So sánh cái đẹp trong nghệ thuật và cái đẹp trong tự nhiên

CÁI ĐẸP TRONG NGHỆ THUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [391.4 KB, 22 trang ]

CÁI ĐẸP TRONG NGHỆ THUẬT
--------------------
A.PHẦN MỞ ĐẦU
I.Lý do chọn đề tài
Mỹ học là bộ môn khoa học có tính lý thuyết hay nói cách khác là thuần lý
luận.Mỹ học trang bị thật nhiều thứ về cái đẹp,cái bi,cái hài,cái cao cả,chủ thể thẩm
mỹ,khách thể thẩm mĩ cho sinh viên mỹ thuật.Và trong hệ thống kiến thức ấy tôi
đặc biệt hứng thú với mặt nhận thức và thưởng thức cái đẹp trong nghệ thuật.
Nhu cầu thưởng thức cái đẹp luôn thường trực trong ý thức con người cho
dù là lúc lao động hay vui chơi,lúc học tâp cũng như khi giải trí,trong gia đình và
trong cả đời sống xã hội.Bởi đó là thước đo chuẩn mực và là cái chân,cái thiện,cái
mĩ.
Khác với cái đẹp khác quan tồn tại ngoài cuộc sống,cái đẹp trong nghệ thuật là một
sản phẩm đặc biệt do nghệ sĩ sáng tạo ra nhưng hai vấn đề đó không hề đối lập
nhau mà nghệ thuật chính là sự phản ánh của cuộc sống.
Tìm và hiểu cái đẹp trong nghệ thuật sẽ bồi duwongx cho chúng ta những
cảm quan về mọi sự vật hiện tượng ngoài tự nhiên và xã hội,giúp mỗi con người
sống đẹp và sâu sắc hơn.
II.Đối tượng nghiên cứu
1.Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận được xác định trong việc phân tích và
đánh giá các chuẩn mực và bản chất của cái đẹp,mối quan hệ giữa cái đẹp trong tự
nhiên,xã hội và nghệ thuật.
Đưa ra phân tích quan điểm về cái đẹp,các tác phẩm tiêu biểu của 1 số danh
họa nổi tiếng
2.Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cái đẹp trong nghệ thuật nhằm nâng cao vốn hiểu biết về bản
thân.Biết cảm thụ cái đẹp tích cực và say mê cái đẹp sâu và bền vững vân dụng các
kiến thức đó vào sáng tác,học tập và cuộc sống thông qua đó khám phá,định hướng
và vững tin trên con đường nghệ thuật của mình
3.Phương pháp nghiên cứu


-Điều tra,khảo sát và thu thập tổng hợp thông tin về các tác giả,tác phẩm của
1 số họa sĩ liên quan tới đề tài.
-So sánh,phân tích,tổng hợp các vấn đề đã được rút ra trên cơ sở các nguồn tư
liệu.
I,Cái đẹp là gì?một số quan niệm tiêu biểu
1.Cái đẹp là gì?
Về mặt lịch sử,từ xưa tới nay,quan niệm về cái đẹp được bàn luận rất
nhiều,song chưa đi đến một quan điểm thống nhất.Nhờ vào quá trình lao động cải
tạo tự nhiên,cải tạo bản thân con người dần phát hiện và nhận thức ra quy luật phổ
biến của cái đẹp
Khi con người đối chiếu,so sánh,nhận xét rằng:xấu thì con người đã nhận thức
ra cái đẹp và dùng từ cái đẹp để chỉ bất cứ điều gì dấy lên ở con người những xúc
cảm và những cảm hứng tốt đẹp.Quá trình tìm tòi về cái đẹp,trừu tượng.tựu chung
thường xoay quanh hai câu hỏi cơ bản:cái đẹp là gì? Và cái gì là đẹp?Hai câu hỏi
đó dương như đơn giản nhưng thật khó trả lời.
1.1.Theo các nhà mỹ học Hy Lạp cổ đại.
Họ đi tìm các thuộc tính các phẩm chất cơ bản của cái đẹp dựa vào đặc tính
tự nhiên của sự vật để vạch ra những thuộc tính và những phẩm chất của cái đẹp.
Các nhà mỹ học duy vật Đemecsets,Aritstop đều cho rằng cái đẹp có thuộc
tính hài hòa cân đối,hoàn thiện hoàn mĩ,mặt khác lại cho rằng khi chúng ta bước
theo thần jupiter trong tiếng nhạc hòa tấu của thiên đình,lúc đó cái đẹp mới ánh
lên.Còn cái đẹp của hạ giới chỉ là cái bóng của ý niệm.
1.2.Thời kỳ trung cổ phong kiến
Họ cho rằng cuộc đời chỉ là ngọn nến leo lét trước gió mạnh,là con thuyền
mong manh trước cơn sóng dữ.Trên đời này không có cái đẹp và khuyên con người
cam phận,sớm tối cầu kinh sám hối.Như vậy cái đẹp bị kéo lên chín tầng mây
1.3.Thời kỳ phục hưng
Khi con người chế ra máy hơi nước và xếp cối xay gió vào viện bảo tàng.Họ
đồng loạt nhận ra mọi triết lý là lừa dối và phải xem lại giá trị của cái đẹp.Họ thay
những bức tranh cổ với bộ mặt khắc khổ trong nhà thở bằng những bức tranh lồ lộ

những cảm xúc say mê vẻ đẹp của cuộc sống đến ngây ngất.
1.4.Thời khai sáng
Các nhà mỹ học khai sáng cho rằng vẻ đẹp trong sáng,hài hòa,hồn nhiên là vẻ
đẹp lý tưởng của con người.Đirođo viết:chỉ những cái đẹp nào dựa trên sự liên hệ
với những tạo vật của thiên nhiên thì mới sống lâu.Như vậy xuất phát từ quan điểm
duy vật tiến bộ các nhà mỹ học thời kỳ này đã thừ nhận mọi cãm xúc trong đó có
cảm xúc về cái đẹp đều có mối quan hệ ngoài giới.”Nếu chúng ta xem xét những
mối quan hệ trong nếp sống, chúng ta sẽ thấy những vẻ đẹp đức hạnh. Nhưng khi
chúng ta xem xét những mối quan hệ trong tác phẩm văn học và nghệ thuật chúng
ta sẽ tìm cái đẹp thẩm mỹ. Song nếu chúng ta xem xét vẻ đẹp của tự nhiên và
những tác phẩm phản ánh chúng ta sẽ thấy sự bắt trước khéo léo đem lại.
Hạn chế thời kỳ này của các nhà mỹ học khai sáng là ở chất siêu hình ở các
luận điểm. Bởi họ chưa vạch ra được bản chất duy nhất của cái đẹp ngay trong
hình thái biểu hiện đa dạng.
1.5.Quan điểm về mỹ học của các nhà mỹ học cổ điển [giữa thế kỷ XVII đến giữa
thế kỷ XX].
a.Quan điểm của các nhà mỹ học cổ điển Đức
Càng về cuối thế kỷ XVII, mỹ học càng xa rời lý tưởng nhân văn Phục
Hưng, tách khỏi lý tưởng duy vật chiến đấu thời khai sáng.
Kant[1724-1804] đề xuất ra tư tưởng mỹ học của cái tôi chính vì vậy ông
thừa nhận cái đẹp khách quan “Không có khoa học về cái đẹp, chỉ có sự phán đoán
về cái đẹp mà thôi”
Highen[1770-1831] khác hẳn với Kant, ông thừa nhận cái đẹp tồn tại trong
tự nhiên nhưng cái đẹp trong nghệ thuật còn cao hon cái đẹp trong tự nhiên.
b.Quan điểm của các nà mỹ học dân chủ Nga
Quan điểm của các nhà mỹ học dân chủ cách mạng Nga đặt cơ sở cho quan
niệm về cái đẹp của củ nghĩa hiện thực Biêlinxki, Tsecnưsepxki, Đôbrôeliubôp đều
cho rằng :”Cái đẹp trong nghệ thuật là sự phản ánh cái đẹp ngoài đời”.Cả mỹ thuật
và nghệ thuật Nga đều đánh giá cao vai trò của lý tưởng.Tuy nhiên hạn chế là dừng
lại ở tư tưởng cách mạng nông dân.

c.Quan điểm triết học phương đông cổ đại
-Nho giáo:”Mỹ” gắn với “Thiện”,cái đẹp có trong mọi người,cái đẹp của con
ngượi là sự tu dưỡng đạo đức,học tập,làm cho tính ác đi vào quỹ đạo của tính
thiện.Khổng tử và Mạnh Tử đều thấy cái đẹp gắn liền với cái thiện.
-Đạo giáo:Cái đẹp của đạo chân chính là không đầy,không vơi,không
thành,không mất,không giới hạn của chủ thể.Cho nên Đạo giáo chủ trương cái đẹp
tự nhiên:”Như hoa phù hợp dung mới như”
-Đạo phật:Phủ định căn bản hiện thế đi vào cửa không,tìm cái đẹp siêu thoát.
Như vậy Mỹ học khám phá cái đẹp 1 cách toàn diện.Cái đẹp được định nghĩa như
sau:Cái đẹp là phạm trù cơ bản và là trung tâm của mỹ học dùng để chỉ thực tại
khách quan.Thực tại này chúng ta biết được nhờ hệ thống cảm nhận phổ biến có
tính xã hội sâu sắc.Dưới ánh sáng của lý tưởng thẩm mỹ chân chính,hệ thống cảm
nhận thẩm mỹ phản ánh lại thực tại đẹp.Đặc trưng ngôn ngữ của sự phản ánh đó là
nghệ thuật.Cái đẹp bắt nguồn từ cái chân thật,cái tốt,nó tỏa chiếu bằng những rung
động thẩm mỹ có sức cuốn hút giúp cho con người định hướng quy luật theo sự
hoàn thiện hoàn mỹ.Tác động của cái đẹp là mót tác động có tính thanh cao,hài hòa
biện chứng,ở tự thân bên trong tâm hồn con người,bên trong xã hội loài người.
2.Quan Điểm tiêu biểu
Kant triết gia duy tâm chủ quan Đức:”vẻ đẹp không nằm ở trong đôi mái
hồng của người thiếu nữ mà trong đôi mắt của kẻ si tình”.Luận chứng về cái đẹp
Kant phân biệt 2 phương diện phán đoán :phán đoán mỹ cảm và danh lý.Dùng khái
niệm làm cơ sở phán đoán .Điều tiến bộ hơn của Kant so với nhiều nhà mỹ học
khác là ở chỗ ông biết rằng mỹ cảm dựa vào cảm giác chủ quan.Điều mơ hồ của
ông là cho rằng những sự vật có những ddieuf kiện hợp với cơ năng tâm lý thì mới
là đẹp.
bản thân sự vật, tự nhiên đã chứa đựng cái đẹp, cái đẹp tồn tại khách quan không lệ
thuộc. Đẹp cũng vậy, tồn tại và là phẩm chất của tự nhiên.
- Đêmôcrít và Aristots cái đẹp nằm trong bản chất sự vật hiện tượng với các thuộc
tính như : sự cân xứng, hài hòa, trật tự.số lượng...
II. Nghệ thuật là gì?

