So sánh phiên âm và dịch thơ của bài Đi đường

ĐI ĐƯỜNG

ĐỀ 1:

1.    Chép thuộc phần phiên âm và dịch thơ của tác phẩm

2.    Tìm phép điệp ngữ và nêu hiệu quả nghệ thuật của phép điệp ngữ được sử dụng trong bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh.

3.  Ý nghĩa tư tưởng của bài“Đi đường”gợi em nhớ tới bài thơ nào em đã học trong chương trình ngữ văn lớp 8? So sánh sự giống nhau về tư tưởng ở hai bài thơ.

4.  Từ bài thơ “Đi đường” của Hồ Chí Minh kết hợp với những hiểu biết của mình, em hãy viết đoạn văn 12 câu nêu suy nghĩ của em về ý chí và nghị lực của con người trong cuộc sống. 

ĐỀ 2:

Đọc kỹ bài thơ sau và trả lời câu hỏi:

Đi đường mới biết gian lao

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng

Núi cao lên đến tận cùng

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
[Đi đường]

a. Tác giả của bài thơ ?

b. Bài thơ “Đi đường” được sáng tác trong hoàn cảnh nào?

c. Triết lí sâu xa của bài thơ “Đi đường”?

d. Bài thơ “Đi đường” thể hiện tinh thần gì của Bác Hồ?

e. Theo em,  bài thơ “Đi đường” có mấy lớp nghĩa. Chỉ ra các lớp nghĩa đó. Triển khai thành một đoạn văn.

Trang chủ » Lớp 8 » Soạn văn 8 tập 2

Câu 1: Trang 40 sgk ngữ văn 8 tập 2

Đọc kĩ các phần phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, chú thích để hiểu rõ nghĩa các câu thơ.

Bài làm:

Phần phiên âm:

"Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan

Trùng san chi ngoại hựu trùng san 

Trùng san đăng đáo cao phong hậu 

Vạn lý dư đồ cố miện gian." 

Phần dịch nghĩa:

"Có đi đường mới biết đường đi khó,

Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác;

Khi đã vượt các lớp núi lên đến đỉnh cao chót,

Thì muôn dặm nước non thu cả vào tầm mắt."

Phần dịch thơ: 

"Đi đường mới biết gian lao, 
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;           
Núi cao lên đến tận cùng,   
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non."

=> Trắc nghiệm ngữ văn 8: bài Đi đường

Từ khóa tìm kiếm Google: câu 1 trang 40 văn 8 tập 2, soạn văn câu 1 trang 40 văn 8 tập 2, trả lời câu 1 trang 40 văn 8 tập 2, đọc kĩ các phần phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ.

Lời giải các câu khác trong bài

Những câu hỏi liên quan

So sánh bản dịch thơ với bản dịch nghĩa, tìm những chỗ chưa sát với nguyên tác [chú ý câu 2 và câu 3].

Thử đối chiếu bản dịch thơ của Nguyễn Công Trứ với bản phiên âm và dịch nghĩa?

1. Đọc kĩ các phần phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, chú thích để hiểu rõ nghĩa các câu thơ.

I. Tác phẩm

“Đi đường” cũng là một bài thơ trong tập Nhật kí trong tù. Bác viết bài thơ này để ghi lại cảm hứng lúc đi đường khi bị giải từ nhà lao này đến nhà lao khác.

Bài thơ được viết theo thể tứ tuyệt, lời thơ giản dị, ý tứ hàm xúc, kết cấu chặt chẽ.

II. Luyện tập

 

Câu 1 trang 36 - SGK Ngữ văn 8 tập 2: Đọc kĩ các phần phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, chú thích để hiểu rõ nghĩa các câu thơ.
 

Đối chiếu giữa nguyên tác với bản dịch nghĩa, dịch thơ:

 

– Nguyên tác viết theo thể tứ tuyệt Đường luật nhưng dịch thơ theo thể lục bát -> thể thơ lục bát mặc dù uyển chuyển, tự nhiên nhưng đã làm giảm đi chất thép cứng cỏi trong bài.

 

– Điệp ngữ tẩu lộ – tẩu lộ, trùng san - trùng san - trùng san gợi ra sự điệp trùng, cái vất vả người tù phải đối mặt, bản dịch làm mất điệp ngữ ở câu mở đầu.

 

– Trùng san nghĩa là lớp núi trùng điệp nhưng bản dịch lại dịch là núi cao.

Câu 2 trang 36 - SGK Ngữ văn 8 tập 2: Tìm hiểu kết cấu bài thơ [gợi ý: dựa vào mô hình kết cấu bài tứ tuyệt Đường luật – khai, thừa, chuyển, hợp – đã được biết ở lớp dưới; chú ý mối liên hệ lô-gíc giữa các câu thơ và vị trí của câu thứ ba].


 

Bài thơ biểu hiện rõ nét kết cấu thể thơ tứ tuyệt đường luật, bám theo trình tự kết cấu này chúng ta nắm được mạch triển khai tứ thơ.

– Câu đầu [khai] – mở ra ý thơ: nhắc tới sự khó khăn là điều hiển nhiên của người đi đường, ý thơ thấm thía từ sự trải nghiệm của người đi trên hành trình gian nan ấy.

– Câu thừa – mở rộng, triển khai, cụ thể hóa ý thơ: Những khó khăn, gian khổ của người đi đường được cụ thể hóa bằng hình ảnh núi non lớp lang, trùng điệp, hiểm trở là quãng đường mà người đi phải vượt qua.

– Câu chuyển – chuyển ý [câu quan trọng để bộc lộ ý thơ trong bài thơ tứ tuyệt]: Khi vượt qua hết những khó khăn, khổ cực sẽ lên đến đỉnh cao chót vót.

– Câu hợp – gắn kết với câu chuyển để tổng kết, thâu tóm ý thơ: đứng trên đỉnh cao nước non ngàn dặm thu vào tầm mắt.


 

Câu 3 trang 36 - SGK Ngữ văn 8 tập 2:Việc sử dụng các điệp ngữ trong bài thơ [cả ở bản chữ Hán và bản dịch thơ] có hiệu quả nghệ thuật như thế nào?

Hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng điệp ngữ:

– Hệ thống điệp ngữ ở nguyên tác có tác dụng rõ rệt trong việc tạo nhịp điệu, âm hưởng cho mạch thơ.

Các chữ “tẩu lộ-tẩu lộ”, “trùng san-trùng san-trùng san” gợi ra cái trùng điệp gian nan của dặm đường dài. Bản dịch làm mất đi điệp ngữ ở mở đầu.

– Chữ “trùng san” trong nguyên tác có nghĩa là “lớp núi”, bản dịch thơ dịch là “núi cao” là chưa sát.

Câu 4 trang 36 - SGK Ngữ văn 8 tập 2: Phân tích câu 2 và câu 4 để làm rõ nỗi gian lao của người đi đường núi và niềm vui sướng của người đứng trên cao ngắm cảnh. Hai câu thơ này, ngoài ý nghĩa miêu tả, còn ngụ ý gì nữa không?

Câu thơ thứ hai và câu thơ thứ tư thể hiện được nỗi gian lao của người đi đường núi và niềm vui sướng của người đứng trên cao ngắm cảnh. Hai câu này ngoài nghĩa miêu tả còn có ý khác nữa, đó là khuyên con người ta: con đường cách mạng dù có gian lao bao nhiêu nhưng nếu hết sức cố gắng để vượt qua sẽ thu được kết quả vô cùng to lớn.

– