Phương pháp nghiên cứu nhu cầu giao tiếp của sinh viên

đề tài nghiên cứu khoa học Phát triển kỹ năng giao tiếp của sinh viên trường đại học nội vụ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây  (143.95 KB, 31 trang )

MỞ ĐẦU
Giao tiếp là đặc trưng quan trọng nhất trong hành vi của con người, nó
không những là điều kiện quan trọng bậc nhất của sự hình thành và phát triển
tâm lý, ý thức, nhân cách mà còn giúp cho con người đạt được năng suất, chất
lượng và hiệu quả trong mọi lĩnh vực hoạt động.
Như vậy giao tiếp rõ ràng là một vấn đề không thể thiếu được trong
cuộc sống của con người. Không những thế, giao tiếp còn là yếu tố quan
trọng trong sự phát triển tâm lý của họ T.V.Pelevina viết: Mỗi người với
khả năng giao tiếp của mình, đã tham gia vào những quan hệ xã hội
Quá trình thích ứng xã hội và xã hội hoá nhân cách đó là sự hiểu thấu đáo
kinh nghiệm xã hội bằng chính cá nhân. Giao tiếp là thiết yếu trong mọi
hoạt động của con người, cùng với hoạt động, giao tiếp đã trở thành
phương thức tồn tại của xã hội loài người. Mặt khác, giao tiếp còn là một
nghệ thuật mà bất kỳ ai cũng phải học. Giao tiếp chính là hoạt động nhằm
xác lập và mở rộng các mối quan hệ giữa người với người trong đời sống
xã hội. Vì thế C.Mác đã xem giao tiếp như một khí quan xã hội, vừa là
phương tiện hình thành, củng cố bản chất xã hội trong con người, vừa là
cơ chế tiếp thu kinh nghiệm xã hội như tri thức, kĩ năng, quy tắc.
Trong trường đại học, sinh viên sống trong một tập thể  lớp học,
một trong những đơn vị cơ sở của hệ thống dạy học trong trường. ở đó có
cuộc sống tập thể. Và ở đó tiếp thụ những tri thức mới, hiện đại, sâu sắc
của loài người, hình thành, phát triển nhân cách, tu dưỡng những phẩm
chất đạo đức và năng lực của mình. ở đó vấn đề giao tiếp nổi lên đặc biệt
quan trọng và có đặc thù riêng ở môi trường và lứa tuổi này. Chính vì
nhận thấy tầm quan trọng đó nên em đã chọn đề tài Phát triển kỹ năng
giao tiếp của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội làm đề tài nghiên
cứu khoa học của mình.


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP
TRONG SINH VIÊN


1.1. Khái niệm kỹ năng giao tiếp
1.1.1. Khái niệm giao tiếp
- Giao tiếp là một hệ thống quy trình có mục đích và động cơ đảm
bảo sự tương tác giữa người này với người khác trong hoạt động thực tiễn,
thực hiện các môi quan hệ xã hội và nhân cách, các quan hệ tâm lý và
những phương tiện đặc thù, mà trước hết là ngôn ngữ (A.A.Lêôchiep).
- Giao tiếp là sự tác động qua lại giữa hai hay nhiều người để trao
đổi thông tin. (Từ điển tâm lí học của Liên Xô).
- B.F.Lomov cho rằng: Giao tiếp không phải là một dạng đặc biệt
của hoạt động mà nó phải được xem xét như một phạm trù tương đối độc
lập bên cạnh phạm trù hoạt động trong tâm lý học.
Ông đã định nghĩa như sau: Giao tiếp là sự tác động qua lại của
những con người tham gia vào đó như là những chủ thể.
- Giao tiếp là một hoạt động xác lập và vận hành các quan hệ người
người để thực hiện hoá quan hệ xã hội của con người với nhau (Giáo
trình tâm lí học, nxb Giáo dục, 1998, Tập 1, tr.44, 45).
Với sự tác động như vậy thì giao tiếp tối thiểu phải từ 2 người mà
mỗi người trong hai người đó phải là chủ thể. Hay nói cách khác đi nghĩa
là ở đây có sự chuyển hoá giữa chủ thể và khách thể. Sự chuyển hoá này
xảy ra từ đầu, từ lúc tiếp xúc, làm quen tri giác lẫn nhau để nhận thức lẫn
nhau chio đến khi tạm htời qua trình giao tiếp kết thúc.
Trong quá trình giao tiếp, sự nhận thức lẫn nhau và tác động lẫn
nhau diễn ra liên tục,ngày càng tăng ở cả hai chủ thể. Sự chuyển hoá giữa
chủ thể và khách thể ngày càng nhanh và nhiều, khi sự nhận thức về nhau
ngày càng rõ.


- Ở Việt Nam, vấn đề giao tiếp cũng đã được sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu. Các tác giả đã nêu khái niệm giao tiếp tuỳ theo lĩnh vực
nghiên cứu cụ thể của mình.

- Từ góc độ tâm lý liệu pháp, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã nhận
định rằng, giao tiếp là sự trao đổi giữa người với người thông qua nói,
viết, cử chỉ, điệu bộ. Sự trao đổi này thông qua một bộ (code) tư chất
người phát tin mã hoá một số tín hiệu, người tiếp nhận giải mã, một bên
truyền những ý nghĩ nhất định để bên kia hiểu được.
- Bùi Văn Huệ - Đỗ Mộng Tuấn  Nguyễn Ngọc Bích trong tâm lý
học xã hội, Hà Nội, 1996, tr.51-53 định nghĩa: giao tiếp là sự tiếp xúc
giữa hai hay nhiều người thông qua phương tiện ngôn ngữ nhằm trao đổi
thông tin, tình cảm, hiểu biết tác động qua lại và điều chỉnh lẫn nhau.
- Trần Tuấn Lộ  Tâm lí học giao tiếp  Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh  1993 (tr.8-11) viết: Giao tiếp là một loại nhu cầu và là một hoạt
động của mỗi người nhằm tiếp xúc, đối tác và giao lưu với người khác để
trao đổi thông tin, kinh nghiệm, trí tuệ, tình cảm và thể xác với người
khác.
Tuy nhiên, trong giao tiếp không phải chỉ đơn giản diễn ra sự tác
động qua lại giữa con người và con người mà trong giao tiếp con người có
sự tác động qua lại với nhau về mặt tâm lí để hình thành các mối quan hệ.
Và quan hệ lên nhân cách. Mặt cơ bản của giao tiếp là thiết lập nên những
mối quan hệhai chiều về mặt tổ chức  xã hội để thoả mãn nhu cầu về sự
quan tâm, sự thiện chí, sự hiểu biết, cảm thông, đồng tâm. của con
người. Đã là con người ai cũng có nhu cầu tiếp xúc với ngừi khác để trao
đổi tâm tư, tình cảm, nguyện vọng Sống trong xã hội, con người có
một nhu cầu có tính bắt buộc là phải xây dựng được mối quan hệ với
người khác.
Trong giao tiếp diễn ra sự tiếp xúc tâm lý và là quá trình thiết lập
mối quan hệ giữa con người và con người. Để quá trình giao tiếp diễn ra


