Nghiên cứu thành ngữ Idioms tiếng Việt có chứa tên gọi động vật animals

Tóm tắt nội dung tài liệu

90

NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG

Số 11 (229)-2014

DẤU ẤN VĂN HÓA QUA HÌNH TƯỢNG CON VẬT
TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH
CULTURAL CHARACTERISTICS REVEALED THROUGH IMAGES OF ANIMALS
IN ENGLISH AND VIETNAMESE IDIOMS
NGUYỄN MAI HOA
(ThS; Đại học Ngoại ngữ, ĐHQG Hà Nội)
Abstract: Apart from being important language units which demonstrate a person’s efficiency in language
use, idioms also express cultural characteristics of a country. Therefore, it is necessary for foreign language
learners to acquire cultural knowledge in order to use idioms effectively. In this research, the author aims to find
out some similarities and differences in Vietnamese and English culture revealed through idiomatic expressions
to help learners use idioms successfully in communication. Idioms with animal expressions are the main data in
this paper as they are quite popular in our daily life. These idioms were collected, compared and synthesized to
find out similar and different meanings of animal expressions in English and Vietnamese which results from
cultural characteristics. This paper also mentions some idioms with equivalent meanings but are expressed in
different ways in these two languages.
Key words: cultural characteristics; English and Vietnamese idioms; animal expressions.
thành ngữ. Cũng theo tác giả, trong nhận thức của
1. Đặt vấn đề
Khả năng sử dụng thành thạo một ngoại ngữ người Việt, thế giới động vật được quy chiếu theo bốn
không chỉ phụ thuộc vào năng lực ngôn ngữ mà còn nhóm: trùng (côn trùng), ngư (các loài cá), điểu (các
phụ thuộc vào hiểu biết, kiến thức văn hóa của người loài chim), và thú (các loài thú). Còn theo tác giả Cù
học trong bối cảnh ngôn ngữ đó. Chính sự khác biệt Thị Minh Ngọc (2011), các loài động vật phổ biến
về cách suy nghĩ, quan niệm giá trị, phong tục tập trong tiếng Việt được chia thành các nhóm: 1/ Nhóm
quán,…của từng dân tộc đã gây không ít khó khăn động vật được tôn sùng trong tôn giáo, tín ngưỡng
cho người học ngoại ngữ khi giao tiếp. Vì vậy, để sử (phổ biến là rồng, cá chép, rùa, hạc, cá sấu, rắn,
dụng ngoại ngữ hiệu quả nhất, việc tìm hiểu những cọp…); 2/ Nhóm gia súc (phổ biến là trâu, bò, lợn…);
đặc trưng văn hóa dân tộc là cần thiết và hữu ích. 3/ Nhóm gia cầm (phổ biến là gà, vịt…); 4/ Nhóm vật
Trong bài viết này, chúng tôi khảo sát một vài đặc nuôi trong nhà (phổ biến là chó, mèo…); 5/ Nhóm
trưng văn hóa của hai nước Anh - Việt thông qua động vật rừng núi, thảo nguyên (phổ biến là cọp, voi,
thành ngữ, nhằm giúp người học vận dụng các thành ngựa, gấu….) 6/ Nhóm gặm nhấm (chuột); 7/ Nhóm
ngữ này thuần thục hơn trong giao tiếp.
côn trùng, sâu bọ (ong, bướm, ruồi, muỗi…).
Các thành ngữ được thu thập trong cuốn “Từ
Theo thống kê của tác giả Nguyễn Thị Bảo (2003)
điển thành ngữ tiếng Việt phổ thông” của tác giả trong tổng số 1555 thành ngữ tiếng Việt có thành tố
Nguyễn Như Ý (2002) chủ biên, cuốn “Tuyển tập chỉ con vật, một số loài xuất hiện nhiều nhất bao gồm
thành ngữ-tục ngữ-ca dao Việt Anh thông dụng” của chim (232 thành ngữ), sau đó đến cá và các loại cá
tác giả Nguyễn Đình Hùng (2003), cuốn Oxford (149 thành ngữ), chó (149), trâu (123), gà (113), mèo
Learners’ Dictionary of English Idioms của H.Warren (61), bò (61), ngựa (58), cọp (55), chuột (47), lợn (28),
(1994) và tham khảo từ các nghiên cứu kể trên.
rồng (23), ong (21)… Tương tự như vậy, trong số 463
2. Hình tượng các con vật trong thành ngữ thành ngữ tiếng Anh có từ chỉ động vật, những thành
tố xuất hiện nhiều nhất là dog (64), bird (58), fish (46),
tiếng Việt và tiếng Anh
horse (46), cat/kitten (37), bull/ox/cow/calf (24),
2.1. Một số cách phân loại
Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thùy Vân cock/chicken/hen (24), pig (20), rabbit/hare (10)…
(2014), đặc trưng văn hóa dân tộc trong sự nhận thức Còn theo khảo sát của tác giả, trong số 530 thành ngữ
về giới tự nhiên nói chung, thế giới động vật nói riêng tiếng Việt có từ chỉ động vật, thành tố xuất hiện nhiều
được phản ánh khá đậm nét trong ca dao, tục ngữ, nhất là cá (chiếm 14%), chó (11%), trâu (10%), chim

Số 11 (229)-2014

NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG

(9%), mèo (9%)… Với các thành ngữ tiếng Anh,
trong tổng số 368 thành ngữ có từ chỉ động vật, thành
tố chiếm tần suất lớn nhất là dog (15%), fish(12%),
horse(9%), cow/ox/bull (7%), bird (7%)… Trong
khuôn khổ bài báo này, tác giả chỉ đưa ra các thành
ngữ có chứa hình ảnh một số loài vật tiêu biểu trong
các nhóm động vật kể trên.
2.2. Nhóm vật linh
Đầu tiên phải kể tới nhóm động vật được coi là
linh thiêng và tôn sùng trong tôn giáo và tín ngưỡng
người Việt. Từ xa xưa, do điều kiện tự nhiên và xã
hội, người phương Đông sống gần gũi với tự nhiên
nên đã có tín ngưỡng thờ cúng và tôn sùng các loài vật
thiêng, trong đó có những loài tưởng tượng như tứ
linh “long, li (lân), quy, phượng”. Do sinh sống chủ
yếu bằng nông nghiệp, môi trường sống của họ
thường tập trung ở những vùng đồng bằng nằm ở lưu
vực các con sông lớn, nên yếu tố sông nước rất quan
trọng với họ. Theo tác giả Bùi Thị Thanh Mai (2008)
hình ảnh con rồng được sáng tạo với ý nghĩa đầu tiên
là biểu tượng của nước - sự phong đăng, mùa màng
bội thu. Theo truyền thuyết, tổ tiên của người Việt vốn
thuộc dòng dõi rồng tiên, nên con rồng được coi là
biểu tượng thiêng liêng hàng đầu trong văn hóa Việt.
Tuy không phổ biến nhưng hình ảnh con rồng vẫn
xuất hiện trong các thành ngữ Việt chỉ về sự sang
trọng, xuất chúng như “đẹp như rồng bay, phượng
múa” hay “thêu rồng, vẽ phượng”, “chạm rồng, trổ
phượng”, “rồng đến nhà tôm”… Trái lại, theo quan
niệm của phương Tây, con rồng là một biểu tượng
độc ác và thường đại diện cho những sức mạnh xấu
xa, nên không có thành ngữ tiếng Anh nào mang
nghĩa tích cực về hình ảnh này. Tương tự như vậy,
trong từ điển tiếng Việt, “phượng” là loài chim rất đẹp
trong trí tưởng tượng của con người, là “chúa của các
loài chim” (Hoàng Phê, 1997). Trong văn hóa dân
gian Trung Quốc, phượng hoàng là loài vật thần thoại
được tôn kính chỉ sau rồng. Cách tiếp cận biểu trưng
của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nhiều từ văn hóa
Trung Quốc, nên hình ảnh phượng hoàng cũng là một
hình ảnh tích cực biểu trưng cho vua chúa hay những
người có địa vị cao quý, giàu sang trong xã hội (chạm
rồng trổ phượng, gác phượng đài rồng, lông phượng
gót lân), hoặc chỉ nét đẹp tao nhã (mắt phượng mày
ngài). Bên cạnh đó, “phượng” hay “phụng” (chim
trống) xuất hiện bên cạnh loan (chim mái) tạo thành
biểu tượng của những cặp vợ chồng hạnh phúc (chăn

91

loan gối phượng, loan phụng hòa minh). Trong các
thành ngữ tiếng Anh người viết khảo sát, chưa có
thành ngữ nào có hình ảnh “phượng’ (phoenix).
2.3. Nhóm gia súc
Nhóm động vật tiếp theo được nhắc tới là là nhóm
gia súc phổ biến, mà tiêu biểu là trâu, lợn (với người
Việt Nam), và ngựa (với người Anh). Trong tâm thức
người Việt thời xưa, “phú” được gắn với nông. Tâm lí
đó đã tồn tại bền vững từ bao đời qua những câu
truyền miệng như “nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy
rông, nhất nông nhì sĩ”. Ở một nền văn hóa trọng
nông như vậy, các loài gia súc chính là một dấu hiệu
đặc thù về vị trí xã hội của gia chủ. Bên cạnh đó, đặc
trưng văn minh lúa nước khiến cho hình ảnh con trâu
trở thành hình ảnh thân thiết gắn bó nhất với người
nông dân Việt Nam, hình ảnh này xuất hiện với tần
suất cao trong các thành ngữ, chiếm vị trí cao về sự đa
nghĩa.
“Trâu” được dùng như một biểu tượng về sự giàu
có, một tài sản quan trọng đối với người nông dân.
Người có của là người có “ba bò chín trâu”, “ruộng
sâu trâu nái”. Người Việt dùng hình tượng con trâu để
liên tưởng đến những phẩm chất tốt đẹp của người
nông dân như cần cù, chịu khó (làm việc như trâu),
khỏe mạnh (khỏe như trâu), bản lĩnh (có ăn có chọi
mới gọi là trâu), không ngại gian khổ (trâu hay chẳng
ngại cày trưa), sẵn sàng tương trợ (trâu béo kéo trâu
gầy). Tuy nhiên, “trâu” cũng có một số nét nghĩa âm
tính khi đại diện cho những người chịu nhiều gian khổ
thiệt thòi (làm thân trâu ngựa, thân trâu bò), hoặc khi
dùng để chỉ những người ngốc nghếch, kém hiểu biết
như (đàn gảy tai trâu) hay ăn ở bẩn thỉu (bẩn như trâu
đầm), có vẻ ngoài thô kệch xấu xí (béo như trâu
trương). Trái lại, hình ảnh con trâu không hề xuất hiện
trong thành ngữ tiếng Anh. Theo tác giả Nguyễn
Thanh Tùng (2000), “trong khoảng 5500 thành ngữ
Anh được khảo sát, từ “trâu” (buffalo) không xuất
hiện lần nào”. Đây là một lí do dễ hiểu, vì con trâu chỉ
là một hình ảnh quen thuộc với những quốc gia gắn
bó với văn mình nông nghiệp, lúa nước, với hình ảnh
“con trâu đi trước, cái cày theo sau”. Còn ở những
quốc gia có nền “văn hóa gốc du mục” lâu đời như
Anh (theo cách phân chia của tác giả Trần Ngọc
Thêm (2004)), với hệ thống đường bộ phát triển, loài
gia súc phổ biến từng được dùng như phương tiện đi
lại quan trọng nhất chính là ngựa. Do đó, rất nhiều các
thành ngữ tiếng Anh dùng hình ảnh con ngựa với nét

