Quyền lực tư tưởng là gì

Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giaicấp, cũng như các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành,giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước; là sự tham giacủa nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã hội, là hoạtđộng chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng phái chính trị,các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiệnđường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.[1]

Từ khi xuất hiện, chính trị ảnh hưởng tới quá trình tồn tại và phát triển củamỗi cộng đồng, mỗi quốc gia, dân tộc và toàn nhân loại.Trước khi chính trị học ra đời với tư cách là một khoa học(political science) nghiên cứu chính trị như một chỉnh thể,có đối tượng, phương pháp, khái niệm, phạm trù..., đã có các quan niệm, quan điểm, thậm chí tư tưởng, họcthuyết của các học giả khác nhau bàn về các khía cạnh củachính trị.[2]

Mục lục

  • 1 Khái niệm
  • 1.1 Các quan niệm trước Chủ nghĩa Mác-Lênin
  • 1.2 Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin
  • 1.3 Các quan điểm hiện nay
  • 2 Nguồn gốc và bản chất
  • 2.1 Nguồn gốc kinh tế chính trị
  • 2.2 Bản chất giai cấp của chính trị
  • 3 Lịch sử
  • 4 Ý thức hệ chính trị
  • 5 Thể chế chính trị
  • 6 Tổ chức chính trị
  • 6.1 Đảng phái chính trị
  • 6.2 Nhà nước
  • 6.3 Các tổ chức liên minh đại diện
  • 7 Khoa học chính trị
  • 7.1 Chính trị học
  • 7.2 Triết học chính trị
  • 7.3 Xã hội học chính trị
  • 7.4 Kinh tế chính trị học
  • 8 Xã hội chính trị
  • 8.1 Địa chính trị
  • 8.2 Tham nhũng chính trị
  • 8.3 Chính trị toàn cầu
  • 8.4 Thủ lĩnh chính trị
  • 8.5 Quyền lực chính trị
  • 8.6 Đấu tranh chính trị
  • 8.7 Phong trào chính trị
  • 9 Kinh tế chính trị
  • 10 Văn hóa chính trị
  • 10.1 Nhân vật chính trị
  • 11 Xem thêm
  • 12 Tham khảo
  • 12.1 Tài liệu Tiếng Việt
  • 12.2 Tài liệu Tiếng Anh
  • 13 Chú thích

Khái niệmSửa đổi

Các quan niệm trước Chủ nghĩa Mác-LêninSửa đổi

  • Ở phương Tây thời kỳ cổ đại, nổi lên các triết gia, chínhtrị gia lỗi lạc về chính trị:[3]
  1. Herodotus: Được mệnh danh là người "cha của chính trịhọc". Từ chỗ nghiên cứu và phân tích sự khác biệt giữa cáchình thức chính thể: Quân chủ, Qúy tộc và Dân chủ, ôngkhẳng định chính trị tốt nhất là thể chế hỗn hợp của cácchính thể này.
  2. Platon: Chính trị là nghệ thuật cung đình liên kết trựctiếp của người anh hùng và sự thông minh. Sự liên kết đó đượcthực hiện bằng sự thống nhất tư tưởng và tinh thần hữu ái.Chính trị là nghệ thuật cai trị. Cai trị bằng sức mạnh làđộc tài, cai trị bằng nghệ thuật mới là đích thực.
  3. Aristotle: Chính trị là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên-là hình thức giao tiếp cao nhất của con người; con người là độngvật chính trị; quyền lực chính trị có thể được phân chia thànhlập pháp, hành pháp và tư pháp.
  • Ở phương Đông cổ đại, nhất là ở Trung Quốc thời kỳ "báchgia chư tử" - trăm hoa đua nở - trăm nhà đua tiếng cũng xuấthiện những tư tưởng chính trị kiệt xuất. Nổi bật nhất là cácquan niệm của Khổng tử, Hàn Phi tử, Lăo tử...[3]
  1. Khổng tử: Chính trị là công việc của người quân tử, là làmcho chính đạo, chính danh. Ông xây học thuyết về Nho gia vớicác quan điểm Tam cương, Ngũ thường - là cơ sở nền tảng chocác xã hội phong kiến phương Đông lúc bấy giờ và cả sau này.
  2. Hàn Phi tử: Ông quan niệm để thực hiện hoạt động chínhtrị cần thiết phải xây dựng và ban hành pháp luật. Với luậnthuyết nổi tiếng về thế, thuật và pháp - ông là đại diện tiêu biểucủa phái Pháp gia.
  3. Lão tử: Với quan điểm "vô vi nhi trị" - không làm gì màmọi người tự thuần phục, tự tìm đến với con đường chính đạothì đó là cái gốc của nghệ thuật trị nước
  • Thời kỳ đêm trường trung cổ: Chính trị được các nhàThần học và chủ nghĩa duy tâm như Tômat Đa-Canh...chorằng "chính trị có nguồn gốc từ quyền lực tối cao củaThượng đế".[3]
  • Thời kỳ các học thuyết và tư tưởng tư sản về chính trị:Nổi tiếng với các thuyết "tam quyền phân lập, khế ước xãhội". Chính trị được quan niệm là công việc của những"công dân" có tài sản.[3]

Các tư tưởng và học thuyết nêu trên ít nhiều đã đề cậpđược những vấn đề cơ bản của chính trị như vấn đề tổ chứcNhà nước, các hình thức Nhà nước và các chính thể, vấn đềquyền lực Nhà nước, thủ lĩnh chính trị....Tuy nhiên donhững hạn chế về lập trường, quan điểm, điều kiện lịch sử-xã hội mà các học thuyết đó ít nhiều còn bộc lộ những quanđiểm thô sơ, chất phác, thậm chí là sai lầm về chính trị.[3]

Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-LêninSửa đổi

Nghiên cứu một cách nghiêm túc các quan điểm trước đitrước về chính trị, đồng thời vận dụng một cách khoa họccác phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng vàchủ nghĩa duy vật lịch sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩaMác- Lênin đã đề xuất những nhận định đúng đắn về chínhtrị như sauː[3]

  1. Chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi ích, là đấutranh giai cấp trước hết vì lợi ích giai cấp.
  2. Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chứcquyền lực nhà nước, là sự tham gia vào công việc Nhà nước,là định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội dung,nhiệm vụ của Nhà nước.
  3. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Đồngthời, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so vớikinh tế.
  4. Chính trị là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảmnhất, liên quan tới vận mệnh hàng triệu người. Giải quyếtnhững vấn đề chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệthuật.

Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giaicấp, cũng như các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành,giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước; là sự tham giacủa nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã hội, là hoạtđộng chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng phái chính trị,các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiệnđương lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích[3]

Các quan điểm hiện naySửa đổi

Hiện nay, trên thế giới đã hình thành 4 cách hiểu khác nhau về chính trị:[4]

  • Nghệ thuật của phép cai trị
  • Những công việc của chung
  • Sự thỏa hiệp và đồng thuận
  • Quyền lực và cách phân phối tài nguyên hay lợi ích

Nếu quan niệm rằng chính trị chỉ là những hoạt động xoay quanh vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước thì, theo lý luận của chủ nghĩa Marx, trong xã hội cộng sản tương lai sẽ không có chính trị bởi vì lúc đó nhà nước đã tiêu vong. Nói cách khác, chính trị sẽ dần dần trở nên thừa thãi và mất hẳn trong xã hội lý tưởng của nhân loại  xã hội cộng sản.

Chính trị theo nghĩa rộng hơn là hoạt động của con người nhằm làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung mà những luật lệ này tác động trực tiếp lên cuộc sống của những người góp phần làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung đó. Với cách hiểu như thế này thì dù trong xã hội cộng sản, chính trị vẫn còn tồn tại và vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng đối với từng con người cũng như toàn xã hội. Trong bất kỳ xã hội nào thì cũng cần những luật lệ chung để hoạt động nhịp nhàng và khoa học, tránh tình trạng vô tình hay cố ý xâm phạm quyền lợi, lợi ích, tài sản, sức khỏe hay thậm chí tính mạng của người khác hay của cộng đồng. Một ví dụ đơn giản, xã hội dù có phát triển đến đâu thì cũng cần có luật giao thông để con người có thể lưu thông một cách trật tự và hiệu quả. Hay, con người không thể sống trong một xã hội mà tình trạng an ninh không đảm bảo (cướp bóc, khủng bố chẳng hạn) do thiếu luật lệ. Mặc dù phần lớn xã hội hiện nay trên thế giới không tránh khỏi các hiện tượng cướp bóc và khủng bố nhưng phải thừa nhận rằng pháp luật đã góp phần ngăn chặn đáng kể những hành vi bất lương đó.

Nguồn gốc và bản chấtSửa đổi

Nguồn gốc kinh tế chính trịSửa đổi

Xét về sự xuất hiện của chính trị trong lịch sửnhân loại: Chính trị ra đời gắn liền với sự xuất hiện của giai cấpvà nhà nước. Sự xuất hiện đó lại liên quan chặt chẽ đến vấn đềtư hữu tư liệu sản xuất - tư hữu những của cải dư thừa của xãhội- cũng tức là liên quan đến hoạt động kinh tế. Để bảo vệ chosự tư hữu về tư liệu sản xuất đó, những tầng lớp "trên" của xãhội đã tổ chức ra nhà nước nhằm mục đích cưỡng chế các giaitầng xã hội khác. Như vậy chính trị xuất hiện trong lịch sử xuấtphát từ kinh tế.[5]

Xét trên góc độ lợi ích: Chủ nghĩa Mac-Leninkhẳng định chính trị chính là lợi ích, là quan hệ giữa các giaicấp trong việc phân chia lợi ích. Như vậy chính trị chính là sựbiểu hiện tập trung của kinh tế.[5]

Xét trên quan điểm về các hình thái kinh tế, xãhội: Chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng, bao gồm hệ tưtưởng chính trị, nhà nước, các đảng phái xuất hiện khi xãhội phân chia thành các giai cấp dựa trên cơ sở hạ tầng kinhtế. Như vậy, chính Cơ sở hạ tầng kinh tế là yếu tố quyếtđịnh đến sự hình thành các quan điểm và các thiết chế chínhtrị[5]

Bản chất giai cấp của chính trịSửa đổi

Mối quan hệː Chính trị bao giờ cũng là sự bộc lộ mối quan hệgiữa các giai cấp: Trong một xã hội có giai cấp, chính trị vớinhững thiết chế được đặt ra là để xác lập mối quan hệ giữa cácgiai cấp. Khái niệm quan hệ chính trị cho chúng ta thấy, đó làquan hệ giữa các giai cấp, trong việc giành, giữ và tổ chứcquyền lực Nhà nước. Trong các quan hệ đó, các giai cấp xácđịnh đâu là giai cấp thống trị, đâu là giai cấp, tầng lớp bị thốngtrị, đâu là giai cấp, tầng lớp tham gia vào thực hiện các nhiệmvụ chính trị.[6]

Đảng phái, Nhà nướcː Bản chất chính trị của giai cấp thể hiện ở sự tổchức thành Đảng phái, thành Nhà nước để giai cấp thống trị đạtđược mục đích trấn áp giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội vìlợi ích trước hết và trên hết của giai cấp mình. Thông qua hoạtđộng của các Đảng phái là đội tiên phong của chính mình, đồngthời thông qua hoạt động của Nhà nước, giai cấp thống trị giántiếp can thiệp vào các hoạt động tổ chức sản xuất và đời sốngxã hội.[6]

Quyền lực chính trịː Bản chất chính trị của giai cấp còn liên quan đếnvấn đề quyền lực chính trị. Các mác khẳng định "Quyền lựcchính trị thực chất là bạo lực có tổ chức của giai cấp này, trấnáp giai cấp khác". Mỗi một giai cấp sẽ có cách thức sử dụngquyền lực chính trị khác nhau. Chế độ phong kiến sử dụngquyền lực tuyệt đối thuộc về một người, chế độ tư sản sử dụng  9quyền lực trên cơ sở thuyết Tam quyền phân lập; chế độ xãhội chủ nghĩa quyền lực được xuất phát từ nhân dân và cósự phân công, phân nhiệm trong sử dụng[6]

Văn hóa tư tưởng chính trịː Bản chất giai cấp của chính trị thể hiện ở chếđộ văn hóa chính trị, bao gồm hệ tư tưởng, nền tảng pháp lývà các giá trị, chuẩn mực được áp dụng cho toàn xã hội[6]

Lịch sửSửa đổi

Lịch sử chính trị kéo dài trong suốt lịch sử loài người và không giới hạn trong các thể chế chính phủ hiện đại.

Frans de Waal lập luận rằng những con tinh tinh đã tham gia chính trị thông qua việc "thao túng xã hội để bảo đảm và duy trì các vị trí có ảnh hưởng".[7] Các hình thức ban đầu của con người về tổ chức xã hội - các nhóm người và bộ lạc còn thiếu các cấu trúc chính trị tập trung.[8] Chúng được gọi là xã hội không nhà nước.

Có một số lý thuyết và giả thuyết khác nhau liên quan đến sự hình thành nhà nước sớm tìm cách khái quát hóa để giải thích tại sao nhà nước phát triển ở một số nơi mà không phải là những nơi khác. Các học giả khác tin rằng việc khái quát hóa là không có giá trị và mỗi trường hợp hình thành nhà nước sớm nên được xử lý riêng biệt.[9]

Các lý thuyết tự nguyện cho rằng các nhóm người khác nhau đã cùng nhau hình thành các nhà nước do kết quả của một số lợi ích hợp lý được chia sẻ chung.[10] Các lý thuyết chủ yếu tập trung vào sự phát triển của nông nghiệp, và áp lực dân số và tổ chức theo sau và dẫn đến sự hình thành nhà nước. Một trong những lý thuyết nổi bật nhất về sự hình thành nhà nước sơ khai và sơ cấp là giả thuyết thủy lợi, cho rằng nhà nước là kết quả của nhu cầu xây dựng và duy trì các dự án thủy lợi quy mô lớn.[11]

Các lý thuyết xung đột về sự hình thành nhà nước coi xung đột và sự thống trị của một số dân số đối với dân số khác là chìa khóa cho sự hình thành các quốc gia.[10] Trái ngược với các lý thuyết tự nguyện, những lập luận này tin rằng mọi người không tự nguyện đồng ý tạo ra một nhà nước để tối đa hóa lợi ích, nhưng các nhà nước đó hình thành do một số hình thức áp bức của một nhóm người đối với các nhóm người khác.