được thì con người phải thông tin cho nhau. Trao đổi thông tin là một mặt
không thể thiếu được của giao tiếp. Trong giao tiếp con ngừi gửi và nhận

các thông điệp  thông tin cho nhau. Do vậy, có một số tài liệu nước
ngoài, giao tiếp được dùng là một trong các nội hàm để định nghĩa thuật
ngữ thông tin. Đứng về mặt Tâm lý học, cần thấy được sự khác biệt giữa
thuật ngữ giao tiếp và thông tin. Trong quá trình giao tiếp thông tin là một
trong những thành tố cấu thành nên giao tiếp, là một nội dung không thể
thiếu được trong giao tiếp. Khi giao tiếp các chủ thể gửi và nhận các thông
điệp thông tin với nhau, các thông tin này được các chủ thể mã hoá theo
một hệ thống ký hiệu nhất định. Trong quá trình giao tiếp, lượng thông tin
thường được bổ sung phong phú thêm vì khi giao tiếp các chủ thể cùng
tham gia, cùng nói chuyện, trao đổi thông tin với nhau. Quá trình thông tin
là quá trình chuyển giao các thông báo giao tiếp, thông tin để đạt được
mục tiêu thông tin hay vật chất nào đó. Trong quá trình thông tin nội dung
truyền tải từ người phát đến người nhận tin, tất nhiên có liên hệ ngược
nưng không phải lúc nào cũng diến ra đồng thời, cho nênnd thông tin
thường bị giảm đi. Quá trình thông tin có thể diễn ra giữa các sự vật, hiện
tượng, giữa các cấu trúc vật chất khác nhau trong cả tự nhiên và xã hội,
nhưng giao tiếp chỉ diễn ra giữa con người với con người.
Tóm lại, hiện nay đang tồn tại rất nhiều định nghĩa về giao tiếp.
Nhưng có một khái niệm chung nhất là:
Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý tạo nên mối quan hệ giữa hai hay
nhiều người với nhau, chứa đựng nội dung xã hội  lịch sử nhất định có
nhiều chức năng tác động, hỗ trợ cùng nhau: thông báo, điều khiển, nhận
thức, tình cảm và hành động.nhằm thực hiện mục đích nhất định của
một hành động nhất định.
Như vậy, qua khái niệm này ta thấy nội dung cơ bản của giao tiếp
xuất phát từ nhu cầu giao tiếp, nhu cầu tiếp xúc với người khác. Đây
chính là điều kiện để tạo nên được các mối liên hệ giữa con người với con


người nhằm hình thành nét bản chất xã hội của loài người. Tiếp xúc với

người khác trở thành nhu cầu của mỗi người để cùng nhau hợp tác hướng
tới mục đích trong hoạt động lao động, học tập và vui chơi. Đây là chỗ
thể hiện rõ nhất nội dung và vai trò của giao tiếp, nó là cơ sở cho sự tồn
tại của con người, gia đình, cộng đồng và xã hội. Trong quan hệ giao tiếp
bao giờ cũng có sự tiếp xúc tâm lí. Sự tiếp xúc tâm lý nảy sinh, phát triển
và hội tụ ở đỉnh cao của nó là sự đồng cảm. Đồng cảm chính là khả năng
nhạy cảm đối với trải nghiệm của bản thân, là sự đống nhất của nhân cách
này với nhân cách khác và là trạng thái tâm lý mà người này có thể đặt
mình vào vị trí của người khác.
1.1.2. Khái niệm kỹ năng
Kỹ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một
hoặc nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng..để giải quyết tình huống hay công
việc nào đó phát sinh trong cuộc sống.
Để giải thích nguồn gốc hình thành kỹ năng, có lẽ không có cơ sở lý
thuyết nào tốt hơn 2 lý thuyết về: Phản xạ có điều kiện ( được hình thành
trong thực tế cuộc sống cá nhân) và Phản xạ không điều kiện ( là những phản
xạ tự nhiên mà cá nhân sinh ra đã sẵn có). Trong đó, kỹ năng của cá nhân gần
như thuộc về cái gọi là phản xạ có điều kiện, nghĩa là kỹ năng được hình
thành từ khi một cá nhân sinh ra, trưởng thành và tham gia hoạt động thực tế
cuộc sống. Ví dụ: Kỹ năng giao tiếp, Kỹ năng làm việc nhóm
1.1.3. Khái niệm kỹ năng giao tiếp
Kỹ năng giao tiếp là khả năng vận dụng hiệu quả các tri thức và kinh
nghiệm về giao tiếp, các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ vào những
hoàn cảnh khác nhau của quá trình giao tiếp nhằm đạt được mục đích giao
tiếp Như vậy giao tiếp không chỉ đơn thuần là nói chuyện với ai đó (hay với
nhiều người) thì sẽ mang lại kết quả như ta mong đợi. Giao tiếp còn bao hàm
rất nhiều vấn đề khác như: Nói như thế nào? Hiểu đối tượng giao tiếp với
mình như thế nào? Làm thế nào để hai bên có thể hiểu rõ về các thông tin



cùng trao đổi? Làm thế nào để lần giao tiếp đó đạt được kết quả như mong
đợi? Vì vậy, kỹ năng giao tiếp liên quan tới nhiều hoạt động, từ kỹ năng
lắng nghe, kỹ năng nói, kỹ năng kiềm chế cảm xúc đến kỹ năng viết,.. kết hợp
với tư thế, cử chỉ, động tác để diễn tả quan điểm và mục đích của vấn đề
muốn đề cập.
1.1.4. Khái niệm kỹ năng giao tiếp trong sinh viên
Kỹ năng giao tiếp trong sinh viên là một kỹ năng tổng hợp cần được
đào tạo và rèn luyện thường xuyên. Trong đó rất quan trọng là kỹ năng giao
tiếp với thầy cô, kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng học tập. kỹ năng nghe,
nói
1.2. Vai trò, chức năng và đặc điểm của giao tiếp
1.2.1. Vai trò của giao tiếp
Ngày nay, giao tiếp trở thành vấn đề rộng lớn, có ý nghĩa quan trọng
trong khoa học và cuộc sống.
Người ta không thể nghiên cứu con người với tính cách là đơn vị độc
lập, không phụ thuộc vào môi trường xã hội xung quanh vì: Bản chất con
người không phải là trừu tượng vốn có của một cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà của tất cả những mối quan
hệ xã hội
Cơ sở của quan hệ phụ thuộc lẫn nhau là những nhu cầu của con người
biểu thị mối liên hệ của con người với những người khác cũng như với những
đối tượng và những hoàn cảnh có ý nghĩa quan ữọng sống còn đối với họ và
quy định vị trí cá nhân ữong môi trường xã hội. Nói cho thật đúng thì tất cả
những nhu cầu của một người riêng lẻ đều chỉ có thể thoả mãn khi tính đến
những nhu cầu của những người xung quanh. Đồng thời cơ cấu nhu cầu càng
phức tạp thì quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa người này với người khác càng
tăng. Chẳng hạn chúng ta khó mà tưởng tượng là nhu cầu muốn được người
khác tôn ữọng lại có thể thoả mãn ngoài mối liên hệ với những người xung
quanh.