Ban đầu nghệ thuật chỉ khả năng kĩ thuật cần thiết để tạo nên một đồ vật
hoặc chỉ khả năng thực hiện một hoạt động đã được xác định. Nghệ thuật là nơi tâp
trung cao nhất mối quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Alexander
Baumgarten người Đức dùng từ mỹ học cho lý thuyết về nghệ thuật.
Từ nhiều thế kỷ, nghệ thuật trong mỹ thuật nghĩ là cái gì đó trong mục đích
mỹ học [hay có thể nói là nghiên cứu về thẩm mỹ]. Trong lĩnh vự nghệ thuật thị
giác và tạo hình người ta đề cập vào nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc.
III.Quan điểm biện chứng về cái đẹp và nghệ thuật
Nghệ thuật là nơi cao nhất tập trung mối quan hệ thẩm mĩ của con người đối
với hiện thực. Nói đến nghệ thuật là nói đến cái đẹp. Cái gì không đẹp không thể là
nghệ thuật.
Cái đẹp gắn bó chặt chẽ với nghệ thuật. Nhưng đây là hai phạm trù hoàn
toàn khác nhau.
Cái đẹp là phạm trù chỉ những giá trị thẩm mĩ khắp mọi nơi: trong thiên
nhiên, xã hội và trong nghệ thuật. Cái đẹp tổng thể bao gồm: cái đẹp bên trong và
bên ngoài. Là phạm trù trung tâm và cơ bản của mĩ học. Nguồn gốc cơ sở đánh giá,
có liên quan mật thiết với khái niệm hài hòa. Sự thống nhất biện chứng giữa các
yếu tố tạo nên sự vật, mang lại cảm giác thăng bằng, hoàn thiện.
Nghệ thuật là một hình thái ý thức đặc thù của con người. Nghệ thuật không
chỉ gắn liền với cái đẹp mà còn là nơi gửi gắm tâm sự, suy tưởng về cuộc đời.
Chính vì vậy, nghệ thuật có nhiều chức năng khác nhau: giáo dục , nhận thức,
thông báo, giao tiếp, giải trí, thẩm mỹ...Cái đẹp là một phương diện không thể
thiếu của nghệ thuật.
IV.Cái đẹp trong nghệ thuật với quan hệ trong các phương diện khác.
Theo mỹ học đại cương có nói: cái đẹp trong nghệ thuật là cái đẹp của mọi
cái đẹp[ của cả tự nhiên và xã hội] mà chủ thể nghệ sĩ đã kết tinh lại bằng sáng tạo
độc đáo của mình, đồng thời đem cống hiến trong xã hội cho sự toàn vẹn, hoàn mỹ.
Chính bởi thế cái đẹp nghệ thuật bao gồm cả cái đẹp trong đời sống xã hội và trong
tự nhiên.
1.Cái đẹp nghệ thuật và đời sống xã hội.

Trong thực thể nghệ thuật dường như có tất cả mà cũng như không có rieeng
về mặt nào của đời thật, quan hệ kinh tế xã hội, chính trị, triết học...Đó là một hiện
thực xã hội sống động, chứa đựng biết bao số phận cụ thể có bản chất “Tổng hòa
những mối quan hệ xã hội” rất chung mà cũng rất riêng.Một tác phẩm có giá trị
thẩm mỹ là kết quả cao của sự hòa quyện nhuần nhuyễn 3 yếu tố cơ bản: phản ánh
chân thực cuộc sống xã hội, độc đáo, đặc sắc rất sáng tạo nghệ thuật tình cảm nhân
đạo với ý thức xã hội tiên tiến.Nhu cầu hướng tới cái đẹp của con người luôn luôn
mang tính khẳng định: con người cần phải đẹp cả khuôn mặt, quần áo, cả tư
tưởng[Tsêkhôp], toàn bộ các quan hệ xã hội với những hoạt động cụ thể của chúng
cũng cần phải “theo quy luật của cái đẹp”[Mac].Vì vậy, cái đẹp có quyền tuyệ đối
tồn tại và phát triển
Trước cái đẹp của con người và cuộc sống được mô tả trong tác phẩm nghệ
thuật, tình cảm, thị hiếu phán đoán và lý tưởng thẩm mỹ của công chúng được khơi
nguồn và rộng mở trực tiếp.Vào những khi xã hội lắm, đời người đầy rẫy tang
thương, nhân dân trông đợi ở nghệ sĩ không chỉ phê phán thực trạng tăm tối. Và
những “kết thúc có hậu”, “đại đoàn viên” trong văn chương ta xưa dường như là
một tất yếu nghệ thuật, một nguyên tắc đạo lý nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội-
thẩm mỹ.Nghệ thuật phải hướng vào công chúng , đương nhiên phải miêu tả “cho
hay, cho chân thật, cho hùng hồn” [Hồ Chí Minh].Cái đẹp, cao cả trong tầm vĩ mô
là dừng lại, đào sâu một phạm vi riêng lẻ. Đó là trường hợp văn thơ công xã Pari,
nghệ thuật sôviết trong cách mạng tháng 10 và chiến tranh vệ quốc, nghệ thuật Việt
Nam trong 2 cuộc kháng chiến vừa qua.
Lênin đã nói: nếu tách rời, cô lập cái mới, cái đẹp ra khỏi mối liên hệ môi
trường khách quan thì chúng chỉ là một cái xác không hồn thậm chí một quà tặng
vô duyên với công chúng.Và cũng như tư tưởng khoa học tiên tiến nào, nó là một
cái vốn có của ý thức và phản ánh đúng đắn những chân lý, hiện thực cuộc sống, tư
tưởng khoa học tiên tiến về những quan hệ xã hội. Đối với công chúng, dự cảm
nghệ thuật đem lại chân lý, niềm tin vươn tới cái đẹp, gợi mở và thôi thúc hiện
thực hóa thông qua sự thanh lọc bằng ý thức xã hội của chủ thể thưởng thức.Cái
đẹp trong xã hộ luôn mang tính cụ thể”chịu nhiều sự quy định” rất cụ thể, rất lịch