Một số lý thuyết lại cho rằng chiến tranh là rất quan trọng đối với sự hình thành nhà nước.[10]

Ý thức hệ chính trịSửa đổi

Bài chi tiết: Ý thức hệ

Ý thức hệ chính trị hay hệ tư tưởng chính trị là toàn bộnhững học thuyết, tư tưởng, quan điểm, của một giai cấp về:giành và giữ quyền lực nhà nước; xác định chế độ chính trị;hình thức tổ chức nhà nước; và quan hệ với các giai cấp, tầnglớp khác.[12]

Hệ tư tưởng chính trị có vai trò vô cùng quan trọng, thểhiện ở những điểm sauː Đó là kim chỉ nam soi đườngcho quá trình đấu tranh của một giai cấp. Chỉ có hệ tư tưởngchính trị mới chứa đựng những mục tiêu và phương pháp đểmột giai cấp tiến lên giành chính quyền. Hệ tư tưởng chính trị xác định mối quan hệ giữagiai cấp này với giai cấp khác. Hệ tư tưởng chính trị mô tả chế độ chính trị, xácđịnh hình thức và bản chất Nhà nước, các cơ chế phân chiaquyền lực chính trị. Hệ tư tưởng chính trị xác định mục tiêu, nội dungvà phương thức lãnh đạo, quản lý xã hội.[12]

Trong quan hệ với thể chế chính trị, hệ tư tưởng chínhtrị là mục đích, là nội dung của thể chế đó. Hệ tư tưởngchính trị nào thì xác định thể chế chính trị đó; trong quan hệvới hệ thống chính trị, hệ tư tưởng chính trị là là hạt nhântinh thần, là phần linh hồn của hệ thống đó.[12]

Khổng Tửː Triết gia Khổng Tử (551 471 TCN) là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên có cách tiếp cận riêng đến Học thuyết chính trị. Căn bản trong học thuyết của ông là "quân tử (người cầm quyền) nên học tự kỷ luật, nên cai trị người dân của mình bằng chính gương của mình, và nên đối xử với họ bằng tình thương và sự quan tâm." [13] Niềm tin chính trị của ông gắn chặt với luân thường đạo lý và đạo đức cá nhân. Ông cho rằng chỉ những người quân tử liêm khiết và tuân theo đạo của người quân tử thì mới được cầm quyền, và những tư cách của những nhân vật đó phải kiên định với địa vị trong xã hội. Ông ta cũng nói rằng "Triều đại tốt cốt ở vua làm tròn bổn phận của vua, bề tôi làm tròn bổn phận của bề tôi, cha làm tròn bổn phận của cha, và con làm tròn bổn phận của con."[14]

Platoː Triết gia Hy Lạp cổ đại Plato (428 328 TCN) nói trong sách Nền Cộng hòa (The Republic) rằng tất cả những chế độ chính trị theo truyền thống như (dân chủ, quân chủ, chính thể đầu sỏ,chính thể hào hiệp - democracy, monarchy, oligarchy và timarchy) vốn đã đồi bại, tham nhũng và nhà nước nên được điều hành bởi tầng lớp những người cầm quyền cũng là triết gia được giáo dục tốt. Họ được đào tạo từ lúc chào đời và được chọn dựa trên năng lực: "những người có kỹ năng đặc biệt về quan sát tổng quan xã hội." [15]

Aristotleː Trong cuốn Chính trị của mình, triết gia Hy Lạp cổ đại Aristotle (384322 TCN) quả quyết rằng về bản chất, con người là một động vật chính trị. Ông ta cho rằng luân thường và chính trị có liên kết chặt chẽ với nhau, và một đời sống thật sự đạo đức chỉ có thể có ở những người tham gia vào chính trị.[16] Giống như Plato, Aristotle thấy rằng có nhiều hình thức nhà nước khác nhau, và ông cho rằng hình thức "đúng" của nhà nước có thể biến thành một hình thức nhà nước "lệch lạc", nơi mà thể chế bị mục nát. Theo ông, chế độ quân chủ, có một người cai trị, sẽ biến thành chuyên chế; chế độ quý tộc, với một nhóm nhỏ người cai trị, sẽ biến thành chính thể đầu sỏ; và xã hội có tổ chức (polity) do nhiều người dân cùng cai trị thì sẽ biến thành chế độ dân chủ.[17] Theo nghĩa này, Aristotle không dùng từ "democracy" như nghĩa hiện nay là nó mang nghĩa rộng, nhưng có nghĩa đen là do demos, hay thường dân cai trị.[17] Một cái nhìn chính xác hơn về dân chủ mà Aristotle đề cập đến chỉ là chính quyền quần chúng (ochlocracy).

Niccolò Machiavelliː Trong sách của mình, cuốn The Prince (Quân vương), nhà lý luận chính trị người Ý ở giai đoạn Phục Hưng ông Niccolò Machiavelli đề nghị một tầm nhìn thế giới về chính trị để miêu tả các phương pháp thực tế cho chế độ chuyên quyền để giành và giữ quyền lực chính trị. Ông thường được xem là người phản đối quan điểm đạo đức truyền thống đối với người cầm quyền: "đối với Machiavelli, không có nền tảng đạo đức mà ở đó phân xử sự khác nhau giữa việc sử dụng quyền lực hợp pháp hay bất hợp pháp." [18] Thuật ngữ Machiavellian (cũng có nghĩa là xảo quyệt) ra đời, đề cập đến một người thiếu đạo đức dùng các cách mánh khóe để cố thủ quyền hành. Học thuyết của ông đã được các lãnh đạo học tập và thực hành kể cả những lãnh đạo chuyên chế toàn trị như Benito Mussolini và Adolf Hitler, những người đã biện hộ cho việc hành động tàn bạo của mình là cho mục đích an toàn quốc gia.[19] Tuy nhiên, nhiều học giả đã nghi vấn quan điểm này của chủ thuyết Machiavelli, cho rằng "Machiavelli không sáng tạo ra chủ nghĩa Machiavelli", và chưa từng là một 'Machiavellian' quỷ quyệt như ông đã bị gán cho."[20] Thay vào đó, Machiavelli xem trạng thái ổn định của quốc gia là mục tiêu quan trọng hàng đầu, và tranh luận rằng theo truyền thống phẩm chất tốt được xem là khát vọng mang tính đạo đức, như tính độ lượng, đã không được ưa thích đối với người lãnh đạo và có thể dẫn đến việc mất quyền lực chính trị.

John Stuart Mill

John Stuart Millː Vào thế kỷ XIX, John Stuart Mill là người đi tiên phong trong việc dùng khái niệm tự do trong chính trị. Ông ta đã thấy được rằng dân chủ sẽ là sự phát triển chính trị chủ chốt trong thời đại ông ta[21] và, trong cuốn Bàn về tự do (On Liberty) của mình, ông đã cổ vũ cho việc bảo vệ tốt hơn các quyền cá nhân và chống lại ảnh hưởng của nhà nước và sự cầm quyền của đa số. Ông ta cho rằng tự do là quyền quan trọng nhất của loài người.[22] Một nhà bình luận cho rằng cuốn Bàn về tự do như là một lời bảo vệ hùng hồn và mạnh mẽ nhất cho chủ nghĩa tự do chúng ta có."[22] Ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của tự do ngôn luận, và tuyên bố rằng chúng ta không thể chắc chắn rằng ý kiến mà chúng ta cố gắng ngắt lời là ý kiến sai trái, và nếu chúng ta chắc chắn như vậy thì việc ngắt lời vẫn là điều sai quấy."[23]

Karl Marx là một trong số những nhà tư tưởng chính trị có ảnh hưởng trong lịch sử. Học thuyết của ông chỉ trích chủ nghĩa tư bản và ông biện luận rằng trong tương lai sẽ có "sự suy tàn không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản vì các nguyên nhân kinh tế, và được thay thế bởi chủ nghĩa xã hội."[24] Ông ta định nghĩa lịch sử có liên quan đến đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản, hay giai cấp sở hữu tư liệu sản xuất, và giai cấp vô sản, hay giai cấp lao động. Cuộc đấu tranh được sự công nghiệp hóa tăng cường.[25] Nhiều phong trào chính trị sau đó dựa trên tư tưởng của Marx, cho ra các phiên bản rất khác nhau của chủ nghĩa cộng sản; bao gồm Chủ nghĩa Marx-Lenin, Chủ nghĩa Mao, và Chủ nghĩa Marx tự do. Có thể nói rằng người đã người thể hiện học thuyết chủ nghĩa Marx có ảnh hưởng nhất là Lenin, người sáng lập ra Liên Xô. Ông đã sáng tạo học thuyết cách mạng dựa trên nền tảng tư tưởng Marx. Tuy nhiên, những nhà tư tưởng theo Chủ nghĩa Marx tự do đã thách thức sự diễn dịch chủ nghĩa Marx của Lenin; như trường hợp Cornelius Castoriadis, đã miêu tả nhà nước Liên Xô là một hình thức của "chủ nghĩa tư bản quan liêu" hơn là nhà nước cộng sản thực sự.[26]

