Quốc hồn quốc túy tiếng Anh là gì

Nghiên cứu - Phê bình - Trao đổi

Suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta từng phải trải qua các thời kỳ lệ thuộc vào chữ Hán và chữ Pháp khá sâu nặng trong lĩnh vực hành chính, giáo dục và trong đời sống thường ngày, kể cả việc tế lễ thờ cúng. Song nhân dân ta vẫn không ngừng nỗ lực cùng học giả Hàn Thuyên (= Tiến sĩ Nguyễn Thuyên (-0-1247) xây dựng một hệ thống ngôn ngữ văn tự Việt Nam tồn tại độc lập: – đó là chữ Nôm xuất hiện nhằm bảo vệ và duy trì bản sắc dân tộc đủ kích thước thể hiện chính xác suy nghĩ, tâm tư, tình cảm trong giao tiếp giữa cuộc sống lao động và đấu tranh. Bắt nguồn từ khát vọng cao đẹp ấy, nhiều tác phẩm thơ ca có giá trị viết bằng chữ Nôm lần lượt ra đời ở thế kỷ XVIII; tiêu biểu nhất phải kể đến bản trường ca Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn được Đoàn Thị Điểm (1705-1748) dịch (?) từ chữ Hán sang chữ Nôm cùng hệ thống thơ ca của Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương… Đấy là những thành tựu cơ bản trong quá trình giữ gìn và phát triển tiếng Việt quốc hồn quốc túy suốt hàng ngàn năm.

Hãy cùng đọc lại mấy vần thơ hết sức tinh tế mở đầu bản Chinh phụ ngâm để nhớ về chữ Nôm thuở ban đầu lưu luyến không thể nào quên được:

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Xanh kia thăm thẳm từng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?…

Xin làm bóng theo cùng chàng vậy,
Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên.
Chàng nương vừng nguyệt phỉ nguyền,
Mọi bề trung hiếu, thiếp xin vẹn toàn

Kế thừa truyền thống quý giá vô ngần ấy, hơn 70 năm qua kể từ sau cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, các trường từ tiểu học đến sau đại học đều sử dụng Tiếng Việt và chữ quốc ngữ đầy hiệu quả, không chỉ dừng lại ở thành tích to lớn thoát nạn mù chữ trên toàn quốc, mà còn được sử dụng sâu rộng xuyên suốt công văn chỉ thị của bộ máy hành chính Nhà nước cùng tất cả các ngành khoa học xã hội – tự nhiên và nổi bật hơn là quá trình vận dụng quốc ngữ vào công nghệ thông tin phục vụ cuộc sống hiện đại của toàn dân sánh kịp bè bạn năm châu. Thành tựu vĩ đại này thể hiện sức sống mãnh liệt của nền văn hiến truyền thống dồi dào bản sắc độc lập tự chủ của dân tộc ta. Quá khứ lịch sử đã chứng minh hùng hồn, dù cho kẻ thù ngoại bang từng hàng trăm năm dai dẳng đeo bám tìm mọi thủ đoạn thâm độc nhằm đồng hóa văn hóa và ngôn ngữ của chúng ta, nhưng không sao đạt được.

Quốc hồn quốc túy tiếng Anh là gì

Ảnh : thanhnien.vn

Nhìn rộng ra, việc coi trọng ngôn ngữ dân tộc là phù hợp với quy luật lịch sử nhân loại, đúng như nhà ngôn ngữ học Humboldt (Đức) từng khẳng định:

“Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc và linh hồn của dân tộc chính là ngôn ngữ”.

Tiếng Việt và văn tự chữ Nôm, chữ quốc ngữ là những thành tố vô cùng quan trọng góp phần xây dựng và phát triển sức sống tự cường bền vững của quốc gia con Lạc cháu Hồng. Ngày nay và cả mai sau, mỗi người Việt chúng ta cần chú ý nâng cao ý thức bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt sao cho ngày càng giàu đẹp và được sử dụng hiệu quả trên mọi lĩnh vực khoa học cũng như đời sống.

Nhà văn Nguyễn Tuân thuở sinh thời từng “cảm thấy chịu ơn rất nhiều đối với quê hương ông-bà đã truyền cho (…) thứ tiếng nói đậm đà” là “di sản nhiệm màu (…) thiêng liêng vô giá, mà tất cả trữ kim, trữ ngân của tất cả ngân hàng thế gian cũng không sao đánh đổi được”(Về tiếng ta). Ông Nguyễn không tiếc lời phê phán những ai đó mất gốc “ồn ào ca tụng cái văn minh Địa Trung Hải”, quên đi cái hồn cốt độc đáo của dân tộc!