sử và do đó chúng cũng biến đổi, phát triển chung của toàn xã hội.
Trên tinh thần nghệ thuật hướng tới cái đẹp, cái nhân bản giá trị nhận
thức, cảm hóa thẩm mĩ của nghệ thuật không loại trừ miêu tả cái xấu, cái không
nhân bản.Trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định và do yêu cầu phê phán xã hội
đối với một nghệ sĩ nào đó, cái xấu được phản ánh, mô tả trực tiếp và gần như duy
nhất.Con đường nghệ sĩ tiếp cận cái đẹp trong đời thực và đua nó vào nghệ thuật
quả không phải là đơn giản.Điều đó đòi hỏi tài năng,năng lực toàn diện của người
nghệ sĩ.Vấn đề là ở chỗ công chúng xem nghệ thuật, tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật
không thể chỉ thấy tối sầm mà phải có được ánh sáng để nháy qua bóng tối đi tới
tương cuộc sống cần có.
Tóm lại:
Mỹ học ít bàn đến cái đẹp xã hội nhưng thực tế nó vô cùng quan trọng,bởi
vì cái đẹp xã hội chính là sự trình bày trực tiếp của bản chất cái đẹp.Ở thế kỉ XIX
Courbet đã cho ra đời một bức tranh mang tên “Những người đập đá”-1849.
Những người đập đá
Courbet mô tả:”kia là một ông già 70 tuổi,cắm cúi làm việc,đang vung búa
lên,da sạm nắng,đầu che bằng một cái nón sơn.Còn đây là một người trẻ tuổi đầu
tóc bụi bặm da nâu xam.Ông già quỳ gối,người thanh niên ở sau lưng ông,đứng
thảng ra sức vác một rổ đá, cảnh đó diễn ra dưới trời nắng chang chang,giữa đồng
cạnh một hô bên đường”.Đó đúng là”biểu hiện toàn vẹn của sự khốn khổ” , những
cảm xúc của Courbet không phải là cảm xúc của những kẻ nổi loạn chống lại số
phận đó chút nào , có vẻ như ông dửng dưng.Mọi căm phẫn và xót xa ông bộc lộ
hết qua tác phẩm diễn tả cuộc đời ngang trái.
Đến thời phục hưng Giốt tô[1267-1337] cũng đưa nghệ thuật gắn liền với
cuộc sống.Đó là tác phẩm “Giu đa phản bội chúa”:
Giu Đa phản bội chúa
Tác phẩm thành công ở cách họa sỉ diễn tả sự lộn cộn của đám đông lính
vây quanh chúa,đặc biệt là GiuDa.Trung tâm tranh la hình tương GiuDa đang ôm
chúa với tà áo màu vàng sáng rất được gây chú ý,nhưng dấu tronng đó lại là tâm
hồn xấu xa ,sự phản trắc bằng sự tương phản mang tính hình tượng rất rõ.Hiện thực

cuộc sống đã được đua vào trong tác phẩm này 1 cách rõ ràng nhất.
Lịch sử nghệ thuật đã chứng minh:”Tác phẩm nghệ thuật có chỗ đững
trong dòng chảy thời gian là những tác phẩm nghệ thuật phản ánh được hơi thở
nồng nàn của cuộc sống,nghệ thuật không phải là bản sao của cuộc sống mà nó là
sự sáng tạo, tất cả các tác phẩm nghệ thuật thê hiện cuộc sống một cách diển
hình,chắt lọc, và sáng tạo”.Nghệ thuật được gắn bó với trái tim và tình cảm của
con người một cách máu thịt.Tác phẩm”Tát nước đồng chiêm” của Trần Văn Cẩn
là một ví dụ:
Tát nước đồng chiêm