Giao tiếp là điều kiện quan trọng nhất của sự hình thành bản thân con
người như là con người xã hội, đồng thời là điều kiện tất yếu của sự tồn tại
con người. Chính vì vậy mà nhiều nhà bác học thuộc lĩnh vực tâm lý học
cũng quan tâm đến vấn đề giao tiếp. Chẳng hạn nhà bác học Đức R.Noibe đã
nói: Con người là nhu cầu quan ữọng của con người, con người sẽ bị mất
mát nhiều nếu họ không thể so sánh được mình với người khác, không thể
ữao đổi được với người khác về các ý nghĩ, không thể định hướng được vào
người khác. Căm thù người khác còn tốt hơn là phải sống cô đơn
Hơn nữa, trong quá trình giao tiếp với nhau, người ta ừao đổi quan
niệm với nhau. Trong quan niệm của họ thể hiện thái độ đánh giá về mặt trí
tuệ của họ đối với những mặt khác nhau của đời sống thực tế, của đời sống
vật chất và tinh thần. Những quan niệm này có thể giống nhau và như thế thì
củng cố lẫn nhau và ừở thành cơ sở cho hoạt động chung và cho cách xử sự
(giống nhau) của những người ấy. Những quan niệm giống nhau sẽ cửng cố
thái độ đạo đức nảy sinh một cách tự phát. Còn trong trường hợp có những
quan niệm khác nhau thì sẽ nảy ra sự đấu tranh quan niệm dẫn đến việc hình
thành quan điểm chung.
Trong quá trình giao tiếp người ta cũng trao đổi kiến thức cho nhau và
chính như thế là nâng cao trình độ văn hoá chung của tập thể cũng như của
mỗi thành viên ữong đó. Điều quan ữọng không phải là bản thân các kiến
thức được truyền đạt lại mà là thái độ tích cực đối với các kiến thức đó. Điều
đó giải thích tại sao lại có sự lựa chọn thiên lệch đối với một số nghề nghiệp,
sách báo phổ biến, khoa học, tác phẩm nghệ thuật nào đó - Do ảnh hưởng của
chứng mà hình thành một cái mà ta có thể gọi là mốt trong nhận thức thẩm
mỹ. Và trong quá trình giao tiếp người ta cũng ữao đổi cho nhau các kinh
nghiệm riêng về cuộc sống và lao động, tác động vào ý chí và tình cảm của
nhau nhằm mục đích tạo nên sự thống nhất rộng lớn để giải quyết các vấn đề
xã hội một cách có kết quả.
Có thể nói rằng con người hiểu biết mình và nhận thức mình như là



một nhân cách qua quá trình giao tiếp. Nhận thức được sức mạnh tinh thần và
thể lực của mình ữong sự thống nhất với người khác. Từ đó, có được tình
đồng chí, bè bạn và sự giúp đỡ lẫn nhau, lòng tin tưởng ở chính mình, thủ tiêu
sự cô lập. Đặc biệt qua quá trình giao tiếp, con người có được ấn tượng mới
và thông tin mới, truyền thụ cho nhau những kinh nghiệm xã hội và kinh
nghiệm sống, tạo nên sự phong phú thực sự về mặt tinh thần của mỗi cá nhân.
1.2.2 Chức năng của giao tiếp
Một là: Chức năng xã hội
Trong nhóm chức năng xã hội, trước hết chúng ta phải nhắc đến chức
năng thông tin của giao tiếp. Chức năng thông tin được biểu hiện ở khía cạnh
truyền thông (trao đổi thông tin) của giao tiếp: Qua giao tiếp, con người ữao
đổi cho nhau những thông tin nhất định. Những thông tin này sẽ có ý nghĩa về
nhiều mặt như kiến thức, tâm lý, cảm xúc. Sự thiếu thông tin sẽ làm cho con
người cảm thấy lạc lõng và cô đơn, mất đi tính cộng đồng vốn có.
Trong xã hội, con người luôn hoạt động trong một hay nhiều tổ chức
nhất định. Đó có thể là gia đình,lớp học, trường học, công ty,... Và trong một
tổ chức, một công việc thường do nhiều bộ phận, nhiều người cùng thực hiện.
Để có thể hoàn thành công việc một cách tốt đẹp, những bộ phận, những con
người này phải thống nhất với nhau, tức là phối hợp với nhau một cách nhịp
nhàng. Muốn vậy họ phải tiếp xúc với nhau để ữao đổi, bàn bạc, phân công
nhiệm vụ cho từng bộ phận, từng người, phổ biến quy trình, cách thức thực
hiện công việc và ừong quá trình thực hiện cũng phải có những tín hiệu để
mọi ngươi hành động một cách thống nhất. Đây chính là chức năng tổ chức
phối hợp hành động của giao tiếp.
Chức năng điều khiển được thể hiện ở khía cạnh tác động ảnh hưởng
qua lại của giao tiếp. Trong giao tiếp, chúng ta ảnh hưởng, tác động đến người
khác và ngược lại, người khác cũng tác động, ảnh hưởng đến chúng ta bằng
nhiều hình thức khác nhau như: Thuyết phục, ám thị, bắt chước. Đây là một

chức năng rất quan ữọng của giao tiếp.


Trong xã hội, mỗi con người là một chiếc gương. Giao tiếp với họ
chính là chúng ta soi mình trong chiếc gương đó. Từ đó chúng ta thấy được
những ưu điểm, những thiếu sót của mình và tự sửa chữa, hoàn thiện bản
thân. Chức năng phê bình và tự phê bình này có ý nghĩa quan ữọng trong việc
phát triển toàn diện của con người, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới hiện nay
của xã hội.
Hai là: Chức năng tâm lý
Bên cạnh nhóm chức năng xã hội, giao tiếp còn mang những chức năng
tâm lý nhất định.
Chức năng động viên khích lệ của giao tiếp liên quan đến lĩnh vực cảm
xúc ữong đời sống tâm lý của con người. Trong giao tiếp, con người còn khơi
gợi ở nhau những cảm xúc, tình cảm nhất định; chúng kích thích hành động
của họ. Một lời khen chân tình được đưa ra kịp thời, một sự quan tâm được
thể hiện đứng lúc có thể làm người khác tự tin, cảm thấy phải cố gắng làm
việc tốt hơn.
Giao tiếp không chỉ là hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa con người
với con người, mà còn là cách thức để con người thiết lập các mối quan hệ
mới, phát triển và củng cố các mối quan hệ đã có. Tiếp xúc, gặp gỡ nhau - Đó
là khởi đầu của các mối quan hệ. Nhưng các mối quan hệ này có tiếp tục phát
triển hay không, có ữở nên bền chặt hay không, điều này phụ thuộc nhiều vào
quá trình giao tiếp sau đó.
Trong cuộc sống, nhiều khi chứng ta có những cảm xúc cần được bộc
lộ. Những niềm vui hay nỗi buồn, sung sướng hay đau khổ, lạc quan hay bi
quan,... chứng ta muốn được người khác cùng chia sẻ. Chỉ có trong giao tiếp
chúng ta mới tìm được sự đồng cảm, cảm thông và giải tỏa được cảm xúc của
mình.
Trong quá trình tiếp xúc với những người xung quanh, chúng ta nhận

thức được các chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ, pháp luật tồn tại trong xã hội,
tức là những nguyên tắc ứng xử: Chúng ta biết được cái gì tốt, cái gì xấu; cái


gì đẹp, cái gì không đẹp; cái gì nên làm, cái gì cần làm, cái gì không được làm
và từ đó mà thể hiện thái độ, hành động cho phù hợp. Những phẩm chất như
khiêm tốn hay tự phụ, lễ phép hay hỗn láo, ý thức nghĩa vụ, tôn ữọng hay
không tôn ữọng người khác,... Đó chính là quá trình hình thành, phát triển tâm
lý, nhân cách của mỗi chúng ta.
Như vậy giao tiếp có nhiều chức năng quan ữọng. Trong cuộc sống của
mỗi chúng ta, khi các quan hệ giao tiếp cơ bản không thực hiện được đầy đủ
các chức năng này thì điều đó không những sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc
sống và hoạt động, mà còn để lại những dấu ấn tiêu cực ữong sự phát triển
tâm lý nhân cách của mỗi chúng ta.
1.2.3. Đặc điểm của giao tiếp
Theo cuốn Tâm lý học đại cương - Trần Thị Minh Đức (chủ biên), giao
tiếp có những đặc điểm cơ bản sau
- Mang tính nhân thức
Cá nhân ý thứcđược mục đích giao tiếp, nhiệm vụ, nội dung của tiến
trình giao tiếp, phương tiện giao tiếp; ngoài ra còn có thể hiểu đặc điểm được
của giao tiếp là khả năng nhận thức và hiểu biết lẫn nhau của các chủ thể giao
tiếp, nhờ đó tâm lý, ý thức con người không ngừng được phát triển. Nếu
không giao tiếp với những người xung quanh, đứa trẻ không nhận thức được.
- Trao đổi thông tin
Dù với bất kì mục đích nào, trong quá trình giao tiếp cũng xảy ra sự
trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm, thế giới quan, nhân sinh quan. Nhờ đặc
điểm này mà mỗi cá nhân tự hoàn thiện mình theo những yêu cầu, đòi hỏi của
xã hội, của nghề nghiệp, của vị trí xã hội mà họ chiếm giữ. Cũng nhờ đặc
điểm này, những phẩm chất tâm lý, hành vi ứng xử, thái độ biểu hiện của con
người được nảy sinh và phát triển theo các mẫu hình nhân cách mà mỗi cá

nhân mong muốn trở thành.
- Giao tiếp là một quan hệ xã hội, mang tính chất xã hội.
Quan hệ xã hội chỉ được thực hiện thông qua giao tiếp người - người.


Con người vừa là thành viên tích cực của các mối quan hệ xã hội vừa hoạt
động tích cực cho sự tồn tại và phát triển của chính các quan hệ xã hội đó.
- Giao tiếp giữa các cá nhân mang tính chất lịch sử phát triển xã hôi.
Giao tiếp bao giờ cũng được cá nhân thực hiện với nội dung cụ thể,
trong khung cảnh không gian và thời gian nhất định.
- Sư kế thừa chon loc
Giao tiếp bản thân nó chứa đựng sự kế thừa, sự chọn lọc,tiếp tục sáng
tạo những giá trị tinh thần, vật chất thông qua các phương tiện giao tiếp nhằm
lưu giữ, gìn giữ những dấu ấn về tư tưởng, tình cảm, vốn sống kinh nghiệm
của con người. Giao tiếp được phát triển liên tục không ngừng đối với cá
nhân, nhóm xã hội, dân tộc, cộng đồng tạo thành nền văn hoá, văn minh của
các thời đại.
- Tính chủ thể trong quá trình giao tiếp
Quá trình giao tiếp được thực hiện bởi các cá nhân cụ thể: một người
hoặc nhiều người. Các cá nhân trong giao tiếp là các cặp chủ thể - đối tượng
luôn đổi chỗ cho nhau, cùng chịu sự chi phối và tác động lẫn nhau tạo thành
các chủ thể giao tiếp. Mức độ ảnh hưởng lẫn nhau giữa các chủ thể giao
tiếp và hiệu quả giao tiếp phụ thuộc rất nhiều vào các đặc điểm cá nhân của
chủ thể như vị trí xã hội, vai trò xã hội, tính cách, uy tín, giới tính, tuổi tác..
.cũng như các mối quan hệ và tương quan giữa họ.
- Sư lan truyền, lây lan các cảm xúc, tâm trạng.
Sự biểu cảm thể hiện đầu tiên bằng nét mặt có ý nghĩa tiến hoá sinh học
cũng như ý nghĩa tâm lý - xã hội, nó phản ánh khả năng đồng cảm, ảnh hưởng
lẫn nhau của con người. Sự chuyển toả các trạng thái cảm xúc này hay khác
không thể nằm ngoài khuôn khổ của giao tiếp xã hội.

1.3. Các yếu tố tác động đến quá trình giao tiếp trong sinh viên
1.3.1. Yếu tố chủ quan
Kỹ năng giao tiếp là một kỹ năng cần thiết cho sinh viên hiện nay
nhưng một số sinh viên vẫn chưa thật sự quan tâm đến vấn đề này. Nhiều sinh


viên vẫn không thể trình bày rõ ràng một vấn đề, quan điểm của mình trước
lớp. Có những sinh viên cho rằng chỉ cần tập trung vào chuyên môn mà
không cần đến kỹ năng giao tiếp. Bên cạnh những sinh viên ý thức được tầm
quan trọng của giao tiếp và luôn rèn luyện, học hỏi, thậm chí tham gia các
khóa đào tạo bên ngoài trường về kỹ năng giao tiếp thì một bộ phận không
nhỏ sinh viên hầu như chưa chú tâm để rèn luyện kỹ năng giao tiếp, chưa
chuẩn bị cho mình hành trang trong cuộc sống hằng ngày và sau khi rời giảng
đường đại học.Chính việc không ý thức về tầm quan trọng của giao tiếp đã
khiến cho kỹ năng giao tiếp của sinh viên còn yếu, rất nhiều các bạn trẻ không
biết cách bắt đầu một câu chuyện dù là đơn giản nhất, không biết ứng xử và
thể hiện thế mạnh của mình khi đứng trước nhà tuyển dụng hay viết một lá
đơn xin việc như thế nào.
1.3.2. Yếu tổ khách quan
Công tác quản lý giáo dục còn nhiều yếu kém và là nguyên nhân chủ
yếu của nhiều yếu kém khác. Cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi mới, chưa
theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh vực của đất nước. Đạo đức và năng lực của
một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục còn thấp. Công tác xây dựng đội ngũ
nhà giáo chưa đáp ứng yêu cầu.
Định hướng liên kết đào tạo với nước ngoài để xây dựng một nền giáo
dục tiên tiến, dân tộc, xã hội chủ nghĩa còn nhiều lúng túng trong bối cảnh
toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Quán triệt không đầy đủ, thiếu sự chỉ đạo chặt
chẽ Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp với yêu cầu đổi mới, phát
triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Sự yếu kém kỹ năng của sinh viên còn do ngoại cảnh nữa, vì sinh viên

hiện nay thiếu một kênh thông tin chính thống và hữu ích để tìm đến. Những
kênh giải trí hay tin tức giật gân, tình dục, sến sẩm nhiều quá. Nếu đọc được
những thông tin kỹ năng và chia sẻ cần thiết cũng như tiếp cận với các cơ hội
để thử sức bản thân từ lúc còn là sinh viên thì ra trường họ sẽ có những kỹ
năng cần thiết mà nhà tuyển dụng đòi hỏi tốt hơn. Vì ai mà chẳng biết giáo


dục ở Việt Nam vẫn chưa tốt, và sinh viên tốt nhất là nên học tập kỹ năng và
kinh nghiệm từ các cơ hội ngoại khóa.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KỸ NĂNG GIAO TIẾP CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
2.1. Đặc điểm sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
2.1.1. Đặc điểm ngành học
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là cơ sở giáo dục đại học công lập, trực
thuộc Bộ Nội vụ, có tư cách pháp nhân, con dấu và tài khoản riêng. Thủ
tướng yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm kiểm tra các điều kiện
bảo đảm chất lượng của trường trước khi cho phép mở ngành đào tạo đại học
và tuyển sinh. Hiện trường đang đào tạo nguồn nhân lực về các ngành học
(hoặc các chuyên ngành): Quản trị văn phòng, Dịch vụ pháp lý, Hành chính
học, Tin học, Văn thư - Lưu trữ, Quản lý văn hóa, Quản trị nhân lực, Thư ký
văn phòng, Thông tin thư viện, Lưu trữ học, Hành chính văn thư, Kế toán
doanh nghiệp...
1. Ngành Quản trị văn phòng
Chương trình đào tạo Ngành Quản trị văn phòng được xây dựng dựa
trên nhu cầu của xã hội nhằm cung cấp nguồn nhân lực có chuyên môn, trình
độ về quản trị văn phòng để đảm nhiệm công việc của người nhân viên, cán
bộ văn phòng và công việc của người quản lí, phụ trách văn phòng các cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp.

Các kỹ năng nghề nghiệp được đào tạo:
-

Có khả năng giúp lãnh đạo cơ quan quản lý, triển khai, hướng dẫn

thực hiện các nghiệp vụ văn phòng tại các đơn vị, bộ phận văn phòng của cơ
quan, tổ chức.
-

Có khả năng thực hiện thành thạo các kỹ năng, nghiệp vụ văn

phòng như: tham mưu, tổng hợp và cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động
quản lý; soạn thảo văn bản; tổ chức quản lý và giải quyết văn bản; kỹ năng
giao tiếp; phương pháp tổ chức các hoạt động, bố trí sắp xếp các công việc và


cải tiến lề lối làm việc trong văn phòng; phương pháp kiểm tra, đánh giá, điều
hành các hoạt động của cấp dưới thuộc thẩm quyền.
-

Có khả năng sử dụng thành thạo các trang thiết bị văn phòng, biết

ứng dụng các chương trình phần mềm tin học thông dụng.
Vị trí việc làm sau khi tốt nghiệp:
-

Khu vực hoặc bộ phận văn phòng của các cơ quan nhà nước, tổ

chức xã hội và các doanh nghiệp;
-


Thư ký, trợ lý hành chính cho các cấp lãnh đạo và quản lý;
Cán bộ nghiên cứu, giảng dạy về lĩnh vực hành chính, văn

phòng,...
Các đơn vị tuyển dụng: các doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước, các
tổ chức khác.
Triển vọng phát triển nghề nghiệp: có cơ hội thăng tiến để trở thành
lãnh đạo của các cơ quan, tổ chức hoặc doanh nghiệp.
2. Ngành quản trị nhân lực
Theo các tài liệu được công bố năm 2010, cả nước ta hiện nay có các
cơ quan chuyên trách về quản lý nguồn nhân lực như sau: 01 Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội; 01 Bộ Nội vụ; 63 Sở Lao động, Thương binh và Xã
hội, 63 Sở Nội vụ; 697 phòng Lao động, Thương binh và Xã hội, 697 phòng
Nội vụ và 11065 xã, phường, thị trấn. Ngoài Bộ Lao động Thương binh và Xã
hội, Bộ Nội vụ là các Bộ chuyên trách về công tác quản lý nguồn nhân lực xã
hội, cả nước còn có 16 Bộ, 4 cơ quan ngang Bộ đều có một Vụ làm công tác
quản lý nhân lực (Vụ Tổ chức cán bộ), 08 cơ quan thuộc Chính phủ và hệ
thống các đơn vị sự nghiệp thuộc cơ quan nhà nước đều có các phòng, ban
làm công tác quản lý nhân lực chuyên trách (Phòng Tổ chức cán bộ, Phòng Tổ
chức hành chính). Như vậy, đội ngũ cán bộ, công chức đang thực hiện công
tác quản trị nhân lực tại các cơ quan, đơn vị trong bộ máy nhà nước là rất lớn
và hàng năm đều có nhu cầu tuyển dụng. Đó là chưa kể đến hàng trăm doanh
nghiệp nhà nước, 497.951 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hàng trăm viện


nghiên cứu về quản lý, mỗi năm cần tuyển hàng nghìn cán bộ phụ trách về
vấn đề nhân lực trong tổ chức.
Các kỹ năng nghề nghiệp được đào tạo:
-


Kỹ năng lập kế hoạch, thông báo tuyển dụng, tuyển chọn ứng viên,

ký kết hợp đồng và thỏa ước lao động;
-

Kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng xây dựng định mức lao động và

thang bảng lương;
-

Kỹ năng ra quyết định, kỹ năng sử dụng quyền lực, kỹ năng động

viên, khiển trách và sa thải nhân viên,...
Vị trí việc làm sau khi tốt nghiệp: chuyên gia tư vấn, chuyên viên, cán
bộ phụ trách một số hoạt động chuyên sâu về quản trị nhân lực trong mọi loại
hình tổ chức như: hoạch định và tuyển dụng nhân lực; tổ chức quá trình đào
tạo, bồi dưỡng và phát triển nhân lực; xây dựng thang - bảng lương, thực hiện
chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và phúc lợi cho người lao động; bố trí
nhân lực, xây dựng định mức và tổ chức lao động khoa học; xây dựng chính
sách nhân lực và quan hệ lao động,
3. Ngành quản lý nhà nước
Chương trình giáo dục đại học ngành Quản lý nhà nước cung cấp cho
SV những kiến thức cơ bản về quản lý, kiến thức chuyên sâu về quản lý hành
chính nhà nước để SV có khả năng thực hiện được các công việc quản lý hành
chính thuộc khu vực công hoặc khu vực tư.
Các kỹ năng nghề nghiệp được đào tạo:
-

Kỹ năng về điều hành, tổ chức như: xây dựng kế hoạch, quy chế


hoạt động công sở; phân công công việc, xây dựng cơ chế phối hợp trong hoạt
động; thực hiện công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động của cá nhân, đơn vị
trong công sở;
-

Kỹ năng quản lý nhân sự như: kỹ năng phân tích công việc, lập kế

hoạch nhân sự, tuyển dụng và bố trí nhân sự, đánh giá thực thi công việc tạo
động lực làm việc và phát triển nhân sự, thực hiện chế độ đãi ngộ;