Tuy vậy, vẫn còn một số người sùng ngoại chưa biết trân trọng kho vàng bạc quý giá đó, mà ngược lại cố sức chạy đua pha độn tiếng nước ngoài những lúc không cần thiết. Rõ ràng là mấy năm gần đây việc học tiếng Anh trở thành nhu cầu tất yếu không thể tránh né đối với lớp trẻ không chỉ trong nhà trường, mà cả phần lớn cán bộ ở nhiều ngành khác nhau. Quả là tiếng Anh (Mỹ) đã góp phần đáng kể trong giao lưu – tiếp nhận khoa học và trao đổi kinh tế. Đó là lợi ích hiển hiện và là điều đáng mừng trên đường hội nhập quốc tế giữa thế giới phẳng ngày nay.

Nhưng mặt khác, hiện tượng lạm dụng tiếng Anh không đúng chỗ vẫn khá phổ biến. Chẳng hạn một số báo viết và cả báo nói thường giật tít đậm nét.

“Trại hè tuổi teen”, phim “Tuổi teen xui xẻo”, “Nhịp điệu teen”, “Teen đúng nghĩa”, “Teen phạm tội” cùng bao thứ tuổi teen bát nháo khác! Có lẽ người viết cứ tưởng mình đã làm một việc đổi mới sáng tạo cho tiếng mẹ đẻ chăng? Trong khi đó ngày ngày giữa phố phường vẫn vang vang lời hát trữ tình rất đẹp: “Hà Nội ơi, xanh xanh màu áo học trò”. Giá mà ai đó “ấm đầu” hâm hâm rống lên thành “Hà Nội ơi, xanh xanh màu áo “teen teen”, thì chắc là cụ Nguyễn Tuân phải sống lại, hiện lên cười mũi mà rằng: – Một mình con hâm cũng đủ rồi, không nên làm phiền người khác!

Nếu chú ý vào quá trình phát triển tiếng Việt, chúng ta có thể thấy từ đầu thế kỷ XX, khi mà các lớp học chữ Hán phải đóng cửa để thay thế bằng các trường học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp thì trong dân gian đã xuất hiện câu nói vui: Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”; thế nghĩa là từ học trò đã sống động trong lòng người Việt từ Bắc chí Nam hàng trăm năm thay cho từ Nho sinh cổ kính đạo mạo. Giờ đây chẳng cần phải đổi thành “teen teen” lạ lẫm! Liệu có ích gì cho việc khai sáng dân trí? Đó chính là Tuổi thần tiên – tên bài hát phổ cập của nhạc sĩ Trần Chung và báo Hoa học trò đang được đông đảo học sinh thích thú mến yêu. Và có bao người viết “tuổi hồng, tuổi hoa, tuổi xanh, tuổi mộng mơ, tuổi me xanh, tuổi ô mai, tuổi mực tím”… Thú vị biết mấy! Chẳng phải đài Truyền hình thủ đô từng giới thiệu một chương trình ca nhạc Giai điệu tuổi hồng của Sở Giáo dục Hà Nội. Chỉ mới nghe qua đã thấy hấp dẫn. Thế mà gần đây nhất báo Tuổi trẻ vẫn giật tít lớn “Nỗi lòng Hotteen trường học” tiếp đến “Hotboy giáo viên”. Cách viết kiểu Tây như vậy thì dù các phụ huynh có văn bằng cấp cao cũng khó lòng hiểu nổi ý nghĩa sâu xa của nó?

Đáng tiếc là cái mốt độn tiếng Anh vẫn bành trướng những lúc không cần thiết trở thành một “Hội chứng buồn cười” cần chữa trị kịp thời. Hãy đọc thêm một số quảng cáo trên các báo ở Sài Gòn hiện nay thì sẽ gặp nhan nhản tiếng Anh. Chẳng hạn báo Thanh niên viết “xem triển lãm hàng thủ công hand made”! Không chịu kém bạn đồng nghiệp, báo Tuổi trẻ (28-8-16) cũng giật tít lớn “Trẻ mầm non tự làm đồ handmade để gây quỹ từ thiện”.