Cái đẹp là phạm trù mỹ học cơ bản trung tâm

Trong hệ thống các phạm trù mỹ học, cái đẹp vừa là phạm mỹ học cơ bản, vừa là phạm trù mỹ học trung tâm. Bởi vì, đối tượng của mỹ học là đời sống thẩm mỹ của con người. Đời sống thẩm mỹ tuy rất phong phú đa dạng nhưng chủ yếu quay quanh cái đẹp. Cái đẹp là cái phổ biến. Nó có mặt ở khắp nơi: trong tự nhiên, trong xã hội và trong nghệ thuật. Ở đâu có hoạt động của con người ở đấy có cái đẹp: bầu trời đẹp, cành hoa đẹp, cuộc sống đẹp, cái nhà đẹp, chiếc áo đẹp, công việc đẹp, hành động đẹp, tư tưởng đẹp, khuôn mặt đẹp… Mặt khác, cái đẹp là cái thường trực. Từng giờ, từng phút nó luôn có mặt trong ý thức con người. Con người không một phút nào sao nhãng, rời bỏ được cái đẹp. Dù là lúc lao động, lúc vui chơi giải trí, lúc nghiên cứu khoa học; trong sinh hoạt gia đình, ngoài đời sống cộng đồng… Cái đẹp như là thước đo, là chuẩn mực đi kèm liền bên cạnh cái chuẩn mực thước đo khác trong đời sống con người. Không phải ngẫu nhiên mà CHÂN-THIỆN- MỸ ĐI LIỀN VỚI NHAU.

Các phạm trù thẩm mỹ khác: cái xấu, cái cao cả, cái thấp hèn, cái bi, cái hài tuy bản chất thẩm mỹ có khác cái đẹp, nhưng để hiểu được bản chất chúng thì không thể không lấy cái đẹp làm điểm tựa không thể không xem xét nó trong mối liên hệ với cái đẹp. Chẳng hạn, để đánh giá một hiện tượng xấu thì ta phải dựa vào cái đẹp. Cái đối lập với cái đẹp sẽ là cái xấu. Hoặc để xác định cái bi ta cũng dựa vào cái đẹp. Cái bi là sự thất bại, hay cái chết của cái đẹp. Ta cũng dựa vào cái đẹp để xác định cái cao cả. Cái đẹp là lý tưởng gần, còn cái cao cả là lý tưởng cao siêu.

Vậy cái đẹp là gì? thế nào là cái đẹp ? Đây quả là câu hỏi không dễ trả lời chút nào. Có người hỏi Saint Augustin:Thời gian là gì? Augustin trả lời: giá như ngươi đừng hỏi thì ta cơ hồ như hiểu rõ thời gian là gì! Thế nhưng khi người hỏi ta thời gian là gì thì ta lại đâm ra hoang mang. Hỏi cái đẹp là gì thì cũng như hỏi thời gian là gì vậy. Đã 2500 năm nay, các triết gia, các mỹ học gia, không ngớt thay nhau tìm kiếm một sự lý giải thích hợp cho cái đẹp, nhưng cái đẹp là gì thì câu hỏi đến nay vẫn như còn để ngỏ, vẫn như còn vừa mới đặt ra. Điều oái oăm là: cái đẹp là cái phổ biến, là cái thường trực trong cuộc sống con người. Nhưng gương mặt của nó ta lại rất khó nắm bắt, khó xác định.

Cái đẹp nghệ thuật và đời sống xã hội

Vũ Minh Tâm
08:41 CH @ Thứ Năm - 05 Tháng Giêng, 2006

Trong thực thể đẹp nghệ thuật dường như có tất cả mà cũng như không có riêng về một mặt nào của đời thực: quan hệ kinh tế - xã hội, chính trị, triết học, văn hóa, đạo đức, khoa học, nhân cách, lối sống và lời ăn tiếng nói, sự nghiệp vĩ đại và đời thường nhỏ nhặt, thế giới bên trong và mặt cắt bên ngoài, cá nhân và cộng đồng, xưa, nay và mai sau...

Đó là một hiện tượng xã hội sống động, chứa đựng biết bao số phận cụ thể có bản chất “tổng hòa những quan hệ xã hội” rất chung mà cũng rất riêng, rất quen thuộc mà cũng rất mới lạ. Chính thể nghệ thuật là "bản sao" sinh động, toàn vẹn cuộc sống xã hội nhưng đã vượt khỏi nguyên mẫu, lung linh tài năng sáng tạo và thấm đượm "cái tâm” vì con người, vì "người hơn" của quần chúng lao động mà nghệ sĩ là đại diện trung thực. Một tác phẩm có giá trị thẩm mỹ cao là kết quả của sự hòa quyện nhuần nhuyễn ba yếu tố cơ bản: phản ánh chân thực đời sống xã hội, độc đáo, đặc sắc sáng tạo nghệ thuật tình cảm nhân đạo, với ý thức xã hội tiên tiến.

Nhu cầu hướng tới cái đẹp của con người luôn luôn mang tính khẳng định: con người cần phải đẹp "cả khuôn mặt, cả quần áo, cả tư tưởng" [Tsêkhôp], và toàn bộ các quan hệ xã hội với những hoạt động cụ thể của chúng cũng cần phải "theo quy luật của cái đẹp" [Mác].Vì vậy, cái đẹp có quyền tuyệt đối tồn tại phát triển. Cái đẹp là chuẩn mực, thước đo để định giá và định hướng, là lý tưởng thẩm mỹ mang tính phổ biến trong mọi lĩnh vực sống của con người nói riêng, của xã hội nói chung. Chỉ từ cái đẹp người ta mới có thể phủ đinh cái ác, cái giả, cái cũ. Trong nghệ thuật cái đẹp càng hiện ra đầy đặn, rực rỡ càng cơ sức lôi cuốn, cổ vũ, cảm hóa.

