thơ bao kỉ niệm, nghĩa tình.

Sau phút bàng hoàng vì bất ngờ ấy là cả một nỗi niềm xót xa, xúc động dâng trào mãnh liệt trong tâm hồn tác giả khi đối diện với vầng trăng tròn, khi cả một quá khứ xa xưa chợt hiện về trong kí ức:

Ngửa mặt lên nhìn mặt Có cái gì rưng rưng Như là đồng là bể

Như là sông là rừng

Mặt đối mặt, con người đối diện với vầng trăng với người bạn xưa cũ, với những năm tháng tươi đẹp đã qua hay cũng là đối diện với chính lòng mình, với con người của những tháng ngày xưa cũ, những năm tháng đạn bom ác liệt đầy mất mát, đau thương nhưng thấm đượm nghĩa tình đồng đội, đồng chí.

Từ láy “rưng rưng” gợi lên trạng thái cảm xúc vô cùng xúc động của nhà thơ khi cả một quá khứ xa xưa chợt hiện về trong tâm trí. Điệp từ “như là” lặp đi lặp lại 2 lần diễn tả một cách tinh tế tâm trạng của một con người đang thả lòng mình trong quá khứ xa xưa. Đây cánh đồng, đây dòng sông, đây bể khơi mênh mông xa thẳm của những năm tháng tuổi thơ. Đây là núi rừng của những năm đánh giặc. Tất cả, tất cả như sống dậy và vẫn vẹn nguyên trong trái tim, trong nỗi nhớ của người chiến sĩ.

Cấu trúc song hành của hai câu thơ kết hợp với nhịp điệu thơ dồn dập cùng biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ, nhân hoá và liệt kê như muốn khắc họa rõ hơn kí ức về thời gian gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình, tri kỉ. Chính thứ ánh sáng dung dị và đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Chất thơ mộc mạc, chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như “có cái gì rưng rưng”, đoạn thơ đã đánh động tình cảm nơi người đọc.

Nói sao hết nỗi mừng vui xúc động pha cả sự xót xa ngậm ngùi, ân hận của một con người đã bấy lâu nay sống vô tâm, hờ hững, lãng quên quá khữ, bạn bè, đồng đội thì nay tìm lại được chính mình, tìm lại được những gì mà một thời mình đã từng coi là thiêng liêng cao đẹp, là suốt đời “ngỡ không bao giờ quên”. Trong giây phút được sống lại những năm tháng tươi đẹp của quá khứ xa xưa, thấy được sự vô tâm hờ hững, sự đổi thay của chính mình thì cũng là lúc con người nhận ra:

Trăng cứ tròn vành vạch Kể chi người vô tình Ánh trắng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình

“Trăng cứ tròn vành vạch” vẫn đẹp một cách viên mãn tròn đầy, vẫn ngày ngày âm thầm lặng lẽ toả sáng, làm đẹp cuộc đời mặc cho con người cứ “vô tình” hờ hững. “Ánh trăng im phăng phắc” là hình ảnh nhân hoá khiến cho ánh trăng giống như một con người bao dung, độ lượng không hề hờn dỗi trách móc trước sự đổi thay của lòng dạ con người.

Sự im lặng mạnh mẽ ấy đủ sức thức tỉnh lương tâm con người vốn đã ngập ngụa trong đời sống tiện nghi. Nó đủ khiến con người giật mình nhận ra sự thay đổi của bản thân mình, mình đã đánh mất chính mình, đánh mất những gì tốt đẹp trong con người mình mà mình không hề hay biết. Mình đã quên đi thiên nhiên tươi đẹp, quên đi quá khữ nghĩa tình. Mình đã để cho những bộn bề, lo toan của cuộc sống nơi chốn thành phố xa hoa rực rỡ, nhà cao cửa rộng nó lôi kéo làm cho mình mờ mắt chìm đắm nên không còn nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên, của hiện hữu nhiệm màu. Mình chỉ sống ở hiện tại mà hoàn toàn quên lãng quá khứ, quên đi những an nghĩa, những gì tốt đẹp đã qua. Giật mình để thức tỉnh, để sửa đổi, làm con người mình trở nên tốt đẹp hơn.

Bài thơ có sự kết hợp hài hoà giữa tự sự và trữ tình; giọng thơ tâm tình, suy tư trầm lắng; ngôn ngữ thơ giàu tính triết lí. Nhà thơ đã rất thành công hình tượng ánh trăng, hình tượng thơ đa nghĩa tượng trưng cho cái đẹp của thiện nhiên, của sự sống, sự thanh cao trong sáng thuần khiết, vẻ đẹp tâm hồn của con người; quá khứ tươi đẹp, những năm tháng chiến tranh gian khổ thắm đượm nghĩa tình đồng đội đồi chí, tình quân dân cá nước.

Bài thơ cất lên như một lời cảnh tỉnh, nhắc nhở chân thành, không chỉ có ý nghĩa đối với một lớp người, một thế hệ vừa đi qua chiến tranh mà còn có ý nghĩa đối với nhiều người vì nó đặt ra một vấn đề đó là thái độ đối với quá khứ, với những người đã khuất và với cả chính mình: Đừng bao giờ lãng quên quá khứ, hãy trân trọng nghĩa tình của quê hương đất nước, đừng đánh mất những điều tốt đẹp trong con người mình chỉ vì cuộc sống kim tiền xa hoa, phù phiếm

Kết bài

Ánh trăng là bài thơ hay, khơi gợi những suy nghĩ về đạo lí, truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” đẹp đẽ của dân tộc. Ánh trăng thật sự là một tấm gương soi để ta thấy được con người thật của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi của tâm hồn mình mà đôi khi ta đã đánh mất mà không hề hay biết.

(Nguồn: theki.vn/cam-nhan-le-song-cao-dep-cua-con-nguoi-qua-bai-tho-anh-trang-cua-nguyen-duy)