Phân tích và danh gia việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ

Phân tích và đánh giá việc xác định cha, mẹ con khi cha mẹ có hôn nhân hợp pháp theo pháp luật hiện nay.

Vợ chồng hợp pháp tức là hai người nam và nữ được nhà nước thừa nhận quan hệ hôn nhân theo qui định của Luật Hôn nhân và gia đình. Cũng cần lưu ý, nam nữ chung sống như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 không đăng kí kết hôn nhưng vẫn được công nhận là vợ chồng theo Nghị quyết 35/2000/QH10. Đây là điều kiện đầu tiên để xác định cha, mẹ, trong trong hôn nhân hợp pháp.

1. Xác định cha, mẹ, con khi có hôn nhân hợp pháp

1.1. Căn cứ vào thời kì hôn nhân

Con của cặp vợ chồng sinh ra trong thời kì hôn nhân hợp pháp được gọi là con trong giá thú. Vậy, thời kì hôn nhân là khoảng thời gian mà tồn tại quan hệ vợ chồng tính từ ngày đăng kí kết hôn cho đến khi chấm dứt hôn nhân. Căn cứ để chấm dứt hôn nhân có thể do một trong hai bên chết hoặc bị tuyên bố mất tích hoặc li hôn theo bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực. Căn cứ để bắt đầu mối quan hệ hôn nhân là kể từ ngày hai người thực hiện thủ tục đăng kí kết hôn và được trao giấy đăng kí kết hôn. Ngoài ra còn là vợ chồng hợp pháp nếu chung sống như vợ chồng trước ngày 03/01/2987 mà không đăng kí kết hôn.

Con sinh ra mặc nhiên được thừa nhận mối quan hệ giữa mẹ và con. Bởi người mẹ là người trực tiếp mang thai và sẽ phát sinh mối quan hệ huyết thống với con. Trừ trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Đối với người cha thì cũng tương tự người mẹ, tuy nhiên khi có sự phản đối của người cha thì có thể chứng minh đó không phải là con mình.

1.2. Căn cứ vào thời kì thụ thai và sự kiện sinh đẻ

Con sinh ra sau thời kì hôn nhân nhưng trong thời hạn 300 ngày sau khi chấm dứt quan hệ hôn nhân vẫn được thừa nhận mối quan hệ pháp lí với người cha. Bởi quá trình mang thai yêu cầu và đòi hỏi một khoảng thời gian đủ dài để cho thai nhi

phát triển về mặt sinh học. Chính vì vậy, nếu người phụ nữ sau khi chấm dứt hôn nhân thì con sinh ra trong khoảng thời gian trên sẽ có cha là người đã li hôn hoặc đã chết, bị tuyên bố mất tích.

Mặc dù sự kiện sinh để xuất hiện sau khi hai bên đã chấm dứt hôn nhân nhưng quan hệ cha và con vẫn được xác lập nếu đứa con sinh trong vòng 300 ngày sau khi hôn nhân chấm dứt. Qui định này có ý nghĩa sâu sắc trong việc góp phần bảo vệ quyền của phụ nữ và nhất là trẻ em.

1.3. Căn cứ vào sự thừa nhận của cha mẹ về con chung của vợ chồng

Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 qui định: “con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng. Có thể thấy rằng, sự kiện thụ thai và sinh con đã hoàn tất trước khi vợ chồng phát sinh quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Trong trường hợp này cũng áp dụng nguyên tắc suy đoán về sự hình thành mối quan hệ giữa cha mẹ và con. Khi thực hiện thủ tục xác định cha, mẹ, con thì không cần thiết phải có bất cứ loại giấy tờ chứng minh mối quan hệ này nếu không có tranh chấp. Tuy nhiên phải có văn bản xác nhận khi làm thủ tục đăng kí khai sinh cho con và ghi thông tin người cha trong giấy khai sinh của người con.1

2. Thủ tục xác định cha, mẹ, con khi có hôn nhân hợp pháp

Về thủ tục xác định cha, mẹ, con trong giá thú theo pháp luật hộ tịch hoặc theo pháp luật tố tụng dân sự. Nếu cha, mẹ thừa nhận con và không có bất cứ tranh chấp gì với nhau về vấn đề trên thì sẽ tiến hành đăng kí khai sinh cho con tại Uỷ ban nhân dân cấp xã theo pháp luật hộ tịch. Trong trường hợp, nếu có tranh chấp hay mâu thuẫn về vấn đề xác định cha của đứa trẻ thì có thể thực hiện theo thủ tục tố tụng dân sự để yêu cầu Toà án xác định quan hệ cha con.

Có thể thấy rằng, qui định hiện hành về vấn đề xác định cha, mẹ, con trong hôn nhân hợp pháp đã và đang đáp ứng được nhu cầu cảu các ông bố, bà mẹ, người con mà còn góp phần bảo vệ quyền lợi của những người yếu thế như mẹ hay trẻ em.

Theo qui định tại Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Điều này cũng được áp dụng để xác định cha, mẹ, con đối với trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản trong trường hợp cặp vợ chồng vô sinh) thì tình trạng pháp lí giữa cha, mẹ, con luôn được suy đoán là đã được hình thành nếu con sinh ra trong thời kì hôn nhân hoặc con sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân hoặc con sinh ra trước ngày kết hôn và được thừa nhận là con chung của vợ chồng. Nếu có sự phản đối từ người cha thì cần phải cung cấp chứng cứ và được Toà án xác định.

Con sinh ra tại bất kì thời điểm nào trong thời kì hôn nhân thì quan hệ cha, mẹ, con sẽ được xác định. Trong trường hợp này được suy đoán là con chung bởi nếu suy đoán là con riêng thì phải trải qua thủ tục lằng nhằng, phức tạp đối với người mẹ, người cha.

“Việc xác định cha, mẹ, con cho con trong giá thú dựa trên cơ sở nguyên tắc suy đoán pháp lí, tức là dựa vào sự kiện đăng kí kết hôn và thời kì hôn nhân của cha, mẹ đứa trẻ.”2

Danh mục tài liệu tham khảo

  1. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
  2. Luật Hộ tịch năm 2015
  3. Nghị quyết 35/2000/QH10
  4. Thông tư số 04/2020/TT-BTP qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP
  5. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, năm 2021

TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI

Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

Phân tích và danh gia việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ

Việc xác định cha mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mang những đặc trưng riêng. Bài viết sau đây của Công ty Luật FBLaw chúng tôi gửi đến bạn một số quy định về xác định cha mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

Khái niệm

Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được quy định tại Khoản 21 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, theo đó: “Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”.

Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Phân tích và danh gia việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ
Xác định cha mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Theo quy định của Luật có hai kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là kỹ thuật thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm.

Thụ tinh nhân tạo được hiểu một cách khái quát là phương pháp hỗ trợ sinh sản thông qua một số biện pháp kỹ thuật là lấy tinh trùng để pha chế, bảo quản và bơm vào tử cung của người phụ nữ.

Thụ tinh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống nghiệm để tạo thành phôi (Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP)

Tóm lại, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật y học hiện đại để can thiệp vào quá trình thụ thai của người phụ nữ với mục đích giúp những cặp vợ chồng hiếm muộn, vô sinh hoặc phụ nữ độc thân có thể mang thai và có những đứa con như họ mong muốn.

Những quy định của pháp luật xác định cha mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Những trường hợp được áp dụng sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP: “Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa“. Như vậy, pháp luật cho phép áp dụng biện pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong hai trường hợp: Đối với cặp vợ chồng vô sinh (Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP) và đối với người phụ nữ độc thân (Khoản 6 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP).

>> Tư vấn miễn phí trực tiếp qua Hotline: 0385953737 – Tel: 0973098987

Bạn có thể quan tâm:

Xác định cha mẹ trong trường hợp người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh và người phụ nữ độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Phân tích và danh gia việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ

Xác định cha mẹ đối với trường hợp  cặp vợ chồng vô sinh

Theo quy định tại Điều 93 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “1. Trong trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được áp dụng theo quy định tại Điều 88 của Luật này”.

Đối chiếu với quy định tại Điều 88, Luật Hôn nhân và gia đình 2014, việc xác định cha mẹ trong trường hợp này căn cứ vào thời kỳ hôn nhân của cặp vợ chồng.. Vì thế trong trường hợp con sinh ra trước ngày vợ, chồng đăng ký kết hôn và được vợ chồng thừa nhận là con chung sẽ không được áp dụng đối với trường hợp con sinh ra bằng hỗ trợ kỹ thuật sinh sản. Để bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh được xác là mẹ đứa trẻ trong mọi trường hợp kể cả người mẹ là người nhận tinh trùng, nhận noãn hay nhận phôi của người khác và người chồng hợp pháp của người mẹ đó cũng chính là cha đứa trẻ, ngay cả trường hợp người chồng không phải là người cho tinh trùng.

Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, hoặc cho phôi với đứa con được sinh ra.

Xác định cha mẹ đối với phụ nữ độc thân

Trường hợp này áp dụng đối với những người phụ nữ không xác lập quan hệ hôn nhân nhưng mong muốn có con. Theo đó, việc xác định cha mẹ trong trường hợp này được Luật quy định cụ thể, đó là người phụ nữ độc thân này đương nhiên sẽ là mẹ của đứa trẻ được sinh ra (khoản 2 Điều 93 Luật Hôn nhân và gia đình 2014).

Xác định cha mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo mở ra cơ hội được làm cha mẹ cho các cặp vợ chồng hiếm muộn. Tuy nhiên, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải đáp ứng được các quy định tại khoản 22 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về tính tự nguyện, về chủ thể (cả người mang thai hộ và người nhờ mang thai hộ), các biện pháp kỹ thuật y học.

Việc xác định cha mẹ đối với trường hợp này được ghi nhận tại Điều 94 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con sinh ra“. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không làm phát sinh mối quan hệ cha, mẹ, con giữa vợ chồng người được nhờ mang thai hộ với đứa trẻ được sinh ra.

Thẩm quyền xác định

Điều 101 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về thẩm quyền xác định cha, mẹ, con: – Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp. – Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật này.

+  Quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch;