Năm 1996 Xuân Diệu được nhà nước tặng giải thưởng gì

Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Xuân Diệu - 4.9 out of 5 based on 29 votes

Chi tiết Được đăng: Thứ hai, 27 Tháng 5 2019 14:53 Viết bởi Admin4 Lượt xem: 35049

Năm 1996 Xuân Diệu được nhà nước tặng giải thưởng gì

Nhà thơ Xuân Diệu đã để lại cho đời sự nghiệp thơ ca đồ xộ, đóng góp to lớn vào sự phát triển văn học Việt Nam. Ông đã đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo.

Tóm tắt lý lịch nhà thơ Xuân Diệu

Nhà thơ tình Xuân Diệu sinh ngày 2-2-1916 tại Tỉnh Bình Định. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Tỉnh Hà Tĩnh. Xuân Diệu xếp hạng nổi tiếng thứ 79876 trên thế giới và thứ 3 trong danh sách Nhà thơ tình nổi tiếng.

Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức ở Mĩ Tho (nay là Tiền Giang), sau đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn.

Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Xuân Quỳnh

Năm 1943, ông tốt nghiệp cử nhân Luật và về làm tham tá thương chánh ở Mỹ Tho.

Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh, đảng viên Việt Nam Dân chủ Đảng, sau tham gia Đảng Cộng sản. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông hoạt động trong Hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký tạp chí Tiền phong của Hội. Sau đó ông công tác trong Hội văn nghệ Việt Nam, làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn nghệ ở Việt Bắc.

Xuân Diệu tham gia ban chấp hành, nhiều năm là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam.

Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Xuân Diệu

Thi sĩ Xuân Diệu được mệnh danh là "Ông hoàng thơ tình". Ông là một cây đại thụ của thơVề lĩnh vực thơ ca, chúng ta có thể tìm hiểu qua hai giai đoạn chính, trước và sau cách mạng tháng Tám. Trước cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn. Các tác phẩm chính: tập thơ “Thơ thơ” (1938) và “Gửi hương cho gió” (1945). Nội dung của thơ Xuân Diệu trong thời kỳ này là: Niềm say mê ngoại giới, khát khao giao cảm trực tiếp, cháy bỏng, mãnh liệt với cuộc đời (“Vội vàng”, “Giục giã”). Nỗi cô đơn rợn ngợp của cái tôi bé nhỏ giữa dòng thời gian vô biên, giữa không gian vô tận (Lời kỹ nữ). Nỗi ám ảnh về thời gian khiến nhà thơ nảy sinh một triết lý về nhân sinh: lẽ sống vội vàng (“Vội vàng”). Nỗi khát khao đến chảy bỏng được đắm mình trọn vẹn giữa cuộc đời đầy hương sắc và thể hiện nỗi đau đớn, xót xa trước khát vọng bị lãng quên thật phũ phàng trước cuộc đời (“Dại khờ”, “Nước đổ lá khoai”).

Năm 1996 Xuân Diệu được nhà nước tặng giải thưởng gì

Sau cách mạng, thơ Xuân Diệu đã vươn tới chân trời nghệ thuật mới, nhà thơ đã đi từ “cái tôi bé nhỏ đến cái ta chung của mọi người” (P.Eluya). Xuân Diệu giờ đây đã trở thành một nhà thơ cách mạng say mê, hăng say hoạt động và ông đã có thơ hay ngay trong giai đoạn đầu. Xuân Diệu chào mừng cách mạng với “Ngọn quốc kỳ” (1945) và “Hội nghị non sông” (1946) với tấm lòng tràn đầy hân hoan trước lẽ sống lớn, niềm vui lớn của cách mạng.

Cùng với sự đổi mới của đất nước, Xuân Diệu có nhiều biến chuyển trong tâm hồn và thơ

Ý thức của cái Tôi công dân, của một nghệ sĩ, một trí thức yêu nước trước thực tế cuộc sống. Đất nước đã đem đến cho ông những nguồn mạch mới trong cảm hứng sáng tác. Nhà thơ hăng say viết về Đảng, về Bác Hồ, về Tổ quốc Việt Nam, về quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc và công cuộc thống nhất nước nhà. Các tác phẩm tiêu biểu: tập “Riêng chung” (1960), “Hai đợt sóng” (1967), “tập “Hồn tôi đôi cánh” (1976)…

Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Huy Cận

Từ những năm sáu mươi trở đi, Xuân Diệu tiếp tục viết thơ tình. Thơ tình Xuân Diệu lúc này không vơi cạn mà lại có những nguồn mạch, cảm hứng mới. Trước cách mạng, tình yêu trong thơ ông hầu hết là những cuộc tình xa cách, cô đơn, chia li, tan vỡ… Nhưng sau cách mạng, tình yêu của hai con người ấy không còn là hai vũ trụ bé nhỏ nữa mà đã có sự hòa điệu cùng mọi người. Tình cảm lứa đôi đã hòa quyện cùng tình yêu tổ quốc. Xuân Diệu nhắc nhiều đến tình cảm thủy chung gắn bó, hạnh phúc, sum vầy chứ không lẻ loi, đơn côi nữa (Dấu nằm”, “Biển”, “Giọng nói”, “Đứng chờ em”).