Trước cái đẹp của con người và cuộc sống được mô tả trong tác phẩm nghệ thuật, tình cảm, thị hiếu phán đoán và lý tưởng thẩm mỹ của công chúng được khơi nguồn và rộng mở trực tiếp, chính diện và có ảnh hướng rõ ràng. Cảm thụ cái đẹp là cảm thụ đặc biệt tích cực, khoái cảm trước cái đẹp là niềm hân hoan, sự say mê vừa sâu vừa lâu bền. Thật là lạ, các cụ xưa đắng cay trăm nỗi, thế mà vẫn ngâm ngợi bông sen, con cò, cô Tấm, chàng Thạch Sanh, ông Bụt. Vào những khi xã hội lắm đảo điên, đời người đầy rẫy tang thương, nhân dân trông đợi ở nghệ sĩ không chỉ phê phán thực trạng tăm tối, mà chủ yểu là soi tỏ cho họ niềm tin vào sức sống nhân văn. Những "kết thúc có hậu", "đại đoàn viên" trong văn chương ta xưa dường như là một tất yếu nghệ thuật, một nguyên tắc đạo lý nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội - thẩm mỹ, mà nếu thiếu vắng chúng người ta sẽ mất đi chỗ dựa vững chãi trong cuộc đời thực. Ngay cả những nghệ sỉ hiện thực "phê phán nồng nhiệt" vì "nỗi đau về con người" [Dobrôliubôp] cũng trăn trở tìm kiếm "con người tốt tuyệt vời" [Dôxtôiepxki], "con người mới" [Tsecnưsepxki], "niềm tự hào về con người", vì nghệ thuật cần "phù hợp với những đứa con của cách mạng" [Xtăngđan].Chính những nghệ sĩ đó đã tiếp nhận tự giác hay chưa thật tự giác tư tưởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa của quần chúng lao động, tư tưởng cách mạng trong xã hội đương thời. Không phải không từng có sự trùng khớp sóng đôi giữa sự rung chuyển tận gốc rễ xã hội và nghệ thuật sinh ra để đáp ứng yêu cần của sự rung chuyển đó: Đời sống không hiếm kỳ tích được lập nên do quần chúng tự giác, tự nguyện "gạt phăng hết đời tư nhỏ hẹp" để vươn tới thế giới mới đại đồng. Nghệ thuật nếu tựhào vào đám đông, vì đám đông, đương nhiên phải miêu tả "cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn" [Hồ Chí Minh] cái đẹp - anh hùng, cái đẹp - cao cả trong tầm vĩ mô hơn là dừng lại, đào sâu một bộ phận vi mô riêng lẻ. Đó là trường hợp văn thơ công xã Pari, nghệ thuật xô viết trong cách mạng tháng 10 và Chiến tranh vệ quốc, nghệ thuật Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến vừa qua. Khẩu đại bác tương lai bao nhiêu milimet sẽ nhằm vào ta khi hôm nay ta bắn súng lục vào "thứ văn nghệ ngợi ca" đó.

Giờ đây từ công cuộc đổi mới xã hội sâu sắc và toàn diện những nhân tố mới, những kết quả bước đầu quan trọng, những con người của CNXH đích thực đã xuất hiện và nhân lên mạnh mẽ. Quần chúng tin rằng nghệ sĩ và nghệ thuật sẽ đi cùng chiêu và đi trước để ghi nhạn, gây men, dự báo, đinh hướng. Muốn vậy, trước hết, nghệ sĩ phải có con mắt tinh đời nhìn thấy những cái mới mẻ. Nhưng sẽ không đơn giản một chút nào khi nhận thức và phản ánh cái mời, cái đẹp trong xã hội. Nhất là con người ngày nay năng động, cởi mở, nhảy vọt về tất cả mọi phương diện sống của nó, từ hoạt động thực tiễn, lối sống, nhân cách, lời nói đến ý thức, tư tưởng, tâm lý, tình cảm...

Tất nhiên, những thực thể hiện đại đó cũng phức tạp hơn, đa dạng hơn, nhiều ngõ ngách mê cung, nhiều nghịch lý “cái không thể trở thành cái có thể". Ở đây, sự hoạt động của cái đẹp, cái tốt, cái thật, cái mới không đứng ngoài những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của con người và xã hội. Đó chính là sự vận động của mọi cái đang tồn tại, những bước nhảy vọt của sự gián đoạn tính tiệm tiến, sự chuyển hoá thành mặt đối lập, sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới, như Lê nin đã nói. Vì vậy tách rời, cô lập cái mới, cái đẹp, cái tốt ra khỏi mối liên hệ môi trường khách quan quy đinh chúng và cơ thểtự vận động, phát triển chủ quan của chúng thì chúng chỉ là một cái xác thậm chí, một quà tặng vô duyên đối với công chúng. "Tô hồng” cũng có nghĩa là “đánh lừa", dù xuất phát từ ý định thành thật biểu dương, ca ngợi đến mức nào.