Xin thưa rằng, từ ngày xửa ngày xưa theo nghĩa Hán Việt, thủ là tay, công là làm, ai mà chả biết! Giờ đây quảng cáo độn tiếng Anh nhem nhuốc khiến người xem triển lãm xấu hổ cứ tưởng là hàng làm bằng máy móc từ tận trời Tây nhập nội bèn tìm mua? Chẳng phải Thủ công là môn học bắt buộc ở cấp Tiểu học từ trước năm 1945 đó sao? Người đọc cứ ngỡ đang chuyện trò với Việt kiều tận Mỹ về thăm quê hương? Báo Thể thao văn hóa vốn sính dùng tiếng nước ngoài, nào là “confederations cups”, nào là “tìfosi”, nào là “cu-le”, nào là “đội bóng Đà Nẵng nổ champagne”; mặc dù nhà thơ Tú Mỡ từng viết “sáng sâm banh, tối sữa bò”; thế mà 70 năm sau nhà báo nọ lại nổ tiếng Tây lòe thiên hạ, thậm chí còn dịch ẩu giật tít: “Ở Anh phát giải thưởng cho các hư cấu”? Dù là chốn trời Tây văn minh giàu có đến mấy cũng chẳng bao giờ có chuyện giải thưởng lại phát cho các hư cấu? Thật ra, từ fiction có hai nghĩa: tiểu thuyết ở phía người Anh, còn phía người Mỹ cộng thêm nghĩa hư cấu. Kỳ lạ hơn, trên quê hương cụ Đồ Chiểu và cụ Trương Vĩnh Ký chiều chiều các bạn thích nhậu trứng vịt lộn vui vẻ tràn đầy vỉa hè làm sao có thể hiểu được cái biển hiệu rắc rối nọ: Siêu thị-New Chợ quận Gò Vấp? Ôi, thật là “hy hữu”! Sao không nói là hiếm có, hiếm gặp, hiếm thấy cho dễ hiểu? (Hy là hiếm, hữu là có = từ Hán Việt). Bởi mục tiêu cao nhất của báo chí là thông tin đến tận đông đảo người dân thường giúp họ nhận biết. Câu hỏi “Viết cho ai đọc” vẫn rất nóng hổi ở thời nay, dù cho Việt Nam đã là thành viên của WTO? Đâu cần thâm nho, khó hiểu đến vậy!

Nếu bạn chú ý đến âm nhạc thì có lẽ đây là lĩnh vực pha độn nhiều tiếng Anh vụng về nhất, thậm chí có lúc tưởng như các ca sĩ quên cả mảnh đất đang đứng là nơi nào? Hiện nay ở các thành phố lớn đã xuất hiện không ít ban nhạc Việt mang nhãn hiệu Tây, nghe rất oách, song lại nhẹ tênh tênh lạc điệu không đủ hấp dẫn để sánh kịp tiếng vỗ tay đối với các ban nhạc mang tên Việt! Mà ngay cả mấy ông Tây cũng than phiền là chẳng hiểu họ đang hát tiếng gì? Tiếp tay cho việc đó là một số bạn dẫn chương trình ca nhạc cũng mê nói tiếng Anh. Chả thế mà cuộc thi tài âm nhạc nọ (VTV9), ba giám khảo thì hai người mang tên Tây và tám người dự thi thì hầu hết mang họ Tây? Thậm chí cả bài hát của người Việt – lời Việt cũng mang nhan đề tiếng Anh? Khán giả cứ xì xào rằng, họ từ Mỹ sang hồi nào, song nhìn kỹ chân dung họ dường như đều là dân đất Chín Rồng hoặc Tây Ninh? Tại một buổi thi hát khác, vị nhạc sĩ trẻ – giám khảo hăng hái nhận xét: “Bài hát này có ai-đia (idea = ý tưởng) tốt, nhưng nhìn vào body (vóc dáng) ca sĩ thì sexy quá! Còn ca sĩ vội vàng trả lời: “Bài này em đã ca cùng ban nhạc Moonlight trong event (sự kiện) khai mạc hội chợ được rất nhiều người like (thích)! Người nghe không hiểu nên vui hay nên buồn? Bởi nếu cứ tiếp tục con đường ca hát vá víu vay mượn nửa tây nửa ta như thế thì biết đến bao giờ dòng nhạc Việt mới vươn lên xứng tầm cùng thiên hạ?