Thể chế chính trịSửa đổi

Xem thêm: Hiến pháp và Luật pháp

Thể chế chính trị (Political Institute) là những quyđịnh, quy chế, chuẩn mực, quy phạm, nguyên tắc, luậtlệ...nhằm điều chỉnh và xác lập các quan hệ chính trị. Mặtkhác là những dạng thức cấu trúc tổ chức, các bộ phậnchức năng cấu thành của một chủ thể chính trị hay hệ thốngchính trị. Thể chế chính trị là hình thức biểu hiện của hệ tư tưởngchính trị, là "con đẻ" của hệ tư tưởng chính trị.Hệ thống chính trị là một bộ phận cấu thành của thể chếchính trị. Thể chế chính trị tồn tại dưới hai dạng thức:[12]

Các quy định, quy chế, quy phạmː Những điềunày tồn tại trong các tuyên ngôn về Cương Lĩnh chính trị, điềulệ của một Đảng cầm quyền, những chỉ thị, Nghị quyết củaĐảng đó. Đồng thời cũng là các quy định Pháp luật mang tínhthành văn hoặc bất thành văn của một quốc gia do giai cấpthống trị ban hành và cưỡng chế thực hiện trên phạm vi toànlãnh thổ quốc gia đó. Các quy phạm pháp luật này là tồn tại chủyếu của thể chế chính trị dưới dạng này và chứa trong các Hiếnpháp, pháp luật....của quốc gia[12]

Các hình thức cấu trúc tổ chức. Điều này hàmchỉ các tổ chức là thực thể cấu thành hệ thống chính trị có chứcnăng thực thi quyền lực chính trị[12]

Tổ chức chính trịSửa đổi

Tổ chức chính trị hay Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các thiết chế quyềnlực chính trị, được xã hội thừa nhận bao gồm các tổ chức chínhtrị như Đảng phái, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xãhội có mối quan hệ mang tính pháp quy với nhau cùng liênkết nhằm thực hiện mục tiêu chính trị phù hợp với lợi íchcủa giai cấp thống trị. Cấu thành hệ thống chính trị bao gồm cácthực thểnhưː Đảng chính trị, Nhà nước, các tổ chức đại diện cho các lực lượng khác nhau trong xã hội.[12]

Đảng phái chính trịSửa đổi

Đảng là một tổ chức xã hội tự nguyện, tập hợp nhữngngười có những đặc điểm chung nhất định, tuân thủ theonhững quy tắc nhất định, cùng thực hiện những nhiệm vụnhất định nhằm thỏa mãn mục tiêu nào đó. Khi một Đảng có mục tiêu chính trị, tập hợp nhữngngười có chung một đặc điểm là cùng một giai cấp, cùng cómong muốn đấu tranh giành quyền lực chính trị, thì Đảngđó là Đảng chính trị[27]

Đảng chính trị là bộ phận tích cựcnhất và có tổ chức của một giai cấp, làm công cụ đấu tranhcho lợi ích của giai cấp mình. Các Đảng chính trị xuất hiện ngay từ những giai đoạnphát triển đầu tiên của xã hội có giai cấp, gắn liền với nhữngsự khác nhau về lợi ích của các giai cấp và của các tập đoànhợp thành giai cấp. Nhưng lịch sử thực sự của các Đảngchính trị chỉ bắt đầu từ thời kì Đại cách mạng tư sản Pháp(cuối thế kỷ XVIII).[27]

Đảng chính trị là một tổ chức xã hội tự nguyện, liên minhcủa những người cùng tư tưởng, theo đuổi những mục đíchchính trị nhất định; cố gắng giành ảnh hưởng lãnh đạo đối vớiđời sống chính trị và tổ chức xã hội, ra sức giành và giữ chínhquyền để thực hiện đường lối của mình. Là một bộ phận cấuthành của kiến trúc thượng tầng, Đảng chính trị hành động bằng thuyếtphục, truyền bá các quan điểm tư tưởng, bằng cách tập hợpnhững người cùng chí hướng. Đảng chính trị có những phươngtiện vật chất như các cơ quan báo chí, thông tin và xuất bản.Đảng thu hút vào hàng ngũ của mình bộ phận tích cực nhất củagiai cấp, chứ không bao giờ toàn bộ giai cấp. Tùy theo giai cấpđóng vai trò như thế nào trong đời sống và trong sự phát triểnxã hội (vai trò cách mạng tiến bộ, bảo thủ, phản động) mà đảngcủa nó thể hiện vai trò đại diện cho lợi ích của giai cấp.[27]

Nhà nướcSửa đổi

  • Xem thêmː Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp

Nhà nước là một thiết chế quyền lực đặcbiệt, là một công cụ do Đảng chính trị và giai cấp thống trịlập ra nhằm duy trì sự thống trị và đảm bảo quyền lợi củagiai cấp đó, đồng thời trấn áp giai cấp, tầng lớp khác.Về hình thức, tuỳ vào từng quan hệ sản xuất xã hộikhác nhau trong lịch sử mà tồn tại các kiểu và các hình thứcNhà nước khác nhau. Ở xã hội chiếm hữu nô lệ, có bốnphương thức hình thành Nhà nước gồm: Phương thức Aten,Phương thức Roma cổ đại, phương thức Giec - manh vàphương thức phương Đông cổ đạiỞ xã hội phong kiến,quyền lực tập trung mạnh mẽ vào một vị vua được gọi là"thiên tử". Do đó, vua là người đứng đầu nắm toàn bộquyền hành điều khiển Nhà nước, tiếp đến là hệ thống quanlại, quý tộc từ trung ương đến địa phương. Sang chế độ tưbản chủ nghĩa thì Nhà nước được tổ chức theo học thuyết Tamquyền phân lập với nhiều hình thức khác nhau: Chính thểquân chủ lập hiến, chính thể cộng hoà tổng thống, chính thểcộng hoà đại nghị. Đặc điểm chung của Nhà nước tư sản làsự phân chia quyền lực nhà nước thành các quyền lập pháp,hành pháp và tư pháp. Các quyền này độc lập, đối trọng,kiềm chế và kiểm soát lẫn nhau. Nhà nước xã hội chủ nghĩađược xây dựng trên nền tảng quyền lực Nhà nước là thống nhất thuộc về nhân dân, nhưng có sự phân chia với nhau trongviệc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.[28]

Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng, là trụ cột của hệthống chính trị. Thông qua các cơ chế quyền lực, Nhà nước quản lý toàn bộ các mặt của đời sống xã hội: Quyền lập phápgiúp Nhà nước ban hành pháp luật, quyền hành pháp giúp Nhà nước tổ chức và thực thi pháp luật, quản lý nền sản xuất, quảnlý đời sống xã hội, quyền tư pháp giúp Nhà nước kiểm sát vàxét xử các hành vi vi phạm pháp luật, chống lại chế độ kinh tế,chính trị của quốc gia, dân tộc..Hoạt động của Nhà nước chínhlà trung tâm của sự vận hành hệ thống chính trị.[28]

Các tổ chức liên minh đại diệnSửa đổi

  • Xem thêmː Liên Hợp Quốc

Các tổ chức liên minh, liên kết, đại diện cho các lựclượng khác nhau trong xã hội. Đó là các tổ chức đoàn kết toàndân tộc, các tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích của các giaicấp, tầng lớp khác trong xã hội. Các tổ chức này góp phần thamgia vào hoạt động của hệ thống chính trị trong việc tạo ra khốiđại đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ lợi ích cho các giai tầng xãhội trước giai cấp thống trị. Một mặt các tổ chức này đóng vaitrò lớn trong hệ thống chính trị, góp phần xây dựng và hoànthiện hệ thống này; mặt khác, trong nhiều trường hợp chính cáctổ chức này lại là nguyên nhân phá vỡ hệ thống chính trị hiệnthời. Đó là khi một giai cấp tiến bộ trong lịch sử ra đời, có tổchức tiên phong, đại diện xong chưa nắm được quyền lực chínhtrị. Khi đó, thông qua con đường bạo lực cách mạng, nó sẽ lậtđổ chính quyền của giai cấp thống trị lỗi thời, lạc hậu, cũng tức là đạp đổ hệ thống chính trị hiện thời để xây dựng lên mộthệ thống chính trị mới mang bản chất giai cấp của chính nó.[28]