Dự cảm, dự báo không phải là độc quyền hay ưu thể tuyệt đối của riêng nghệ thuật. Và cũng như bất cứ tư tưởng khoa học tiên tiến nào, nó là cái vốn có của ý thứcthẩm mỹ chân chính khi nghệ sĩ nhận thức và phản ánh đúng đần nhũng điều trông thấy trong đời sống xã hội và xu hướng biển đổi tất yếu khách quan của nó. Nghệ thuật không chỉ tiên đoán, dự báo về sự nảy sinh, phát triển và chiến thắng của cái mới, cái đẹp mà còn dự đoán quá trình cái cũ, cái xấu sẽ tàn lụi, mất đi dù hôm nay nó đang hoành hành. Tính đi trước của tư tưởng khoa học ở chỗ chỉ ra con đường thực tiễn và cái đích, đi tới của sự phát triển xã hội do nắm bắt được những nhu cầu đã chín muồi của đời sống hiện thực, vì vậy, nó có ý nghĩa lớn lao trong việc hướng dẫn tổ chức và giáo dục quần chúng lao động và các lực lượng tiến bộ giải quyết những nhiệm vụ mới do chính đời sống thực tiễn đề ra. Còn nghệ thuật lại hình tượng hóa dự cảm để bộc lộ cụ thể, sinh động lý tường thẩm mỹ, trong đó cái đẹp cần cósẽ có vai trò trung tâm, hạt nhân hợp lý, tập trung và chi phối toàn bộ dự cảm nghệ thuật. Trong dự cảm này chất tư tưởng khoa học tiên tiến vê những quan hệ xã hội vừa là cơ sở khách quan trực tiếp vừa được hoà tan vào chất thẩm mỹ của cái đẹp được diễn tả. Đối với công chúng, dự cảm nghệ thuật đem lại chân lý, niềm tin của sự vươn tới về cái đẹp, gợi mở và thôi thúc hiện thực hóa nó thông qua sự tự thanh lọc, tự đồng hóa bằng chất men tình cảm vả ý thức xã hội của chủ thể thường thức.

Xét ở góc độ thẩm mỹ, cái đẹp trong nghĩa đầy đủ và sâu sắc nhất của nó dường như là cái cốt lõi của nhân bản, gốc rễ của chất người, bởi vì con người sáng tạo thế giới và sáng tạo mình "theo quy luật của cái đẹp". Những cái đẹp người và cái nhân bản không phải là cái thuần túy trừu tượng, phi xã hội -lịch sử do bản chất hiện thực của con người là một chỉnh thể "tổng hòa mọi quan hệ xã hội". Từ đó, cái đẹp nhân bản không thể không gắn bó chặt chẽ với tất cả những gì tác động qua lại với con người: đời sống kinh tế - xã hội, chỉnh trị, văn hóa, tư tưởng,...của một giai đoạn và thời đại của từng cộng đồng và tập đoàn xã hội nhất định và cả những điều kiện sống riêng của từng cá nhân, cá thể nào đó. Xét cho cùng, cái nhân bản, cái đẹp xã hội luôn mang tính cụ thể “chịu nhiều sự quy định" rất cụ thể, rất lịch sử và do đó chúng cũng biến đổi, phát triển trong sự phát triển chung toàn xã hội. Một xã hội thực sự cố tính loài, có nhân bản chỉ có thể tìm thấy ở xã hội cọng sàn chủ nghĩa với bước đi ban đầu của nó là xã hội chủ nghĩa. Do chính là thế giới của chủ nghĩa nhân đạo, nhân bàn thực sự, của "chủ nghĩa cộng sản” với tính cách là sự xóa bỏ một cách tích cực chếđộ tư hữu nhưlà sự tự tha hóa của conngười, và do đó coi như sự chiếm hữumột cách thực sự bản chấtcon ngườibởi con người và vì con người do đó, coi như việc con người xãhội, nghĩa là có tính chất người - sự quay trở lại này diễn ra một cách có ý thức và có giữ lại tất cả sự phong phú của sự phát triển đã đạt được" [C.Mác]. Prômêtê và Sơn Tinh, Anna Karênina và Thúy Kiều là nhân loại đang đi tìm cái toàn nhân loại trong từng nấc thang nghiệt ngã của sự tiến triển lịch sử - cụ thể. Những Sêchxpia, Huy gô, Bandăc, Lêôna đơ Vanhxi, Bethôven, Tônxtôi, Gôrơki, Nguyễn Du không phải là những nhà nhân đạo chủ nghĩa của thế kỷ XXI, mà là những đại biểu khổng lồ đấu tranh cho lý tưởng nhân bản trong những không gian và thời gian đương đại của họ, và chính vì vậy họ trở thành bất tử, vĩnh hằng trong dòng đời vô tận. Gần đây, người ta đã đội danh "chất người muôn thuở" đứng trên mọi xung đột xã hội để đánh đồng, đánh lộn, xóa sạch những cái vốn có ranh giới rõ ràng và đối lập trong mọi mặt của đời sống hiện thực. Người ta cũng treo biển "xem xét lại số phận và thiên chức con người" để mơn trớn, kích động những cái thấp hèn mà con người đích thực đang loại trừ hoặc co rút vào "bí ẩn vũ trụ riêng" để nhấm nháp, vuốt ve những mành tâm hồn tủn mủn, lạc lõng, thiếu hẳn một giá trị xã hội - thẩm mỹ cần thiết. Rút cục lại tất cả những cái mà người ta mệnh danh là "phát hiện", trở lại mình và "sáng tạo mới" trên đầy thực ra chỉ là sự vơ vào và nhai lại những "của nợ" mả cả lịch sử xã hội lẫn lịch sử nghệ thuật đã thải bỏ.