Về lĩnh vực văn xuôi có thể nói Xuân Diệu quả thật tài tình. Bên cạnh tố chất thơ ca bẩm sinh như thế, Xuân Diệu còn rất thành công trong lĩnh vực văn xuôi. Các tác phẩm chính: “Trường ca” (1939) và “Phấn thông vàng” (1945). Các tác phẩm này được Xuân Diệu viết theo bút pháp lãng mạn nhưng đôi khi ngòi bút lại hướng sang chủ nghĩa hiện thực (“Cái hỏa lò”, “Tỏa nhị Kiều”).

Ngoài ra, Xuân Diệu còn rất tài tình trong việc phê bình văn học, dịch thuật thơ nước ngoài. Các tác phẩm tiêu biểu: “Kí sự thăm nước Hung”, “Triều lên”, “Các nhà thơ cổ điển Việt Nam”, “Dao có mài mới sắc”.

Năm 1996 Xuân Diệu được nhà nước tặng giải thưởng gì

Dù ở phương diện nào, Xuân Diệu cũng có đóng góp rất to lớn với sự nghiệp văn học Việt Nam. Vũ Ngọc Phan từng nhận xét “Xuân Diệu là người đem nhiều cái mới nhất cho thơ ca hiện đại Việt Nam”. Sự đóng góp của Xuân Diệu diễn ra đều đặn và trọn vẹn trong các thể loại và các giai đoạn lịch sử của dân tộc. Chính vì thế có thể nói rằng Xuân Diệu xứng đáng là một nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn.

Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Hàn Mặc Tử

Năm 1996, Xuân Diệu được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật. Để vinh danh và tưởng nhớ đến Xuân Diệu, tên của ông đã được đặt cho nhiều tuyến đường và trường học ở nhiều thành phố lớn của Việt Nam.

Thi sĩ Xuân Diệu qua đời ngày 18 tháng 12 năm 1985. Hiện nay, nhà tưởng niệm và nhà thờ của ông được xây dựng tại làng Trảo Nha, thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

Các tác phẩm (bài thơ) nổi tiếng của nhà thơ Xuân Diệu

Anh đã giết em7Anh là người bạc bẽoAnh thương em khi ngủAnh về Ấm Thượng...Bác đi xa cháu, nhớ ghêBến thần tiênBiết tạc đâu ra em của anh?Bữa tiệc đôi ta sáng nước mâyBức tượngCây đời mãi mãi xanh tươiChén nướcCó emCóiCứ phải là emDấu nằm1DỗiĐa tình 4ĐànĐánh đau em...Đêm trăng đường LángĐời anh, em đã đi qua...Đứa con của tình yêuĐứng chờ em3Em điEm đi tuyến lửaEm đọc lại thơ...Em làm bếpGặp gỡ (II) Giọng nóiHoa “anh ơi”Hoa đêmHoa ngọc trâm HônHôn cái nhìnHy Mã Lạp Sơn1Khác mộngKhông đềKhúc hát tình yêu và đất nước

Khung cửa sổ

Thưởng thức những món đặc sản Quy Nhơn đậm chất vùng biển

Kỷ niệm (II)LạMặt emNằm đêm anh cứ thương emNhớ nhỏ đôi tayNhớ Vĩnh KimNhững đêm hành quânNói tào laoỞ ngoài vạn lýPhan Hành SơnPhân vânPhượng mười nămQuạtRừng mơ tuổi thơSự sống chẳng bao giờ chán nảnThácThăm Pác-bó2Thân emThơThơ bát cúThơ duyên 5Tình mai sauTrách emTrái tim em thức đậpTrăm ba mươi đoáTrăng khuya trên Hắc HảiTrăng sángTrùng điệp chiêm baoTứ tuyệt tương tưVấn vương1Vội gì vội...Vợ chuẩn bị hành trang cho chồng vào hoả tuyếnXuân không mùa2Thơ thơ (1938) Cảm xúcNụ cười xuân “Vì sao”13Nguyên đánTrăng Huyền diệuGặp gỡ (I)Yêu Xa cách6Phải nói1Tình trai2Nhị hồĐi thuyềnThời gianĐây mùa thu tới 13Ý thuHẹn hòChàng sầu1Lạc quanBài thơ tuổi nhỏMùa thiVô biên1Vội vàng 44Có những bài thơ

Tiếng không lời (Mây lưng chừng hàng)

Tổng hợp những điểm du lịch nổi tiếng Quy Nhơn

Đơn sơGiờ tànChiều 1Viễn kháchBiệt ly êm áiTương tư chiều 4Với bàn tay ấy...Giới thiệuBên ấy bên nàyCặp hài vạn dặmTiếng gióHoa nở để mà tànMuộn màngThở thanChiếc láSắtGửi trờiCa tụng1Mười chữNúi xaDối trá1Gửi hương cho gió (1945) Lời thơ vào tập Gửi hươngNguyệt cầm 3Buồn trăngLời kỹ nữ 5Gửi hương cho gió1Bài thứ nămMời yêu1Phơi trảiDại khờ 10Chỉ ở lòng taGiục giã 2Buổi chiềuTặng bạn bây giờXuân rụngHư vôTình cờTình quaThu1Bụi mưa mờ cũNgẩn ngơ1Tình thứ nhất 1Xuân đầuTrò chuyện với Thơ thơLưu học sinhĐêm thứ nhấtNước đổ lá khoaiNhững kẻ đợi chờNhớ mông lungSương mờ Im lặngKhi chiều giăng lướiNgã baTặng thơKỷ niệm (I)Hết ngày hết thángYêu mếnGiã từ thân thể...Đi dạoÝ thoángMơ xưa1Hè2Kẻ đi đàyRiêng tâyTruyện cái thưRạo rựcDâng

Chiều đợi chờ

7 món ăn đặc sản Bình Định ngon tuyệt

SầuMênh môngĐẹpThanh niênNgọn quốc kỳ (1945) Vịnh cái cờNgọn quốc kỳ1Dưới sao vàng (1949) Bài thơ của mẹ Việt muôn đờiTrận trường kỳMaiCăm hờnXuân Việt NamĐêm đêm tiếng của lòng Trung Bắc...Chúng ta...Nguồn thơ mớiHồn cách mạngTiếng vàngTiếng nói Việt NamĐàn chim dân tộcMột cuộc biểu tìnhTổng... bất đình côngBiểu tình mưaMê quần chúngThủ đô đêm mười chínNhớ mùa tháng támẢnh cụ HồKim chỉNhớ tay chânBiệt ly kháng chiếnMãi mãiHương đờiĐôi hoa gạoMột ngày xuânTrở vềMẹ con (1954) Bà cụ mù loàMẹ conAnh bộ đội về làngSáng (1954) Hoà bìnhTa chào Vôn ga - ĐôngTặng đồng chí tâm giaoThơ dâng Bác HồLàng CòngNgôi sao (1955) Sao lại vui sướng hôm nayChị CúcCái cặp tócKhông sợEm béChị DungChòm Văn SơnNhà mớiĐất nướcBồ câu trắngGửi Nam Bộ mến yêuBà mẹ miền NamChiếc gốiTặng nhà thơ Pa-thét Lào: Xôm-xiNằm bệnh việnTa chào Việt Bắc, về xuôiTa đi tới Mạc Tư KhoaCầm tay (1962) Đề từTừ xa bờ cỏ đường quêTình yêu san sẻƯớc chi...MưaNhững suối trờiChưa hiểuMặt người thươngBá Nha, Trương ChiQuả trứng và lòng đỏNgút ngànAnh nhớ thương aiMột buổi sớm maiHoa nở sớmMượn nhà vũ trụTình yêu muốn hoá vô biên...Cái dằmAnh đến thăm emUống xong lại khát...Hoa đẹp là hoa nhìn với mắt em...Sao em lại như thếThơ tình mùa xuânMột buổi chiềuGần... xa...NguyệnHoa cải cúcÁo emBiển Aragông và EnxaMũi Cà Mau (1962) Bài mở đầuMũi Cà MauBàn tay taHỡi mìnhBà má Năm CănChị Vân

Em Ứng

Cẩm nang vui chơi ở Vinpearl Land Nha Trang

Nụ cười Lê Quang VịnhVườn hoa “Thống Nhất”Tiếng ru conĐường vào NamChung thuỷMáy tự tửPhải sàng ra, phải lọc raCăm giậnTội ác phá rừngMột tên Mỹ bị sập hầm chôngMưa phóng xạ MỹNỗi cô quạnh của thần Tự Do (ở Mỹ)Lời thềRiêng chung (1962) Những vần xây dựng Ngói mớiCaoTrước cổng nhà máy xayNhững kỷ niệm lớn GánhĐấu tranhLý tưởngTạc theo hình ảnh cụ HồLệMười lăm nămNhững bài thơ thời sự Bia Việt NamNỗi mừng nghe tin lúaĐẻ một hành tinhĐã tới mặt trăngLưng trăngRừng thu XibêriChào Hạ LongBiển lúaRétThăm Hoà BìnhVề TuyênXuânHoaTrồng câyPhượng mười nǎmHỏiEm đến chơiSớm nayDạ hươngCon sáo sang sôngHai bức thưNhớ emNgọc tặngGieo mùaVô sản chuyên chínhĐi với dòng ngườiChặt cái bùi ngùiGióĐôi mắt xanh nonCụ MuỗiCầu an

Ốm

Vui quên lối về ở đảo Hòn Tằm Nha Trang

Một Bế Văn ĐànThép cứng nhất là thép ngườiPhú LợiGửi sông Hiền LươngNhớ quê NamCha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong1Một vườn xoàiEm chờ anhTôi giàu đôi mắt (1970) Đêm ngủ ở Tuy Phước1Hoa cà phêHoa keo ở Quy Nhơn1Quả sấu non trên cao1Thác Gu Ga1Mười bài thơ (1974) Hoa cau Ba lời cảm ơn Ánh sáng Thanh ca (1982) Anh nằm bệnh việnChậm chậm đừng quên...

Phan Thiết