-

Kỹ năng thao tác nghiệp vụ hành chính văn phòng cơ bản như: xử

lý thông tin phục vụ công tác quản lý; soạn thảo văn bản, quản lý văn bản, lưu
trữ văn bản, tài liệu; tổ chức phòng làm việc và công sở khoa học; tổ chức hội
họp hoặc tiếp khách...
-

Kỹ năng giải quyết các thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực cơ

bản như: lĩnh vực hộ tịch, lĩnh vực quản lý đất đai, lĩnh vực chứng thực
-

SV có thể phân tích, đánh giá các vấn đề về quản lý hành chính; có

khả năng đàm phán trong quản lý hành chính và giao tiếp đạt hiệu quả.
Vị trí việc làm: SV tốt nghiệp ngành Quản lý nhà nước có thể đảm

nhiệm công việc ở vị trí quản lý, chuyên viên hành chính các cơ quan thuộc
khu vực công và cả khu vực tư.
Các đơn vị tuyển dụng:
-

Các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương tới địa phương:

Chính phủ; các bộ, cơ quan ngang bộ; UBND các cấp; các sở ban ngành địa
phương;
-

Các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội.

-

Các tổ chức thuộc khu vực ngoài Nhà nước.

Triển vọng phát triển nghề nghiệp:
Trên cơ sở kiến thức được trang bị ở trình độ đại học, SV có thể
tham gia nghiên cứu khoa học quản lý, khoa học hành chính hoặc tiếp tục học
ở những trình độ cao hơn.
Trong giai đoạn đất nước đẩy mạnh phát triển kinh tế hội nhập quốc tế,
nhu cầu nguồn nhân lực đặc biệt nguồn nhân lực ở vị trí lãnh đạo, quản lý; đội
ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước có vai trò quyết định. Đội
ngũ này chính là những người xây dựng và thực thi chính sách phát triển kinh
tế - xã hội.
Vì vậy, các cơ quan nhà nước rất cần có đội ngũ cán bộ, công chức có
trình độ, kỹ năng về quản lý nhà nước.



Lựa chọn ngành Quản lý nhà nước sẽ là một trong những lựa chọn sáng
suốt cho các bạn trẻ đạt được thành công trong tương lai.
4. Ngành lưu trữ học
Hiện nay, Việt Nam đang có nhu cầu rất lớn về nguồn nhân lực có trình
độ đại học làm công tác lưu trữ. Tại các cơ quan nhà nước hiện nay trình độ
của cán bộ làm công tác lưu trữ ở bậc đại học đúng chuyên môn chỉ đạt
khoảng 15%. Để nâng cao chất lượng của công tác lưu trữ, các cơ quan, tổ
chức trung ương và địa phương cần bổ sung một số lượng lớn cán bộ được
đào tạo đại học chuyên ngành lưu trữ.
Các kỹ năng nghề nghiệp được đào tạo:
SV học ngành Lưu trữ học tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội sẽ được
trang bị các kỹ năng cơ bản thuộc công tác văn thư, công tác lưu trữ như kỹ
năng soạn thảo văn bản, quản lí văn bản, lập hồ sơ, quản lý hồ sơ lưu trữ và
tra tìm hồ sơ, tài liệu, tổ chức chỉnh lý khoa học tài liệu lưu trữ, bảo quản và
khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ. Ngoài ra, người học còn được trang bị các
kỹ năng của người thư kí văn phòng, quản trị văn phòng, tin học văn phòng,
những kiến thức về văn hoá công sở...
Vị trí việc làm sau khi tốt nghiệp:
-

Nghiên cứu, giảng dạy về lĩnh vực văn thư và lưu trữ;

-

Quản lí công tác văn thư - lưu trữ trong các cơ quan, tổ chức và

doanh nghiệp;
-

Chuyên viên văn thư, lưu trữ tại các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân


các cấp, văn phòng các cơ quan, tổ chức, đoàn thể, các doanh nghiệp và các
Trung tâm lưu trữ quốc gia, Trung tâm lưu trữ tỉnh, thành phố, các phòng lưu
trữ quận, huyện;
-

Làm việc ở bộ phận văn phòng của các cơ quan nhà nước hay các

doanh nghiệp; thư ký văn phòng hay trợ lý cho lãnh đạo cơ quan.
5. Ngành khoa học thư viện


Trong bối cảnh hệ thống thông tin thư viện Việt Nam đang vươn mình
hoà nhập ra thế giới cùng với xu hướng tin học hoá thư viện diễn ra mạnh mẽ,
ngành Khoa học thư viện - Trường ĐH Nội vụ Hà Nội góp phần đào tạo
nguồn nhân lực thư viện - thông tin có trình độ lý luận và năng lực tổ chức,
thực hiện các hoạt động nghiệp vụ trong thư viện và cơ quan thông tin.
Các kiến thức được trang bị:
SV nắm vững kiến thức, tổ chức các hoạt động nghiệp vụ cơ bản của
khoa học thư viện: lựa chọn, thu thập, bổ sung nguồn tin, tổ chức xử lý, lưu
giữ, phân tích, tổng hợp, tạo dựng các sản phẩm, dịch vụ và phân phối thông
tin theo phương pháp truyền thống và hiện đại; có kiến thức và khả năng ứng
dụng công nghệ thông tin vào hoạt động thư viện, am hiểu các loại hình thư
viện.
Các kỹ năng nghề nghiệp được đào tạo:
Kỹ năng thực hành thành thạo các hoạt động nghiệp vụ thư viện:
-

Xây dựng và phát triển nguồn tin;


-

Tổ chức kho và bảo quản tài liệu;

-

Xử lý thông tin - tài liệu;

-

Tổ chức bộ máy tra cứu;

-

Xây dựng các sản phẩm và dịch vụ thư viện - thông tin;

-

Tổ chức phục vụ người đọc, người dùng tin; Marketing thư viện

-

Thành thạo tin học văn phòng và tin học trong hoạt động thư viện;

-

Sử dụng tốt tiếng Anh trong giao tiếp và hoạt động chuyên môn

Các đơn vị tuyển dụng:
-


Các cơ quan thông tin - thư viện của các Bộ, Ngành, Viện nghiên

-

Các công ty, doanh nghiệp chuyên hoạt động về lĩnh vực thông tin

cứu;
- thư viện;
-

Thư viện các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, các dự án, thư

viện tư nhân;