Trên tinh thần nghệ thuật hướng tới cái đẹp, cái nhân bản giá trị nhận thức - cảm hóa thẩm mỹ của nghệ thuật không loại trừ yêu cầu mô tả cái xấu, cái không nhân bản cái đối lập với cái đẹp và cái chất người. Trong những hoàn cảnh lịch sử nhất đinh và do yêu cầu phê phán xã hội, đối với một số nghệ sĩ nào đó, cái xấu được phản ánh, mô tả trực tiếp và gần như là duy.nhất [như Gôgôn, Vũ Trọng Phụng đã làm]. Ở đây, cái xấu, cái ác được mô tả là cái chướng ngại của sự phát triển con người, thù địch với những gì là chất người dù ở một phạm vi sinh hoạt nhỏ nhất của nó. Nhưng cái xấu, cái ác, dù ma quái "hấp dẫn", hoành hành ngang nhiên hay ẩn náu giấu mặt đến thế nào chăng nữa rút cục cũng không thoát khỏi định mệnh sòng phẳng là bị tiêu diệt, do mâu thuẫn bên trong của nó, do áp lực và sự trừng phạt của cái đẹp, cái tốt, cái mới. Chính nghệ thuật quá khứ, từ bi kịch cổ đại đến chủ nghĩa hiện thực phê phán đã thấm đượm tinh thần nhân đạo chiến đấu đến cách nhìn mang những nhân tố phủ định biện chứng nhất định.

Mô tả, phản ánh cái " không phải là chết người", nếu chỉ dừng lại ở hiện tượng bên ngoài, đơn giản, hoặc thổi phồng quá khích, tuyệt đối hoá như một tai họa vĩnh cửu, một bản chất duy nhất của xã hội với cái tâm thương vay hoặc thù hận, thì chỉ đem lại cho công chúng sự nhận biết hời hợt vô bổ, "lo âu" buồn nôn và “tuyệt vọng" trước cuộc sống đang cần phải vượt lên. Bôi đen thực chất là vi phạm tính chân thực nghệ thuật và tính chân thành của nghệ sĩ. Gốc rễ của thứ "sáng tạo bóng tối" này là cách nhìn đời qua tấm kính của một "linh hồn chết" không mảy may niềm tin vào con người với tư cách là chủ thể quyết định vận mệnh của chính nó và vì nó. Cơn khủng hoảng hiện nay của không ít khuynh hướng nghệ thuật tư sản là sự chối bỏ chúng của đông đảo quần chúng Phương Tây là một điều có thể cắt nghĩa được.

Quan điểm phê phán của chủ nghĩa nhân đạo đích thực bao giờ cũng gắn liền với sự xem xét thế giới trong tính cụ thể lịch sử, trong tính phát triển, đổi mới và cáchmạng. Việc định rõ bản chất, cấp độ và phạm vi của cái xấu, cái ác cái giả có ý nghĩa nhận biết và cảm hóa rất cụ thể, rất thực tiễn đối với quần chúng. Một sự mô tả và phê phán cái xấu bằng cặp mắt tùy tiện, trùm lấp hay mơ hồ sẽ không ra khỏi tầm nhìn của anh chàng Chí Phèo chửi cả làng Vũ Đại nhưng ai cũng nghĩ "nó chừa mình ra". Có hành động dại dột, lỗi thời vì chúng sinh đau khổ của hiệp sỉ Đônkihôtê, có bệnh tâm thần của giai cấp cầm quyền lầy lan đến tận tâm não anh cùng đinh A.Q có thời Ôblômôp và nhân cách cửa những linh hồn chết, có lão keo kiệt Grăngđê và người hùng hãnh tiến Saclơ, có Nghị Quế và có Xuân tóc đỏ, có Quỷ Mêphixtô và có bệnh sĩ của cậu giáo Thứ…Sự đa dạng, phong phú, phức tạp trong mô tả cái xấu cũng từ bản chất và cấp độ, phạm vi và vị trí của chính nó trong cuộc sống mà ra. Trước cái xấu được nghệ thuật trình diễn, quần chúng sẽ có được những gam cảm xúc tương ứng, hoặc căm giận, hoặc "vui vẻ tiễn biệt quá khứ" [Mác] hoặc “buồn bực đức hạnh" [Hêgen]. Cuối cùng là, khi cảm nhận cái xấu, nhân dân ta nên cao hơn cái xấu và hướng tới cái tốt, cái đẹp. Nghệ thuật phán xét cái xấu một cánh đúng đắn chính là "bông hoa của văn minh, rau quả của tinh thần xã hội phát triển" [Biêlinxki].

Con đường nghệ sĩ tiếp cận cái đẹp trong đời thực và đưa nó vào nghệ thuật là không đơn giản. Điều đó đòi hỏi năng lực toàn diện của nghệ sĩ. Vấn đề là ở chỗ: Công chúng khi tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật không thề "chỉ thấy tối sầm” mà phải có được ánh sáng để "nhảy qua bóng tối" đi tới cuộc sống cần có. Thật là buồn phiền, mấy năm trở lại đầy, nền nghệ thuật của chúng ta lặn ngập quá sâu vào đời thường mà hiệu quả xã hội của nó thật ít ỏi. Những bông hoa nghệ thuật chưa mọc lên rực rỡ, tác giả có tầm cỡ chưa xuất hiện. Công chúng nghệ thuật vẫn chờ đợi và vẫn tin rằng xã hội của chúng ta, với những xúc cảm lớn nhất định sẽ kết tinh được các giá trị nghệ thuật xứng đáng với cuộc đời.

Nguồn:Tạp chí Triết học
LinkedInPinterestCập nhật lúc:10:15 SA @ 07/02/2009

Video liên quan

Chủ Đề