Khoa học chính trịSửa đổi

Bài chi tiết: Khoa học chính trị

Chính trị họcSửa đổi

Chính trị học là nghiên cứu quyền lực chính trị,phương thức giành quyền lực chính trị, các thiết chế và cáchình thức tổ chức thực hiện quyền lực chính trị, các kiểu hệthống chính trị đã có trong lịch sử và đang tồn tại trong thời đạingày nay.[29]

Chính trị học cũng nghiên cứu quá trình hoạt động chínhtrị nhằm giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực chínhtrị. Chú ý nghiên cứu làm rõ các vấn đề: mục tiêu chính trịtrước mắt và mục tiêu lâu dài mang tính hiện thực; những biệnpháp, phương tiện, thủ thuật, hình thức tổ chức có hiệu quả đểđạt các mục tiêu đề ra; sự lựa chọn và sắp xếp cán bộ. Chính trị học cũng nghiên cứu các mối quan hệ về lí luậnchính trị của các chế độ xã hội.[29]

Triết học chính trịSửa đổi

Triết học chính trịnghiên cứu các vấn đề cơ bản vềnhà nước,chính quyền,chính trị,tự do,công lý,tài sản,quyền,luậtvà việc thực thi luật pháp bởi các cơ quan thẩm quyền. Mục tiêu nghiên cứu của triết học chính trị nhằm lý giải về mối quan hệ cũng như sự tồn tại của các vấn đề trên một cách thấu đáo bởi các nhà triết học; cụ thể là trả lời các câu hỏi như những yếu tố kể trên là gì, tại sao lại phải có chúng, cái gì khiến cho chính quyền là hợp pháp, những quyền và tự do nào cần được bảo vệ và tại sao, luật pháp là gì và khi nào có thể hủy bỏ luật một cách hợp lẽ.

Xã hội học chính trịSửa đổi

Xã hội học chính trịđương đạiliên quan đến, nhưng không giới hạn, việc nghiên cứu về các mối quan hệ giữanhà nước,xã hội vàcông dân. Nghiên cứu về sự hình thành chính trị xã hội củanhà nước hiện đại; sựbất bình đẳng xã hộigiữacác nhóm(giai cấp,chủng tộc,giới tính) ảnh hưởng đếnchính trị như thế nào;các quan điểm,tư tưởng, tính cách,phong trào xã hộivà xu hướng bên ngoài của các tổ chức chính thức của quyền lực chính trị ảnh hưởng đến chính trị chính thức; nghiên cứu mối quan hệ quyền lực trong và giữa các nhóm xã hội (ví dụ như gia đình, nơi làm việc, quan liêu, truyền thông...). Nói cách khác, xã hội học chính trị thường liên quan đến các xu thế xã hội, hệ thống chính trị ảnh hưởng đến các quá trình hoạt động chính trị cũng như tìm hiểu xem các lực lượng xã hội khác nhau làm việc cùng nhau như thế nào để thay đổi các chính sách chính trị.Từ quan điểm này, chúng ta có thể xác định ba khung lý thuyết chínhđó làː đa nguyên, lý thuyết ưu tú hoặc quản lý và phân tích lớp (mà trùng lặp vớichủ nghĩa Mácphân tích)[30]

Kinh tế chính trị họcSửa đổi

Kinh tế chính trị học là một môn khoa học xã hội nằm trong khoa học kinh tế,nghiên cứu về kinh tế để rút ra các kết luận về kinh tế và từ đó rút racác kết luận về chính trị. Theo Enghen: Kinh tế chính trị học theo nghĩa rộng nhất là khoa học về những quy luật chiphối sự sản xuất và sự trao đổi những tư liệu sinh hoạt vật chất trong xã hội loài người Theo nghĩa hẹp, kinh tế chính trị học nghiên cứu một phương thức sản xuất cụ thể và tìm raquy luật vận động của riêng nó. Kinh tế chính trị học là môn khoa học xã hội nghiên cứu những cơ sở kinh tế chung củađời sống xã hội tức là các quan hệ kinh tế trong những giai đoạn nhất định của xã hội loài người.[31]

Xã hội chính trịSửa đổi

Địa chính trịSửa đổiBài chi tiết: Địa chính trị

Địa chính trị (tiếng Anh: Geo-politics) là lĩnh vực nghiên cứu về tác động của các yếu tố địa lý tới hành vi của các quốc gia và quan hệ quốc tế. Cụ thể, địa chính trị xem xét việc các yếu tố như vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, dân số, hay địa hình tác động như thế nào tới chính sách đối ngoại của một quốc gia và vị thế của quốc gia đó trong hệ thống quốc tế.[32]

Tham nhũng chính trịSửa đổi

Tham nhũng chính trịlà việc sử dụng quyền lực của các quan chức chính phủ vì lợi ích cá nhân bất hợp pháp.Hành vi bất hợp pháp của một chủ văn phòng chỉ là tham nhũng chính trị chỉ khi hành động đó liên quan trực tiếp đến các nghĩa vụ chính thức của họ, được thực hiện theo luậtmàu sắchoặc liên quan đến việcbuôn bán ảnh hưởng[33]

Các hình thứctham nhũngkhác nhau, bao gồmhối lộ,tống tiền,chủ nghĩađịa phương,bảo trợ,ảnh hưởng đến việc bán rong vàbiển thủ.Tham nhũng có thể tạo điều kiện chocác doanh nghiệp hình sựnhưbuôn lậu ma túy,rửa tiềnvàbuôn bán người, mặc dù không hạn chế trong các hoạt động này.Sử dụng saiquyềnlựccủachính phủcho các mục đích khác, nhưđàn ápcác đối thủ chính trị vàtàn bạo của cảnh sátnói chung.[34]

Các hoạt động tạo thành sự tham nhũng bất hợp pháp khác nhau tùy thuộc vào quốc gia hoặc thẩm quyền.Ví dụ, một số thực tiễn về chính sách tài chính hợp pháp tại một nơi có thể là bất hợp pháp ở một nơi khác.Trong một số trường hợp, các quan chức chính phủ có quyền hạn rộng hoặc không rõ ràng, làm cho việc phân biệt giữa các hành động pháp lý và bất hợp pháp rất khó khăn.Trên toàn cầu, hối lộ ước tính khoảng hơn 1 nghìn tỷ đô la Mỹ mỗi năm.Một quốc gia tham nhũng chính trị tự do được biết đến như mộtnhà kleptocracy, nghĩa đen là "cai trị bởi kẻ trộm". Một số hình thức tham nhũng - hiện nay được gọi là "tham nhũng về thể chế"- được phân biệt với hối lộ và các loại lợi ích cá nhân rõ rệt khác.Một vấn đề tương tự về tham nhũng phát sinh trong bất kỳ tổ chức nào phụ thuộc vào sự hỗ trợ tài chính từ những người có quyền lợi có thể mâu thuẫn với mục đích chính của tổ chức.[34]

Chính trị toàn cầuSửa đổi

Chính trị toàn cầuđặt tên cho cả hai lĩnh vực nghiên cứu các mô hình chính trị và kinh tế của thế giới và lĩnh vực đang được nghiên cứu.Trọng tâm của lĩnh vực đó là các quá trìnhtoàn cầu hoá chính trịkhác nhauliên quan đến vấn đề quyền lực xã hội. Các ngành học nghiên cứu các mối quan hệ giữa các thành phố,quốc gia-quốc gia, vỏ-các quốc gia,các tập đoàn đa quốc gia,các tổ chức phi chính phủvàcác tổ chức quốc tế.khu vực hiện tại của cuộc thảo luận bao gồm quốc gia vàdân tộcquy định mâu thuẫn,dân chủvà chính trị của quốc giatự quyết,toàn cầu hóavà mối quan hệ của mình để nghiên cứu chế độ dân chủ, xung đột và hòa bình,chính trị so sánh,kinh tế chính trị, vàkinh tế chính trị quốc tếvề môi trường.Một lĩnh vực quan trọng của chính trị toàn cầu là cuộc tranh luận trong lĩnh vực chính trị toàn cầu về tính hợp pháp. Có thể lập luận rằng, chính trị toàn cầu nên được phân biệt với lĩnh vựcchính trị quốc tế, nhằm tìm hiểu mối quan hệ chính trị giữa các quốc gia, và do đó có một phạm vi hẹp hơn.Tương tự,quan hệ quốc tếnhằm tìm hiểu mối quan hệ kinh tế và chính trị chung giữa các quốc gia, là một lĩnh vực hẹp hơn chính trị toàn cầu.[35]

Thủ lĩnh chính trịSửa đổi

Thủ lĩnh chính trị là một cá nhân kiệt xuất tronglĩnh vực chính trị, xuất hiện và trưởng thành từ phong tràocách mạng của quần chúng ở những điều kiện lịch sử nhấtđịnh, có sự giác ngộ về lợi ích, mục tiêu và lý tưởng của giaicấp, có tri thức, có năng lực tổ chức và tập hợp quần chúngđể giải quyết những nhiệm vụ chính trị do lịch sử đặt ra.[36] Một số thủ lĩnh chính trị nổi tiếng nhưː Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lãnh tụ Cuba Fidel Castro, Chủ tịch Mao Trạch Đông

  • Về trình độ hiểu biết: Người thủ lĩnh chính trịnhất thiết phải là người thông minh, hiểu biết sâu rộng các lĩnhvực; có tư duy khoa học; nắm vững được quy luật phát triểntheo hướng vận động của quá trình chính trị; có khả năng dựđoán được tình hình; làm chủ được khoa học và công nghệ lãnhđạo, quản lý.[36]
  • Về phẩm chất chính trị: thủ lĩnh chính trị phảilà người giác ngộ lợi ích giai cấp; đại diện tiêu biểu cho lợiích giai cấp; trung thành với mục tiêu lý tưởng đã chọn;dũng cảm đấu tranh bảo vệ lợi ích giai cấp, có bản lĩnhchính trị vững vàng trước những diễn biến phức tạp của lịchsử.[36]
  • Về năng lực tổ chức: thủ lĩnh chính trị là ngướicó khả năng về công tác tổ chức, nghĩa là biết đề ra mục tiêuđúng; phân công nhiệm vụ đúng chức năng cho cấp dưới vàcho từng người; biết tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị;có khả năng động viên, cổ vũ, khích lệ mọi người hoạtđộng; có khả năng kiểm soát, kiểm tra công việc.[36]
  • Về đạo đức, tác phong: thủ lĩnh chính trị phảilà người có tính trung thực, công bằng không tham lam, vụlợi; cởi mở và cương quyết; có lối sống giản dị; có khả nănggiao tiếp và có quan hệ tốt với mọi người; biết lắng nghe ýkiến của người khác; có lòng tin vào chính bản thân mình;có khả năng tự kiểm tra bản thân, khả năng giữ gìn và bảovệ ý kiến của mình; có lòng say mê công việc và lòng tinvào cấp dưới.[36]
  • Về khả năng làm việc: có sức khỏe tốt, khảnăng làm việc với cường độ cao, có khả năng giải quyết vấnđề một cách sáng tạo, những lúc phong trào lâm vào khókhăn, thủ lĩnh chính trị có thể đưa ra được những quyết đinh sáng suốt; nhạy cảm và năng động; biết cảm nhận cái mới vàđấu tranh vì cái mới.[36]

Quyền lực chính trịSửa đổi

  • Xem thêmː Tam quyền phân lập

Quyền lực là sức mạnh để thực hiện hành vi tácđộng đến người khác thông qua sự thừa nhận của họ.Quyền lực là năng lực buộc người khác phải thực hiện ýchí của mình.Quyền lực là một quan hệ xã hội đặc biệt, xuất hiện khicó sự chỉ huy - phục tùng của một người hay một nhómngười đối với một người hay một nhóm người khác. Nếuchỉ có chủ thể quyền lực mà không có đối tượng chịu sự tácđộng của quyền lực thì quyền lực đó là rỗng không[37]

Quyền lực chính trị làquyền sử dụng sức mạnh của một hay liên minh giai cấp,tập đoàn xã hội để đạt mục đích thống trị xã hội, thoảmãn lợi ích giai cấp mình. Đặc điểm của quyền lực chính trị là quyền lực xã hội nhằm để giải quyết lợi ích giaicấp, lợi ích quốc gia, nhân loại;là khả năng áp đặt và thực thi các giải pháp phânbổ giá trị có lợi cho một giai cấp;là sức mạnh bạo lực có tổ chức của một giai cấp đểtrấn áp giai cấp khác.[37]

Đấu tranh chính trịSửa đổi

Đấu tranh chính trịlà việc sử dụng các phương tiện chính trị buộc một đối thủ phải làm theo ý muốn, dựa trên ý định thù địch.Thuật ngữ chính trị mô tả tương tác được tính toán giữa chính phủ và đối tượng mục tiêu bao gồm cả số dân của chính phủ, quân đội hoặc tổng dân số của một quốc gia khác.Các chính phủ sử dụng nhiều kỹ thuật để ép buộc các hành động nhất định, qua đó đạt được lợi thế tương đối so với đối thủ.Các kỹ thuật bao gồmcáchoạt độngtuyên truyềnvàtâm lý, phục vụ mục tiêu quốc gia và quân sự tương ứng.Tuyên truyền có nhiều khía cạnh và một mục đích chính trị thù địch và cưỡng chế.Các hoạt động tâm lý là dành cho các mục tiêu chiến lược và chiến thuật quân sự và có thể được dành cho các nhóm quân đội và dân sự thù địch[38]

Mục tiêu cuối cùng của đấu tranh chính trị là thay đổi quan điểm và hành động của đối phương nhằm ủng hộ lợi ích của một quốc gia mà không sử dụng quyền lực quân sự.Kiểu thuyết phục hoặc ép buộc có tổ chức này cũng có mục đích thực tế để cứu mạng sống bằng cách tránh sử dụng bạo lực nhằm mục đích chính trị hơn nữa.Do đó, chiến tranh chính trị cũng liên quan đến "nghệ thuật làm bạn bè nồng nhiệt và làm phiền kẻ thù, giúp đỡ vì một người gây ra và từ bỏ kẻ thù"[39]

Phong trào chính trịSửa đổi

Phong trào chính trịlà mộtnhóm xã hộihoạt động, hành động cùng nhau để đạt đượcmục tiêuchính trị,trên phạm vi địa phương, khu vực, quốc gia hoặc quốc tế.Cácphong tràochính trịphát triển,điều phối,ban hành,sửa đổi,diễn giảivàsản xuất các tài liệunhằm mục đích giải quyết các mục tiêu nhất định nào đó.Một phong trào xã hộitrong lĩnh vựcchính trịcó thể được tổ chức xung quanh một vấn đề hoặc tập hợp các vấn đề hoặc xung quanh một tập hợp các mối quan tâm chung của mộtnhóm xã hội.Trong mộtđảng chính trị, mộttổ chức chính trịcố gắng gây ảnh hưởng hoặc kiểm soátchính sách của chính phủ, thường bằng cách chỉ định ứng cử viên của họ và ứng cử viên vào các vị trí chính trị và chính phủ.Ngoài ra, các bên tham gia vàocác chiến dịch bầu cửvà tiếp cận giáo dục, kháng nghị những hành động nhằm thuyết phục công dân hoặc các chính phủ phải có hành động về các vấn đề và mối quan tâm đó là trọng tâm của phong trào.[40]

Kinh tế chính trịSửa đổi

Bài chi tiết: Kinh tế chính trị

Kinh tế chính trị là các quá trình và hiện tượng trong đờisống kinh tế, chính trị và xã hội, bản chất, quy luật chi phối sự vận động của các quá trình, hiệntượng kinh tế khách quan vận dụng vào các hoạt động kinh tế để đạt hiệu quả kinhtế cao trên cơ sở phân tích quá trình, hiện tượng,dự báo. Kinh tế chính trị không dựa vào đơn thuần tiến trình lịch sử, mô tả đơn thuần các sự kiệnlịch sử mà căn cứ vào tiến trình lịch sử phát triển của các quan hệ sản xuất, dùng phương pháp tưduy và lý luận lôgic để vạch ra những quy luật kinh tế chi phối sự vận động của mỗi phương thứcsản xuất. Kinh tế chính trị không chỉ dừng lại ở tiếp cận các sự kiện màphải thâm nhập vào bản thân đời sống kinh tế xã hội, chỉ ra các phương pháp vận dụng lý thuyếtkinh tế vào đời sống thực tế.[31]

Ngoài ra, Kinh tế chính trị là ngành nghiên cứu những quan hệ sản xuất của con người trongmối liên hệ qua lại với lực lượng sản xuất, với kiến trúc thượng tầng. Nó đi sâu vạch rõ bản chấtcủa các hiện tượng và quá trình kinh tế để rút ra quy luật chi phối sản xuất, phân phối, trao đối,tiêu dùng, tức là rút ra các quy luật kinh tế của sự vận động xã hội. Đối tượng của kinh tế chính trị là nghiên cứu một cách toàn diện, tổnghợp về các quan hệ sản xuất.[31]

  • Chủ nghĩa trọng thương: đối tượng là lĩnh vực lưu thông, chủ yếu là ngoại thương.[31]
  • Chủ nghĩa trọng nông: đối tượng là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.[31]
  • Kinh tế chính trị tư sảnː những quy luật kinh tế songcho rằng chủ nghĩa tư bản là tuyệt đối, vĩnh viễn, không nhìn thấy toàn bộ quy luật vận động vàphát triển xã hội.[31]
  • Kinh tế chính trị hiện đại. Tập trung vào kinh tế thuần tuý, tách kinh tế khỏi chính trị, che đậyquan hệ sản xuất và mâu thuẫn giai cấp.[31]

Văn hóa chính trịSửa đổi

Văn hóa là toàn bộ các giá trị vậtchất và tinh thần do con người sáng tạo ra hoặc tác động vàonhằm phục vụ mục đích cuộc sống con người.[41]

Văn hóachính trị là một lĩnh vực, một biểu hiện đặc biệt của văn hóacủa loài người trong xã hội có giai cấp, văn hóa chính trịđược hiểu là trình độ phát triển của con người thể hiện ởtrình độ hiểu biết về chính trị, trình độ tổ chức hệ thống tổchức quyền lực theo một chuẩn giá trị xã hội nhất định nhằm điều hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và bảo vệ lợiích của giai cấp cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển vàtiến bộ xã hội.[41]

Sẽ là rất khó nếu có thể liệt kê tất cả các các giá trị,chuẩn mực của văn hoá chính trị. Nhưng trong tất cả cáckiểu, các hình thức văn hoá chính trị, có thể xem xét các hệgiá trị cấu thành một nền văn hoá chính trị như sauː trình độ giác ngộ lý luận chính trị, lậptrường, quan điểm của giai cấp. Hệ thống các giá, trị chuẩn mực phù hợp với lợiích của giai cấp được cụ thể hoá dưới dạng các quy phạmpháp luật, có chức năng điều chỉnh hành vi của toàn xã hội. Tập hợp những giá trị được quy phạm hoá thànhnhững chuẩn mực có chức năng điều chỉnh các chủ thể thamgia vào đời sống chính trị[41]

Nhân vật chính trịSửa đổi

Chính khách hay Nhà Chính trị hay Chính trị gia là một người hoạt động tích cực trongĐảngchính trịhoặc một người giữ hoặc tìm kiếm vị trí trong Chính phủ.Ở các quốc gia dân chủ, các chính trị gia tìm kiếm các vị trí tự chọn trong chính phủ thông qua bầu cử hoặc, đôi khi, bổ nhiệm tạm thời để thay thế các chính trị gia đã chết, từ chức hoặc đã bị bãi nhiệm.Tại các quốc gia phi dân chủ, họ sử dụng các phương tiện khác để đạt được quyền lực thông qua cuộc hẹn, hối lộ, cuộc cách mạng và mưu đồ.Một số chính trị gia cũng có kinh nghiệm trong nghệ thuật hoặc khoa học. Các nhà chính trị đề xuất,hỗ trợ và tạo ra các luật lệ hoặc chính sách chi phối đất đai. Nói chung, một "nhà chính trị" có thể là bất cứ ai đang tìm cách đạt được quyền lực chính trịở bất kỳcơ quan hành chínhnào. Chính khách của bất cứ quốc gia nào cũng phải biết diễn thuyết nghĩa là hùng biện, có ngữ điệu, diễn giải có logic, nói đúng, rõ ràng bản chất sự việc, nguyên nhân các vấn đề và các giải pháp khắc phục. Chính khách là một nghề nên rất chuyên nghiệp do đó họ rất giữ danh giá, gắn bó với cộng đồng (đối tượng mà họ kiếm phiếu). Chính trị chính là sản phẩm của chính khách.[42]

Học giả chính trị là người chuyên nghiên cứu, tìm hiểu sâu, chi tiết về lĩnh vực chính trị. Đó là những người tự học, thường xuyên, không mệt mỏi và có phương pháp tiếp cận tốt đối với lĩnh vực chính trị. Các học giả chính trị thường có ảnh hưởng, đóng góp, cống hiến quan trọng trong lĩnh vực chính trị thường có các giải thưởng cao quý hoặc được vinh danh ở cấp độ quốc gia hoặc quốc tế. Các côngtrình nghiên cứu của họ có tầm ảnh hưởng quan trọng trong lĩnh vực giáo dục cao cấp, ảnh hưởng đến một số trường đại học. Ngoài ra các học giả chính trị cũng là một giáo sư đại học, nhà văn chính trị, nhà phê bình chính trị, phóng viên chính trị hoặc giữ các chức vụ quan trọng trong các trường đào tạo về chính trị.[43]

Xem thêmSửa đổi

  • Đề cương chính trị
  • Chính trị học

Tham khảoSửa đổi

Tài liệu Tiếng ViệtSửa đổi

  • Chính trị học Đại cương, Trường Đại học Khoa học thuộc Đại học Thái Nguyên, Bùi Trọng Tài, Lê Văn Cảnh, 2011.
  • Bộ giáo dục và Đào tạo. Giáo trình Triết học Mác -Lênnin(Dùng trong các trường Cao đẳng, Đại học). Nhà xuất bảnChính trị quốc gia. Hà Nội, 2004
  • Phạm Tất Dong - Lê Ngọc Hùng. Xã hội học. Nhà xuất bảnThế giới. Hà Nội, 2008
  • Trần Thái Dương. Hỏi đáp những tri thức cơbản môn lý luận Nhà nước và pháp luật. Nhà xuất bản Tư pháp. HàNội, 2004.
  • Bùi Xuân Đính. Nhà nước và pháp luật thời Phongkiến Việt Nam- những suy ngẫm. Nhà xuất bản Tư pháp. Hà Nội,2005.
  • TS. Đinh Văn Mậu - TS. Phạm Hồng Thái: Lý luậnchung về nhà nước và pháp luật. Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Nai,Biên Hoà, 2005.
  • Nguyễn Hữu Khiển, Đinh Văn Mậu, Phạm Bính, Giáo Trình Chính trị HọcNhà xuất bản Đại Học Quốc gia 2003
  • PGS. TS Thái Vĩnh Thắng- PGS. TS Nguyễn ĐăngDung - Nguyễn Chu Dương. Thể chế chính trị các nướcchâu Âu. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 2008.
  • Trung tâm Nghiên cứu xuất bản sách và tạp chí.-Trương Thìn. Hương ước xưa và quy ước làng văn hoá ngàynay. Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội, 2005
  • Nguyễn Trọng Luật.Tập bài giảng chính trị họcđại cương. Tài liệu lưu hành nội bộ
  • GS.TS Dương Xuân Ngọc - TS. Lưu Văn An. Tìm hiểumôn chính trị học dưới dạng hỏi và đáp. Nhà xuất bản Lý luận chínhtrị. Hà Nội, 2007.
  • Lê Hồng Lôi (Lê Quốc Khánh, Trần Thị Thuý Ngọcdich). Đạo của Quản lý. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, HàNội, 2004.
  • Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trìnhQuốc gia các Bộ môn khoa học Mác- Lênin, Tư tưởng HCM. Giáo trình Triết học Mác - Lênin. Nhà xuất bản Chính trị Quốcgia. Hà Nội, 2008.
  • Bộ giáo dục và đào tạo. Chính trị (Dùng trong cáctrường trung học chuyên nghiệp). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. HàNội, 2002.
  • Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều lệ Đảng cộng sản ViệtNam. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 2009.
  • PGS.TS Nguyễn Hữu Khiển. Phân tích triết học nhữngvấn đề cơ bản về chính trị và khoa học chính trị. Nhà xuất bản Lý luậnchính trị, Hà Nội, 2006.
  • Trung tâm Khoa học và nhân văn quốc gia.Việnnghiên cứu tôn giáo. GS.TS Đỗ Quang Hưng. Bước đầu tìmhiểu về mối quan hệ giữa Nhà nước và giáo hội. Nhà xuất bản Tôngiáo. Hà Nội, 2003

Tài liệu Tiếng AnhSửa đổi

  • Connolly, William (1981). Appearance and Reality in Politics. Cambridge: Cambridge University Press.
  • James, Paul; Soguk, Nevzat (2014). Globalization and Politics, Vol. 1: Global Political and Legal Governance. Luân Đôn: Sage Publications. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2016.
  • Ryan, Alan: On Politics: A History of Political Thought from Herodotus to the Present. Luân Đôn: Allen Lane, 2012. ISBN 978-0-713-99364-6

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ Theo định nghĩa của Từ điển Bách Khoa Việt Nam. Nguyên văn: "CHÍNH TRỊ: toàn bộ những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước".
  2. ^ Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 5.
  3. ^ a ă â b c d đ Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 6
  4. ^ Andrew Heywood, Politics (third edition), Palgrave Macmillan, New York, 2007
  5. ^ a ă â Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 7
  6. ^ a ă â b Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 9
  7. ^ Waal, Frans de, (1948-...)., Auteur. (2007). Chimpanzee politics power and sex among apes. Johns Hopkins University Press. ISBN978-0-8018-8656-0. OCLC493546705.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  8. ^ Fukuyama, Francis. (2012). The origins of political order: from prehuman times to the French Revolution. Farrar, Straus and Giroux. tr.56. ISBN978-0-374-53322-9. OCLC1082411117.
  9. ^ Spencer, Charles S.; Redmond, Elsa M. (ngày 15 tháng 9 năm 2004). Primary State Formation in Mesoamerica. Annual Review of Anthropology. 33 (1): 173199. doi:10.1146/annurev.anthro.33.070203.143823. ISSN0084-6570.
  10. ^ a ă â Carneiro, Robert L. (ngày 21 tháng 8 năm 1970). A Theory of the Origin of the State: Traditional theories of state origins are considered and rejected in favor of a new ecological hypothesis. Science (bằng tiếng Anh). 169 (3947): 733738. doi:10.1126/science.169.3947.733. ISSN0036-8075. PMID17820299.
  11. ^ Origins of the state: the anthropology of political evolution. Internet Archive. Philadelphia: Institute for the Study of Human Issues. 1978. tr.30.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  12. ^ a ă â b c d đ Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 10
  13. ^ Confucius on Politics at the Stanford Encyclopedia of Philosophy
  14. ^ Lunyu 12.11, The Analects of Confucius (available in English here)
  15. ^ p113, Plato, The Republic, translated by Desmond Lee, 1955, Penguin Classics, ISBN 0-14-044914-0
  16. ^ Aristotle's Politics at The Internet Encyclopedia of Philosophy
  17. ^ a ă Aristotle's views on politics at the Stanford Encyclopedia of Philosophy
  18. ^ Machiavelli's The Prince at the Stanford Encyclopedia of Philosophy
  19. ^ Machiavelli, Niccolò, The Prince, Editor's Introduction by Angelo Codevilla, page xvii. Yale University Press, 1997.
  20. ^ Niccolo Machiavelli at the Stanford Encyclopedia of Philosophy
  21. ^ p11, Tansey, Stephen J., Politics: The Basics, 1995, Luân Đôn, ISBN 0-145-19199-8
  22. ^ a ă Social and Political Philosophy of John Stuart Mill at the Stanford Encyclopedia of Philosophy
  23. ^ p229, Mill, John Stuart, On Liberty, ISBN 1-59986-973-X (also available online here Lưu trữ 2009-02-12 tại Wayback Machine
  24. ^ Karl Marx at the Stanford Encyclopedia of Philosophy
  25. ^ Marx, K. & Engels, F. (1848), The Communist Manifesto
  26. ^ The Strange Afterlife of Cornelius Castoriadis by Scott McLemee, Chronicle of Higher Education, 26 tháng 3 năm 2004.
  27. ^ a ă â Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 52
  28. ^ a ă â Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 39
  29. ^ a ă Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 11
  30. ^ Bentley, Peter, Arnold Rose,Talcott Parsons, and Neil Smelser. "Political Sociological Theories:Theories of the State and Power." 16 Jan. 2003. Web. 28 Sept 2009
  31. ^ a ă â b c d đ Kinh tếChính trịMácLenin(in lần thứ hai có sửa chữa, bổ sung), Vũ Anh Tuấn, Phạm Quang Phân, Tô Đức Hạnh, Nhà xuất bản Tổng hợp,thành phố Hồ Chí Minh, năm2007
  32. ^ Địa chính trị (Geopolitics), Lê Hồng Hiệp, nghiencuuquocte.net
  33. ^ Dalberg-Acton, John (Lord Acton). Letter to Bishop Mandell Creighton, ngày 5 tháng 4 năm 1887. Published in Historical Essays and Studies, edited by J. N. Figgis and R. V. Laurence (Luân Đôn: Macmillan, 1907)
  34. ^ a ă Political Coruption Law & Definition. USLegal. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2016.
  35. ^ Globalization and Politics, Vol. 2: Global Social Movements and Global Civil Society (2014).
  36. ^ a ă â b c d Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 70
  37. ^ a ă Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 32
  38. ^ Smith, Paul A., On Political War (Washington: National Defense University Press, 1989), p. 7
  39. ^ Codevilla, Angelo and Paul Seabury, War: Ends and Means (Washington, DC: Potomac Books, Inc., 2006), p. 151.
  40. ^ George, Susan (2001-10-18).Một phong trào mới cho chính trị mới ".Viện xuyên quốc gia.
  41. ^ a ă â Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 60
  42. ^ Chính khách và chính trị.
  43. ^ Học giả là học thật.