92

NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG

nghĩa tích cực. Trong tâm thức của người Anh, ngựa
là con vật khỏe mạnh (as strong as a horse), đáng tin
cậy (from the horse’s mouth), chăm chỉ không nề hà
(a willing horse), là tài sản cần được giữ gìn (to shut
the stable door after the horse has bolted), là vẻ ngoài
khiến người ta cảm thấy kiêu hãnh (a beggar on
horseback). Có thể nói nếu người Việt gắn bó với hình
ảnh con trâu thì người Anh gắn bó với con ngựa. Điều
đó lí giải tại sao, khi khuyên răn con người không làm
chuyện ngược đời, vô ích, người Việt có câu “Đừng
đặt cái cày đi trước con trâu”, còn người Anh có thành
ngữ “Don’t put the cart before the horse” (Đừng đặt
chiếc xe trước con ngựa). Trong lịch sử của người
Việt Nam, ngựa cũng là một loại phương tiện di
chuyển quan trọng, nhưng thường dùng trong chiến
trận, vì vậy hình ảnh con ngựa thường biểu tượng cho
lòng kiêu hãnh, khí phách anh hùng, dũng mãnh như
“thiên binh, vạn mã”, “đơn thương, độc mã”.
“Ngựa”cũng là phương tiện đi lại của những người
giàu sang (chuông vạn ngựa nghìn, lên xe xuống
ngựa). Ngoài ra, trong một số thành ngữ Việt Nam,
hình ảnh con ngựa cũng được dùng với nghĩa tiêu cực
như “ngựa quen đường cũ”, “đầu trâu, mặt ngựa”,
“ngựa bất kham” hay “ngựa non háu đá”, “ngưu tầm
ngưu, mã tầm mã”…
Một loại gia súc khác được nhắc tới trong các
thành ngữ tiếng Việt là lợn. Dựa vào đặc tính của con
vật này trong đời sống, hỉnh ảnh “lợn” trong thành
ngữ tiếng Việt và Anh thường mang sắc thái tiêu cực.
Thành ngữ Việt và Anh đều dùng hình ảnh con lợn để
chỉ những khuyết điểm của con người như to béo (béo
như lợn/ as fat as a pig), ăn uống thô tục (ăn như lợn/
eat like a pig/make a pig of oneself), ngu ngốc (ngu
như lợn/ as stupid as a pig), hay ganh ghét (lợn chê
chó có bọ), nghênh ngang (heo chết không sợ nước
sôi). “Lợn” còn là nguyên nhân của những chuyện lộn
xộn (lợn không cào, chó nào sủa), hay chỉ những việc
vô nghĩa (put lipstick on a pig), tai bay vạ gió (pig in
the middle)… Vậy lí do tại sao một con vật có giá trị
kinh tế lớn lại được nhìn nhận không mấy thiện cảm
như vậy? Bởi nước Anh có nền văn hóa “trọng động”
(cũng theo cách phân chia của tác giả Trần Ngọc
Thêm (2004)), nên vật nuôi của họ chủ yếu là những
loài ăn cỏ như bò, ngựa, cừu. Giống lợn ăn khỏe và
bất lợi khi di chuyển không phải sự lựa chọn tối ưu
của những người nay đây mai đó, nên con lợn trong
mắt họ hầu như không có ưu điểm gì. Còn đối với

Số 11 (229)-2014

người Việt Nam, tuy có những nét xấu nhưng lợn vẫn
là con vật nuôi gần gũi, hiền lành, mang giá trị kinh tế
cao với nền nông nghiệp “trọng tĩnh”, có tính định cư
cao. Chẳng thế mà có câu tục ngữ “muốn giàu nuôi
heo nái, muốn lụn bại, nuôi bồ câu”. “Lợn” cũng là
biểu tượng của miếng ăn ngon (đầu gà má lợn), là
bổng lộc mọi người mong muốn (thủ thỉ ăn thủ lợn),
là hàng hóa có thể mua bán (lợn nhà, gà chợ), là vật
dụng hàng ngày có thể vay mượn (mượn đầu heo nấu
cháo)…
2.4. Nhóm vật nuôi
Bên cạnh đó, nhóm vật nuôi cũng khá phổ biến
trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh, tiêu biểu là
chó và mèo. Mặc dù là con vật khá gần gũi trong đời
sống sinh hoạt hàng ngày của con người nhưng nhìn
chung nhóm này thường mang nghĩa tiêu cực trong
cả hai loại thành ngữ. Người Việt đã quan sát tập tính
sinh hoạt của loài chó và dùng những hình ảnh này để
ví von với các thói hư tật xấu của con người. Ví dụ kẻ
hay cáu gắt được coi là “cắm cảu như chó cắn ma”,
kẻ bất tài nhưng gặp may mắn giống như “chó ngáp
phải ruồi”, kẻ tiểu nhân chỉ dám hùng hổ ra oai khi
mượn thế bề trên là “chó cậy gần nhà”. Ngoài ra còn
có các đặc tính khác như tham lam (chó già giữ
xương), ngu dốt (ngu như chó), bẩn thỉu (bẩn như
chó), thích gây gổ (như chó với mèo), hèn hạ (lên voi
xuống chó), hay chê bai (chó chê mèo lắm lông),
không đàng hoàng (chó chui gầm chạn, nhục như
chó)… Tương tự như vậy, hình ảnh con chó trong
thành ngữ tiếng Anh cũng gắn với những đặc tính
xấu xa. Đó là kẻ ích kỉ (a dog in the manger), thích
gây gổ (fight like cat and dog), bừa bộn (like a dog’s
dinner), cậy thế để ra oai (every dog is valiant at his
own door), gian giảo (as crooked as a dog’s hind leg),
hèn hạ (dirty dog), bị khinh rẻ (die like a dog), sống
cuộc sống cực khổ (to lead a dog’s life)… Con mèo
cũng bị phê phán bởi một số đặc tính như hay ăn
vụng (chó treo mèo đậy), lười biếng (làm như mèo
mửa), yếu đuối (as weak as a kitten), kiêu căng tự phụ
(as conceited as a barber’s cat), nhút nhát (as nervous
as a cat), cẩu thả (rửa mặt như mèo), ma mãnh, lăng
nhăng, vô kỉ luật (mèo già hóa cáo, mèo mả gà đồng),
thích khoe khoang (mèo khen mèo dài đuôi), gian ác
(put the cat near the goldfish bowl), bất tài nhưng gặp
may (mèo mù vớ cá rán), giả nhân giả nghĩa (mèo già
khóc chuột), hay gây rắc rối (put the cat among the
pigeons)…