-

Thư viện các trường phổ thông, thư viện quân đội

-

Các cơ quan văn hóa, điểm bưu điện văn hóa,

-

Trung tâm thông tin, đơn vị dịch vụ lưu trữ, cung cấp thông tin

điện tử,
6. Ngành quản lý văn hóa

Chương trình đào tạo sinh viên trở thành những cán bộ có trình độ đại
học, cao đẳng, có năng lực quản lý và tổ chức các hoạt động văn hoá thông tin
trong các cơ quan, đơn vị quản lý văn hoá từ trung ương đến các địa phương ,
cơ sở.
Sinh viên sau khi tốt nghiệp nghành quản lý văn hoá có đủ kiến thức và
tự tin để làm việc tại các cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá, thông tin,
truyền thông hoặc đảm nhận các công việc liên quan đến hoạt động văn hoá
du lịch, truyền thông báo chí.
2.1.2. Đặc điểm đầu vào
Trước yêu cầu đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, đáp ứng nguồn nhân lực
có trình độ cao, bám sát nhiệm vụ quản lý của Bộ Nội vụ, nhất là những lĩnh
vực chưa có trường đại học nào đào tạo, tháng 11/2011, Thủ tướng Chính phủ
đã cho phép thành lập Trường Đại học Nội vụ Hà Nội trên cơ sở nâng cấp
Trường Cao đẳng Nội vụ Hà Nội. 40 năm qua, Trường đã đào tạo trên 45.700
học sinh, sinh viên, trong đó có trên 70 lưu học sinh, thực tập sinh nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
- Trường Đại học Nội vụ tuyển sinh trong cả nước theo Phương thức
tuyển sinh: tuyển sinh dựa vào kết quả kỳ thi THPT quốc gia do các trường
ĐH chủ trì, - Trường tổ chức sơ tuyển hồ sơ của thí sinh trước khi xét tuyển.
- Sinh viên tốt nghiệp Cao đẳng, trung cấp đủ điều kiện và có nguyện
vọng được học Liên thông lên bậc Đại học, Cao đẳng cùng hệ đào tạo
2.1.3. Điều kiện sống và sinh hoạt
Trường Đại học nội vụ được đầu tư cơ sở vật chất khá khang trang và
đầy đủ ngoài khu hành chính văn phòng, hội trường và khu giảng đường


trường còn có khu Ký túc xá trực thuộc sự quản lý của Phòng Công tác sinh
viên.
Cách nơi học tập chính của Trường khoảng 300m, Ký túc xá là đơn vị
dịch vụ có chức năng chăm lo đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho sinh

viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
Hiện nay, Ký túc xá gồm 03 dãy nhà, trong đó có 01 dãy nhà 06 tầng
được xây dựng khang trang, sạch sẽ. Với 56 phòng, diện tích từ 30  50 m2
khép kín, Ký túc xá có thể đáp ứng 566 chỗ ở. Trong đó, tất cả các phòng đều
được trang bị ti vi, internet, điện nước đầy đủ để học sinh và sinh viên có điều
kiện học tập và ăn ở tốt nhất.
Ngoài ra, khu Ký túc xá còn có căng tin sạch sẽ, rộng rãi, thoáng mát
phục vụ theo phương thức tự chọn, đảm bảo vệ sinh, giá cả hợp lý, đáp ứng
nhu cầu của học sinh, sinh viên nội trú. Bên cạnh đó, Nhà trường còn đầu tư
xây dựng sân tập thể dục để rèn luyện thể chất và bố trí bảo vệ trực 24/24h,
trang bị hệ thống phòng cháy chữa cháy và cứu nạn khẩn cấp khi cần nhằm
đảm bảo an toàn cho sinh viên sinh hoạt trong khu Ký túc xá.
Với sự quan tâm của Ban Giám hiệu, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
hiện đã có kế hoạch đầu tư, nâng cấp, xây dựng và dần hiện đại hóa Ký túc xá
để phục vụ tốt hơn nhu cầu sinh hoạt và học tập của học sinh, sinh viên đang
theo học tại Trường.
2.2. Thực trạng kỹ năng giao tiếp giữa sinh viên với sinh viên
2.2.1. Thực trạng kỹ năng giao tiếp giữa sinh viên với sinh viên ở trong
nhà trường
Trong quá trình học tập sinh viên ít đưa ra ý kiến, quan điểm khi làm
việc nhóm, thảo luận học tập trên lớp, chính vì lẽ đó năng lực giao tiếp giữa
các sinh viên không tạo ra được môi trường sống, học tập hữu ích cho cả tập
thể lớp.
Bên cạnh đó cũng có nhiều bạn biết đặt mình vào vị trí của đối tác giao
tiếp để cư xử cho đúng mực; điều gì mình không muốn hoặc không làm được


thì cũng không bắt người khác phải làm; dùng cách nói tế nhị, có lý, có tình,
tránh dùng cách nói vỗ mặt sỗ sàng; tránh chạm vào lòng tự ái của người
khác,

Kỹ năng làm việc nhóm là kỹ năng tương tác giữa các thành viên trong
một nhóm, nhằm thúc đẩy hiệu quả công việc việc phát triển tiềm năng của tất
cả các thành viên. Một mục tiêu lớn thường đòi hỏi nhiều người làm việc với
nhau, vì thế làm việc nhóm trở thành một định nghĩa quan trọng trong tổ chức
cũng như trong cuộc sống.
Trong thời đại ngày nay, khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì
yêu cầu làm việc theo nhóm là cần thiết hơn bao giờ hết. Đơn giản vì không ai
là hoàn hảo, làm việc theo nhóm sẽ tập trung những mặt mạnh của từng người
và bổ sung cho nhau. Hơn nữa, chẳng ai có thể cáng đáng hết mọi việc.
Trong một tập thể mỗi một con người đều có những nét khác biệt, đồng
thời là sự xuất hiện của những cuộc xung đột giữa các cá nhân trong nội khi
giải quyết những vấn đề của nhóm. Do đó thấu hiểu được sự khác biệt là có
khả năng giải quyết những xung đột.
Việc có rèn luyện các kĩ năng trong giao tiếp với tập thể sẽ giúp sinh
viên tự tin khẳng định vị trí của mình trong giao tiếp với mọi người đồng thời
cũng có nghĩa là tạo dựng nên một hình ảnh đẹp về người sinh viên trong xã
hội ngày nay  những con người có lối sống đẹp, sống có ý nghĩa. Tuy nhiên
đó mới chỉ là những kĩ năng cơ bản trong giao tiếp, còn trong tương lai để
thực sự thành công trong các môi trường làm việc khác nhau, sinh viên còn
phải trang bị thêm nhiều kĩ năng giao tiếp nữa;
2.2.1. Thực trạng kỹ năng giao tiếp giữa sinh viên với sinh viên ở
ngoài nhà trường
Về giao tiếp và ứng xử giữa sinh viên với nhau trong thời gian gần đây
đã có nhiều sự thay đổi, nhất là trong cách nói chuyện với nhau nơi công
cộng. Nếu để ý lắng nghe những cuộc đối thoại của nhiều sinh viên (cả nam
và nữ) ta sẽ dễ dàng nhận thấy một điều là ngày nay các bạn thường sử dụng


nhiều từ lóng, tiếng lóng để nói với nhau mà nếu không phải là người trong
cuộc thì khó mà hiểu được. Rồi những câu nói tục, những câu thơ, đoạn nhạc

