Nhạc Ghibli là gì

Một phần làm nên thành công của các bộ phim Ghibli chính là âm nhạc. Bạn không thể hình dung các tác phẩm như “Công chúa Mononoke”, “Toà lâu đài trên không”, “Vùng đất linh hồn”,… một cách trọn vẹn nếu bỏ qua những bản nhạc tuyệt vời của nhà soạn nhạc Joe Hisaishi.

Trước hết hãy cùng lắng nghe những giai điệu tuyệt vời đã được vang lên trong thế giới của Ghibli.

Nhạc Ghibli là gì

Ảnh https://in.pinterest.com/pin/502573639664940450/

Joe Hisaishi bắt đầu học Violin từ khi 4 tuổi, bố mẹ của anh không phải là nhạc sĩ, tuy nhiên là những người rất yêu âm nhạc. Bản thân Joe Hisaishi cũng từng chơi cho đội kèn đồng tại trường cấp 3, ở đó anh có cơ hội chơi các loại kèn Trumpet, Trombone, Saxophone và thậm chí được làm nhạc trưởng.

Từ những ngày tháng trung học, anh nghe nhạc Jazz rất nhiều cho đến khi bắt đầu học Piano để thi vào trường đại học âm nhạc, Joe Hisaishi hình thành đam mê với nhạc cổ điển qua các tác phẩm của Shostakovich, Schoenberg, Webern, Berg,…

Joe có ấn tượng sâu sắc với “A Rainbow in Curved Air” của Terry Riley, sau đó bắt đầu nghe các tác phẩm từ những nhạc sĩ theo phong cách tối giản như Philip Glass hay Steve Reich.

Cái duyên của Joe Hisaishi và Ghibli bắt đầu từ khi Isao Takahata, nhà sản xuất của Nàng công chúa ở Thung lũng gió (Nausicaä of the Valley of the Wind) lựa chọn Joe Hisaishi. Takahata cũng là người thích nhạc cổ điển, đồng thời là một đạo diễn sản xuất mà Hayao Miyazaki tôn trọng.

Nhạc Ghibli là gì

Ảnh https://igniteunmc.com/the-perfect-duo-of-studio-ghibli-hayao-miyazaki-and-joe-hisaishi/

Khi soạn nhạc cho phim của Ghibli, trước hết Joe sẽ đọc kịch bản một cách cẩn thận trước khi sáng tác. Anh cũng chia sẻ cẩn thận xem xét đoạn nhạc nào sẽ phù hợp với những phân cảnh nào. Hayao Miyazaki không sử dụng đoạn nhạc có sẵn (temp score) để mô tả mong muốn về âm nhạc sẽ được sử dụng, tất cả đều được diễn đạt bằng lời, trực tiếp với nhạc sĩ.

Chia sẻ về bí kíp sáng tác của mình, Joe Hisaishi cho biết “Hãy luôn nghĩ về nó”. Nhạc sĩ cũng nói thêm rằng nhìn chung bản nhạc nào anh cũng cố gắng sáng tác sao cho tốt nhất, và nhạc sĩ không có thói quen nhìn lại quá khứ.

Sacchan

Nhạc Ghibli là gì

Your browser is no longer supported. Update it to get the best YouTube experience and our latest features. Learn more

  • Nhạc Ghibli là gì
  • Nhạc Ghibli là gì
  • Nhạc Ghibli là gì
  • Nhạc Ghibli là gì
Remind me later

Nhạc Ghibli là gì
Hisaishi Joe

Joe Hisaishi trong liên hoan phim Asiatique de Deauvill 2008

Thông tin nghệ sĩTên khai sinhFujisawa MamoruSinh6 tháng 12, 1950 (71 tuổi)Nguyên quánNakano, Nagano, Nhật BảnDòng nhạcNhạc phimNghề nghiệpĐạo diễn âm nhạc, Soạn nhạc, Nhạc trưởngNhạc cụViolin, piano, nhạc cụ phímNăm hoạt động1974 - nayWebsitehttp://www.joehisaishi.com/

Hisaishi Joe (久石 譲, Hisaishi Jō?, Cửu Thạch Nhượng), tên thật là Fujisawa Mamoru (藤澤 守, Fujisawa Mamoru?, Đằng Trạch Thủ), sinh ngày 6 tháng 12 năm 1950, là nhà soạn nhạc của hơn 100 tác phẩm soundtracks cho các bộ phim và các tác phẩm độc tấu khác, nằm trong những album được phát hành từ năm 1981 trở lại đây.

Sở hữu một phong cách nghệ thuật đặc biệt trong âm nhạc, Hisaishi được biết đến với công chúng bằng những tác phẩm mang sự kết hợp chặt chẽ của nhiều thể loại khác nhau. Các tác phẩm vừa mang hơi thở của minimalist (một thể loại nhạc thử nghiệm), vừa mang phong cách của nhạc điện tử, nhạc cổ điển châu Âu và âm nhạc dân gian Nhật Bản.

Tên tuổi của Joe Hisaishi bắt đầu được nhiều người biết đến sau những tác phẩm anime của họa sĩ phim hoạt hình Miyazaki Hayao. Joe đã viết nhạc cho tất cả các bộ phim của Miyazaki bao gồm Cô bé người cá Ponyo (2008), Sen và Chihiro ở thế giới thần bí (2001), Lâu đài bay của pháp sư Howl (2004), Công chúa sói Mononoke (1997), Hàng xóm của tôi là Totoro (1988), và Nausicaä của Thung lũng gió (1984). Ngoài ra ông còn viết nhạc cho nhà sản xuất phim Takeshi Kitano với các bộ phim Dolls (2002), Kikujiro (1999), Hana-bi (1997), Kids Return (1996), Sonatine (1993).

Sự nghiệp

Joe Hisaishi sinh ra và lớn lên ở Nakano, Nagano, Nhật Bản. Khi mới lên 5, ông đã được học violin và phát hiện ra niềm đam mê của mình đối với âm nhạc. Năm 1969 ông vào học trường cao đẳng âm nhạc Kunitachi ngành sáng tác. Ông bắt đầu cộng tác với một số nghệ sĩ nhạc chủ nghĩa tối giản làm công việc ghi chép nhạc, công việc đã góp một phần không nhỏ đến sáng tác của Joe sau này.

Thành công đầu tiên của ông là vào năm 1974 khi ông viết nhạc cho một bộ phim hoạt hình ngắn có tên là Gyatoruzu. Nhưng lúc đó ông vẫn để tên thật của mình cùng với những bản nhạc. Trong thời kỳ này, ông còn sáng tác nhạc cho Sasuga no Sarutobi (Học viện Ninja) và Futari Taka (A Full Throttle).

Những năm 1970 là giai đoạn các tác phẩm nhạc hiện đại Nhật Bản, new-age, nhạc khí điện tử bắt đầu tràn lan trên đất nước mặt trời mọc. Tất cả những thể loại nhạc này, cũng như là nhạc của Yellow Magic Orchestra (một nhóm nhạc điện tử của Nhật khá nổi trong khoảng thời gian từ 1978–1983), đã làm ảnh hưởng tới sáng tác của Joe Hisaishi. Ông phát triển âm nhạc của mình từ những ý tưởng trong nhạc minimalist nhưng hướng chúng trở thành tác phẩm giao hưởng. Trong năm 1975, Hisaishi đã có buổi diễn trước công chúng lần đầu. Album đầu tay của ông, MKWAJU, được phát hành năm 1981, một năm sau đó tiếp tục tung ra Information.

Khi bắt đầu nổi tiếng, ông lấy cho mình một bí danh xuất phát từ nhà soạn nhạc người Mỹ gốc Phi tên là Quincy Jones, phiên âm sang tiếng Nhật trở thành Joe Hisaishi ("Quincy" phát âm trong tiếng Nhật là "Kuishi, nhưng có thể viết dưới hệ thống chữ kanji là "Hisaishi", còn "Joe" phiên âm từ "Jones")

Năm 1983, với tên mới của mình, Hisaishi được giới thiệu đến một công ty thu âm cho nhạc phim Nausicaä của thung lũng gió. Hisaishi cùng với đạo diễn của bộ phim này - Miyazaki Hayao - đã trở thành những người bạn rất thân thiết và họ đã cùng làm việc với nhau trong rất nhiều dự án sau đó. Sự thành công to lớn này đã đưa tên tuổi Joe đến khắp nơi với vai trò một người viết nhạc phim xuất sắc. Năm 1986, ông tiếp tục viết cho Laputa: Lâu đài trên không, rồi sau đó, vào những năm 1990, Công chúa MononokeSen và Chihiro ở thế giới thần bí tiếp tục được phát hành.

Là một trong những nhà soạn nhạc có cống hiến lớn nhất cho các bộ phim hoạt hình, Hisaishi không ngừng nỗ lực viết nhạc trong những năm 80 và 90. Hisaishi còn sáng tác nhạc cho những bộ phim xếp hàng top hits như Sasuga no Sarutobi, Two Down Full Base (1982), Sasrygar (1983), Futari Taka (1984) và Honō no Alpen Rose (1985). Ông cũng viết nhạc cho thể loại phim phiêu lưu viễn tưởng Mospeada (1983). Ngoài ra còn có phim Arion, Hàng xóm của tôi là Totoro (1988), Venus Wars, Dịch vụ giao hàng của phù thủy Kiki (1989), và Porco Rosso (1992).

Cùng với sự kết hợp âm nhạc trong ngành công nghiệp phim hoạt hình, Joe tiếp tục sự nghiệp của mình với vai trò một nhà sản xuất nhạc, một nghệ sĩ biểu diễn tài năng và làm chủ một công ty riêng của mình với cái tên Wonder Land Inc. Một năm sau, công ty cho phát hành album đầu tiên, Pretender ở Thành phố New York.

Sau tất cả những thành quả đạt được trong từng ấy năm, Joe Hisaishi đã giành được giải thưởng âm nhạc xuất sắc nhất của viện hàn lâm Nhật Bản 6 lần: năm 1992, 1993, 1994, 1999, 2000 và mới nhất là năm 2009. Ông cũng nhận được giải Newcomer Award lần thứ 48 của Bộ giáo dục cùng nhiều giải thưởng khác, trở thành một nhân vật tiêu biểu của ngành công nghiệp điện ảnh Nhật.

Năm 1998, ông viết nhạc cho Thế vận hội Mùa đông 1998 (tổ chức ở Nagano, Nhật Bản). Năm sau đó, ông viết nhạc cho tập 3 của một series phim hoạt hình giáo dục về loài người.

Năm 2001, Hisaishi sản xuất nhạc cho phim của Kitano Takeshi, Brother, và tác phẩm kinh điển của Miyazaki Hayao, Sen và Chihiro ở thế giới thần bí. Ông cũng viết bản giao hưởng 4 chương Night Fantasia trong hội chợ Expo Nhật Bản ở Fukushima năm 2001. Vào ngày 6 tháng 10, Hisaishi góp mặt trong bộ phim Quartet, trong đó, nhân vật của ông là một nhà làm phim, vừa viết nhạc vừa viết kịch bản. Bộ phim đã nhận được rất nhiều khen ngợi tại liên hoan phim Montreal. Và trong cùng năm ấy, Joe cũng đã viết bản nhạc đầu tiên dành cho một bộ phim nước ngoài tên là Le Petit Poucet.

Joe Hisaishi, 2011

Một bộ phim nữa của Miyazaki mà Joe cũng viết nhạc, đó là Lâu đài bay của pháp sư Howl, được phát hành ngày 20 tháng 11 năm 2004 ở Nhật. Từ mùng 3 tháng 11 đến 29 tháng 11 năm 2004, Joe bắt đầu chuyến lưu diễn "Joe Hisaishi Freedom – Piano Stories 2004" cùng các nhạc công người Canada. Năm 2005, ông viết nhạc cho một bộ phim Hàn Quốc Welcome to Dongmakgol (웰컴 투 동막골). Ông còn tới những địa danh lịch sử ở Hàn Quốc, nơi mà các trường quay được dựng để viết nhạc cho bộ phim truyền hình The Legend (태왕사신기 "The Story of the First King's Four Gods") của đài MBC, chiếu trên màn ảnh năm 2007. Cũng từ đó, Hisaishi có một lượng lớn fan hâm mộ ở Hàn Quốc, và các bộ phim của Miyazaki cũng trở nên nổi tiếng.

Năm 2006, Hisaishi phát hành album Asian X.T.C, bao gồm những tác phẩm nhạc khí đương đại phương Đông. Nghệ sĩ chơi đàn erhu trong ban nhạc 12 Girls Band của Trung Quốc - Zhan Li Jun đã biểu diễn trong buổi hòa nhạc giới thiệu cho album này. Năm sau đó, ông lại sáng tác nhạc cho bộ phim của Frederic Lepage, Sunny and the Elephant và bộ phim mới nhất của Miyazaki, Ponyo, cả hai bộ phim đều được công chiếu năm 2008. Ngoài ra còn có một bộ phim nữa của Khương Văn (Trung Quốc) tên là Mặt Trời vẫn mọc.

Năm 2008, Joe viết nhạc cho bộ phim được giải của viện hàn lâm tên là Người tiễn đưaWatashi wa Kai ni Naritai (私は貝になりたい), một bộ phim tái hiện những tội ác trong Thế chiến thứ 2, dựa trên cuốn tiểu thuyết viết năm 1959 của nhà văn Kato Tetsutaro. Bộ phim do đạo diễn Fukuzawa Katsuo dựng lại, cùng các diễn viên chính là Nakai Masahiro và Nakama Yukie.

Tháng 11 năm 2009, Joe Hisaishi được nhận Huân chương danh giá màu tím (dành cho những người có cống hiến lớn trong nghệ thuật của hoàng gia) do chính phủ Nhật Bản trao tặng để ghi nhận những đóng góp của ông.

Năm 2013, Hisaishi soạn nhạc cho Chuyện công chúa Kaguya, mà ban đầu lẽ ra sẽ được soạn bởi Shinichiro Ikebe. [1] Đây là một bộ phim hoạt hình chuyển thể từ câu chuyện cổ tích Nhật Bản "Nàng tiên trong ống tre" được thực hiện bởi Studio Ghibli, cũng là tác phẩm cuối cùng của đạo diễn Takahata Isao, khi ông mất vào 5 tháng 4 năm 2018.

Các album

1980 - 1989

1990 - 1999

2000 - 2009

Tham khảo

  1. ^ “タワーレコード - ニュースリリース - 高畑勲監督作、久石譲音楽の美しいサントラ『かぐや姫の物語』” (bằng tiếng Nhật). タワーレコード. 13 tháng 11 năm 2013. Truy cập 23 tháng 11 năm 2013.

Liên kết ngoài

  • Website chính thức Lưu trữ 1998-12-02 tại Wayback Machine
  • Thông tin tại Nausicaa.net

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Hisaishi_Joe&oldid=68201269”