Số 11 (229)-2014

NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG

Tuy nhiên vẫn có sự khác biệt trong cách nhìn
nhận vật nuôi ở phương Đông và phương Tây, xuất
phát từ đặc tính văn hóa từ xa xưa. Theo tác giả
Hồng Ngọc (2013), do văn hóa phương Đông được
hình thành bên lưu vực các sông lớn, nhu cầu trị
thủy khiến họ đoàn kết lại nên giữa các cư dân có sự
gần gũi thân thiết, họ hầu như không có nhu cầu làm
bạn với động vật. Trái lại, văn minh phương Tây
hình thành ở vùng trung du có khí hậu ôn đới,
không hình thành sự quần cư do người dân có thể tự
canh tác trên đất đai của mình, không có nhu cầu trị
thủy. Nền kinh tế phương Tây chủ yếu đi lên từ
chăn nuôi trên các trang trại lớn nên đời sống của họ
rất gần gũi với các loài vật, có nhu cầu bầu bạn cùng
động vật. Vì vậy mà có sự khác nhau trong khái
niệm vật nuôi của người phương Đông và phương
Tây. Ở các nước phương Đông như Việt Nam, con
chó được xác định rõ địa vị như là “đầy tớ” (đánh
chó phải ngó mặt chủ), còn ở phương Tây người ta
có cách gọi chó mèo âu yếm là “vật cưng”. Do đó
trong tiếng Anh vẫn có những câu thành ngữ với
hình ảnh ngộ nghĩnh về chó, mèo để chỉ trạng thái
tích cực của con người như vui vẻ (like a dog with
two tails), đạt được thành quả (every dog has his
day), để chỉ sự xuất chúng (to be the cat’s pyjamas,
fat cat, top dog), chỉ điều nhỏ bé nhưng còn có ích
hơn vật to lớn mà vô dụng (a live dog is better than a
dead lion), để tượng trưng cho những gì thân thuộc
của con người (love me love my dog). Trong tiếng
Việt hầu như không có sự xuất hiện của nhóm thành
ngữ này.
2.5. Các nhóm khác
Theo tác giả Nguyễn Thanh Tùng (2000), xét về
vị trí tự nhiên-địa lí, Việt Nam có hệ thống sông
ngòi dày đặc, là điều kiện thuận lợi cho các loài
động vật ưa nước (cá nước ngọt) phát triển mạnh.
Cùng với khí hậu nhiệt đới ẩm, rất nhiều loài sâu bọ,
côn trùng có khả năng sinh sống và phát triển trong
môi trường này. Theo quy luật cân bằng sinh thái,
nơi nào có nhiều sâu bọ và côn trùng gây hại cho
mùa màng, nói đó sẽ có nhiều loài chim, động vật
ăn sâu bọ và côn trùng. Điều đó lí giải vì sao nhóm
“trùng” (côn trùng, sâu bọ), “ngư” ( các loại cá) và
“điểu” (các loại chim) chiếm số lượng lớn trong các
câu thành ngữ Việt Nam. Trong bài viết này, tác giả
chỉ đưa ra một số các thành ngữ về các loại cá, do
nhóm này có sự khác biệt lớn trong thành ngữ tiếng