được cải biên lại luôn luôn xuất hiện, những từ ngữ đệm vào nghe không có
ý nghĩa gì trong câu nói cứ được lặp đi lặp lại như là sự mở đầu cho mọi câu
nói. Những câu nói cực ngắn, những câu nói mang đầy tính gợi hình cũng
được tận dụng mọi lúc mọi nơi. Sự cẩu thả trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, sự
thiếu tinh tế trong lựa chon ngôn từ, sự sáng tạo ra nhiều từ ngữ mới chẳng
những không làm phong phú thêm vốn từ của cá nhân mà đôi khi còn làm
nghèo nàn thêm vốn ngôn ngữ của chính người sử dụng và sự trong sáng của
tiếng Việt đồng thời cũng như tạo nên một không khí mang tính chất chợ
búa ngay tại môi trường giáo dục Đại học. Thói quen được hình thành từ
những hành động thường ngày mà ta không chú ý đến. Thói quen tốt là cả
một tài sản vô cùng quý giá. Thói quen xấu là một trở lực trên con đường dẫn
đến thành công. Hơn nữa, thói quen sử dụng ngôn ngữ đó hoàn toàn không
phù hợp với một môi trường giáo dục như trường Đại học.
2.3. Thực trạng kỹ năng giao tiếp giữa sinh viên với giảng viên
2.2.1. Thực trạng kỹ năng giao tiếp giữa sinh viên với giảng viên ở trên
lớp học
Trong giao tiếp giữa sinh viên với giáo viên ngày nay cũng có nhiều
thay đổi. Nếu như trước đây, giáo viên là nhân vật trung tâm trong các buổi
học, từng lời nói của giáo viên luôn mang tính giáo dục cao và luôn là khuôn
mẫu về mặt kiến thức cũng như đạo đức cho sinh viên tiếp nhận. Ngày nay, vị
trí trung tâm của bài giảng đã chuyển về phía người học. Sinh viên không còn
là người tiếp thu kiến thức một cách thụ động và thiếu tính phê phán. Khoảng
cách giữa thầy và trò cũng ngày càng được thu hẹp. Quan hệ thầy trò cũng trở
nên bớt mang nặng tính chất một chiều thầy nói trò nghe. Sinh viên ngày càng
thể hiện mình là đối tượng tiếp nhận tri thức một cách chủ động. Bên cạnh đó
vẫn còn một bộ phận sinh viên cũng như giáo viên chưa thật sự có ý thức tốt
trong quan hệ giao tiếp. Nhiều sinh viên còn có thái độ thiếu tôn trọng đối với


giảng viên và bài giảng của họ, cũng như thiếu lịch sự và lễ độ trong giao tiếp

với giảng viên, nhất là đối với giảng viên trẻ.
Vậy học sinh, sinh viên hiện nay đã ứng xử với thầy cô giáo một cách
có văn hoá, phù hợp với chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam,
với truyền thống tôn sư trọng đạo hay chưa?
Tư duy phản biện là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và
đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra
nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Lập luận phản
biện phải rõ ràng, lôgíc, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ và công tâm thì sinh viên
còn lúng túng. Tình trạng thụ động trên giảng đường hiện nay cũng là một
minh chứng cho việc sinh viên hiện nay thiếu tư duy phản biện. Các thầy giáo
từng chia sẻ Mặc dù trên giảng đường tôi rất khuyến khích các bạn sinh viên
bày tỏ quan điểm của mình nhưng hình như không được ủng hộ lắm, phương
pháp giảng dạy mới lấy người học làm trung tâm (learner center) khó mà áp
dụng nếu không được ủng hộ từ các bạn sinh viên.
Có rất nhiều sinh viên hiện nay quan niệm quá trình học tập, rèn luyện
tại truờng đại học chỉ là học để có nghề nghiệp, học để lấy tấm bằng; giảng
viên, cán bộ nhà trường chỉ là người làm công tác đào tạo cho mình. Vì vậy
họ đã đánh mất những nét đẹp, xa rời các chuẩn trong cách ứng xử với thầy
cô giáo vốn đã được giáo dục từ thời phổ thông. Đó là thái độ không tôn trọng
giảng viên trong giờ học mà những biểu hiện cụ thể là cãi lại lời giảng viên
khi bản thân có lỗi, bị phê bình; là không đứng dậy chào giảng viên khi họ
vào lớp; là trả lời câu hỏi của giảng viên một cách cộc lốc, thờ ơ cho qua; là
không đứng dậy trả lời câu hỏi xây dựng bài khi giảng viên yêu cầu; là vào ra
lớp học không xin phépCả những hành vi nói chuyện riêng, làm việc riêng,
sử dụng điện thoại, để chuông điện thoại reo trong giờ học của một số sinh
viên và tình trạng các lớp không chuẩn bị khăn trải bàn, khăn lau bảng cho
giảng viên, không làm vệ sinh trong lớp học trong rất nhiều tiết giảng của
giảng viên cũng thể hiện sự ứng xử chưa văn hoá.



Bên cạnh đó, vấn đề ngại nói của sinh viên cũng là điều đáng bàn.
Trong giờ học, khi thầy cô giảng bài thì một số sinh viên ngồi phía sau nói
chuyện riêng nhưng khi cho thảo luận, đặt câu hỏi chỉ có vài sinh viên tích
cực trong khi số còn lại ngồi im, không phát biểu ý kiến: Em không tự tin
nên em rất ngại phát biếu, em vẫn ngồi im cho dù em biết, em chỉ muốn nói
là em rất ngại đứng nói trước đám đông,. Vì vậy, một số sinh viên khi có
thắc mắc hay có một vài điểm chưa hiểu trong bài học cũng ngại bày tỏ với
giảng viên và cuối cùng là chỗ nào chưa hiểu thì vẫn không hiểu. Có nhiều
bạn khi được gọi tên đứng lên lại không thể diễn đạt được một câu rõ ràng, cứ
lắp ba lắp bắp không phải em sợ cô đâu nhưng cứ tới môn này em lo cô gọi
tới tên mình là run lắm và không có thói quen phát biểu ý kiến, trình bày
quan điểm. Việc thiếu tự tin đã làm cho sinh viên lo sợ rằng mình phát biểu
sai, nói không đúng,
Một số cán bộ giảng viên thiếu nghiêm túc trong công việc như đến lớp
trễ mà không có lý do cũng như không xin lỗi trước lớp, coi chuyện đó là
hoàn toàn bình thường, giảng bài khan mà thiếu sự chuẩn bị đầu tư, giảng dạy
không đúng chuyên môn được đào tạo dẫn đến sự chán học và thái độ thờ ơ
của sinh viên. Sử dụng công nghệ thông tin giảng dạy giáo án điện tử như một
cách thay thế cho viết bảng. Sự cẩu thả trong mọi công việc đều là điều đáng
lên án, sự cẩu thả trong giáo dục lại càng nguy hiểm và đáng lên án hơn hết.
Hơn nữa, giao tiếp trong môi trường giáo dục cần nhiều sự mẫu mực nhằm
thể hiện một không gian văn hóa khác hẳn với những môi trường và thiết chế
văn hóa khác.
2.2.1. Thực trạng kỹ năng giao tiếp giữa sinh viên với giảng viên ở
ngoài lớp học
Để tránh xung đột lợi ích, giảng viên tránh có những mối quan hệ kép
(dual-role relationships) với sinh viên vốn có thể ảnh hưởng đến sự phát triển
của sinh viên hoặc dẫn tới việc giảng viên thật sự thiên vị hay bị cho là thiên
vị sinh viên.