Như mọi người đã biết, lĩnh vực khoa học ngôn ngữ nói chung có bộ môn mỹ từ pháp (rhetoric), nay gọi là tu từ học nhằm hướng tới việc trau giồi nói và viết sao cho hay cho đẹp một thứ ngữ nhất định. Dù ở góc độ nào cũng không thể lạm dụng lối nói – viết tùy tiện pha độn nhộn nhạo “Tây-Tàu-Việt”, theo kiểu dung tục “nước mắm chấm dùi đục” làm lu mờ nét tao nhã, tinh tế cần đạt, nhất là trong thơ văn.

Nếu nhìn từ góc độ văn hóa đại chúng thì chẳng phải món bún cua đồng vẫn đông khách hơn món ăn nhanh kiểu Mỹ KFC giữa thủ đô đó sao? Như mọi người đều biết, ngày nay chúng ta đang sống trong thời đại giao lưu rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, tuy được mệnh danh là thế giới phẳng, nhất là về kinh tế. Song nếu tỉnh táo suy xét nhìn thấu bốn cõi thì thực chất mỗi dân tộc, mỗi vùng miền lại mang đậm nét độc đáo truyền thống về văn hóa và ngôn ngữ bản địa. Chẳng phải ngay trên mảnh đất máu thịt ngàn đời của chúng ta, ngôn ngữ – văn hóa mỗi miền Bắc-Trung-Nam và miền núi đều đậm đà bản sắc riêng đầy hấp dẫn không lẫn vào đâu được? Hát Quan họ Bắc Ninh đâu phải là hát ví giặm Nghệ Tĩnh, còn hát Cải lương vọng cổ khác hẳn Tiếng cồng chiêng Tây Nguyên. Tuy thế, tất cả đều được UNESCO vinh danh “di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại”.

Trong dòng chảy lịch sử trường tồn của tiếng Việt và chữ quốc ngữ, chúng ta càng biết ơn các nhà văn hóa lớn, các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà khoa học… từng có nhiều công lao trong sự nghiệp bảo tồn và phát triển ngôn ngữ. Có nhiều vị thông thái rất sành ngoại ngữ, song họ đem bao tâm huyết cống hiến cho tiếng nói của dân tộc ngày càng bền vững giàu có, tiêu biểu nhất phải kể đến Trương Vĩnh Ký với Từ điển Pháp-Hán-Việt từ cuối thế kỷ XIX và Hoàng Xuân Hãn với Danh từ khoa học từ trước năm 1945… Hai bậc thông tuệ ấy hết sức coi trọng tiếng Việt-tiếng mẹ đẻ-quốc hồn- quốc túy và nỗ lực Việt hóa các thông tin khoa học ngoại lai sang tiếng Việt góp phần làm phong phú ngôn ngữ truyền thống của tổ tiên từ bao đời để lại…

Xin nêu ra đây một hiện tượng lớn bộc lộ tầm quốc tế quan trọng của việc bảo vệ ngôn ngữ bản địa vùng miền. Tại đất nước Bỉ – trung tâm của châu Âu – vốn tồn tại bốn cộng đồng dân cư chung sống lâu đời và sử dụng bốn thứ ngôn ngữ khác nhau: tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Hà Lan và tiếng Flamăng. Vì vậy mà vị chủ tịch Quốc hội ở nước này được luân phiên giữ nhiệm kỳ sáu tháng theo bốn loại ngôn ngữ. Dọc các dãy phố, các biển chỉ đường đều ghi bằng bốn thứ tiếng. Tuy vậy, trên chính trường đã không ít lần xẩy ra bất đồng sâu sắc được gọi là “chiến tranh ngôn ngữ”. Vậy là không thể có bên trọng, bên khinh, tất nhiên là số cư dân trong thực tế đâu có bằng nhau. Còn trên đất Paris, để tránh việc xâm nhập của tiếng Anh hàng ngày, Nhà nước Pháp ra lệnh cấm quảng cáo bằng tiếng Anh, đến mức có một viện sĩ Hàn lâm lớn tiếng khẳng định: “Tôi sẽ rút gươm ra để bảo vệ cho ngôn ngữ chúng ta đã bị tấn công một cách tàn nhẫn bởi sự ngốc nghếch và sự lai tạp”…

Hiện nay ở nước ta đã đến lúc Nhà nước và các cơ quan ngôn luận cần quan tâm nhiều hơn và cần đặt ra những quy chế hướng dẫn cần thiết cho việc bảo vệ tiếng Việt, trong đó có cả lĩnh vực thông tin quảng cáo…

Hà Nội, 5-11-2016

PGS.TS. Nguyễn Trường Lịch
Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 429