93

Anh và tiếng Việt. Trong thành ngữ Việt, “cá”
tượng trưng cho người có chí lớn, vượt qua khó
khăn để vươn tới thành công (cá chép hóa rồng, cá
vượt vũ môn), chỉ những người gặp may (cá rô gặp
mưa rào), chỉ sự tự do phóng khoáng (chim trời cá
nước). Cá cũng dùng để chỉ những thế lực khác
nhau trong xã hội (cá lớn nuốt cá bé, cá mè đè cá
chép, cá mè một lứa), để chỉ kẻ hư hỏng xấu xa (cá
thối rắn xương, cá vàng bụng bọ)… Những đặc
điểm về vẻ ngoài xấu xí của con người cũng được ví
với loài cá (mắt đỏ như mắt cá chày, mồm rộng như
mồm cá ngão, đầu bẹt cá trê). Còn trong tiếng Anh,
cá tượng trưng cho cơ hội (there are plenty more
fish in the sea), người tài giỏi (swim like a fish),
người lập dị (an odd fish, a queer fish), bợm rượu
(drink like a fish), người nhút nhát không dám lên
tiếng (as mute/ dumb as a fish)… Qua các thành
ngữ trên, ta có thể dễ dàng nhận thấy hình tượng
“cá” trong thành ngữ Việt phong phú hơn so với
thành ngữ Anh. Bên cạnh những thành ngữ chỉ loài
cá nói chung, người Việt đã đưa tên riêng của các
loài cá nước ngọt vào thành ngữ khi liên tưởng đến
những đặc điểm của các loài này. Trái lại, người
Anh chỉ hay dùng cá với nghĩa chung nhất (fish),
hoặc có một số thành ngữ có tên các loại cá biển
(packed like sardine, as fat as a whale, a whale of
time, a loan shark, sprat to catch a mackerel….)
Trên đây là một vài dấu ấn văn hóa được thể
hiện qua hình tượng một số con vật trong thành ngữ
tiếng Việt và tiếng Anh. Sau đây, chúng tôi xin giới
thiệu thêm một số thành ngữ tương đương về nghĩa
nhưng được diễn đạt bằng các hình tượng con vật
khác nhau trong tiếng Việt và tiếng Anh giúp người
đọc có thể vận dụng đúng trong giao tiếp, tránh
trường hợp dịch theo nghĩa đen (word by word) do
chưa nắm được sự khác biệt về văn hóa giữa hai dân
tộc. Ví dụ thành ngữ tiếng Anh “to eat like a horse”
(ăn như ngựa), khi dịch sang tiếng Việt sẽ phải đổi
thành “ăn như lợn” mới gần gũi với văn phong tiếng
Việt. Các thành ngữ này được trích từ cuốn “Tuyển
tập thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Anh thông
dụng” của tác giả Nguyễn Đình Hùng (2004).
Thành ngữ tiếng Việt
ăn như mèo
béo như con cun cút
cáo mượn oai hùm
cắm cảu như chó cắn ma

Thành ngữ tiếng Anh
Eat like a bird
as fat as a whale
an ass in a lion’s skin
as sulky as a bear

94

NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG

câm như hến
cưa sừng làm nghé

as mute as a fish
mutton dressed up as
lamb
dạy khỉ trèo cây
teach the dog to bark
đẻ như gà
breed like rabbits
hiền như nai
as gentle as a lamb
hùng hục như trâu lăn
work like horses
khỏe như voi/trâu
as strong as a horse/ an
ox
khôn như rái
as wise as an owl
lúng túng như gà mắc tóc
as clumsy as a bear
mất bò mới lo làm chuồng
to lock the stable door
after the horse is stolen
mua trâu vẽ bóng
to buy a pig in a poke
nhát như cáy
as timid as a rabbit
như cá gặp nước
like a duck to water
nuôi ong tay áo
warm/cherish a snake in
one’s bosom
thả con săn sắt, bắt con cá sprat to catch a mackerel

trạch đẻ ngọn đa
pigs might fly
Vui như sáo
as cheerful as a lark
Yếu như sên
as weak as a kitten

3. Kết luận
Kết quả nghiên cứu đã một lần nữa khẳng định
mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa nằm trong
mối liên hệ giữa tự nhiên-ngôn ngữ và văn hóa:
Điều kiện tự nhiên quy định nền văn hóa của một
dân tộc và nền văn hóa này được phản ánh trong
ngôn ngữ của dân tộc đó.
Thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ quan trọng
có tính hình tượng cao, chứa đựng trong nó các giá
trị ước lệ gắn với đời sống văn hóa của một dân tộc.
Vì vậy để hiểu được thành ngữ là một điều không
đơn giản với không chỉ người nước ngoài mà còn cả
với những người bản ngữ. Việc học ngoại ngữ sẽ
hiệu quả và dễ dàng hơn khi chúng ta hiểu rõ các
đặc trưng văn hóa của dân tộc đó, cũng như việc tìm
hiểu ngôn ngữ của một dân tộc sẽ đưa ta đến gần
hơn với đời sống văn hóa của dân tộc đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Bảo (2003), Ngữ nghĩa của từ
ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh
với thành ngữ tiếng Anh). Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ
học, TP.HCM.
2. Phan Mậu Cảnh (2008), Đặc trưng văn hóa,
cội nguồn văn hóa và sự thể hiện chúng trong ca dao
người Việt. http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/vanhoa-viet-nam/vhvn-nhung-van-de-chung/1607-phan-

Số 11 (229)-2014

mau-canh-dac-trong-va-coi-nguon-van-hoa-trong-cadao-nguoi-viet.html, truy cập ngày 15/7/2014.
3. Cao Xuân Hạo (2001), Ngôn ngữ và văn hoá,
in trong Tiếng Việt văn Việt người Việt, Nxb Trẻ.
4. Hồng Ngọc (2013), Chó và văn hóa, thịt chó
và thời đại, http://m.tuanvietnam.net/2013/07/cho-vavan-hoa-thit-cho-va-thoi-dai/ , truy cập ngày
20/7/2014.
5. Nguyễn Đình Hùng (2003), Tuyển tập thành
ngữ, tục ngữ, ca dao Việt - Anh thông dụng, NXB. Đại
học Quốc gia.
6. Nguyễn Thúy Khanh (1996), Đặc điểm
trường từ vựng - ngữ nghĩa tên gọi động vật (trên tư
liệu đối chiếu tiếng Việt với tiếng Nga). Luận án Phó
tiến sĩ, Hà Nội.
7. Trịnh Cẩm Lan (1995), Nghiên cứu đặc điểm
cấu trúc - ngữ nghĩa và những giá trị biểu trưng của
thành ngữ tiếng Việt (trên cứ liệu thành ngữ có thành
tố cấu tạo là tên gọi động vật). Luận án thạc sĩ, Hà
Nội.
8. Bùi Thị Thanh Mai (2008), Rồng trong quan
niệm
phương
Đông

phương
Tây.
http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-thegioi/quan-he-van-hoa-dong-tay/562-bui-thi-thanh-mairong-trong-quan-niem-phuong-dong-va-phuongtay.html. Truy cập ngày 15/7/2014.
9. Cù Thị Minh Ngọc(2011), Vài suy nghĩ về
việc sử dụng con vật trong lối nói so sánh ví von của
người Việt. Kỉ yếu hội thảo khoa học 2011 - Trường
đại học KHXH&NV - ĐHQG TP.HCM.
10. Hoàng Phê (chủ biên) (1997), Từ điển tiếng
Việt. Trung tâm từ điển học. Đà Nẵng.
11. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn
hoá Việt Nam, Nxb TPHCM.
12. Nguyễn Thanh Tùng (2000), Đặc trưng ngôn
ngữ- văn hóa trong nghĩa của từ chỉ động vật (Anh Việt). Tạp chí Khoa học ĐHSP Tp.HCM, số 23.
13. Nguyễn Thùy Vân (2014), Một số biểu trưng
trong ca dao Việt Nam (nhóm chất liệu là thế giới các
hiện tượng thiên nhiên). Luận án tiến sĩ ngôn ngữ. Học
viện khoa học xã hội - Hà Nội.
14. Nguyễn Như Ý (1996), Từ điển giải thích
thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo dục.
15. Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan
Xuân Thành (2002), Từ điển thành ngữ tiếng Việt phổ
thông, NXB ĐHQG, Hà Nội.
16. Warren, H.(1994), Oxford learner’s
dictionary of English idioms. Oxford University Press.
(Ban Biªn tËp nhËn bµi ngµy 23-08-2014)


Page 2

YOMEDIA

Trong nghiên cứu này, các tác giả nhằm mục đích tìm ra một số điểm tương đồng và khác biệt trong văn hóa Việt và tiếng Anh tiết lộ thông qua thành ngữ để giúp học viên sử dụng thành ngữ thành công trong giao tiếp.

30-05-2018 270 17

Download

Nghiên cứu thành ngữ Idioms tiếng Việt có chứa tên gọi động vật animals

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.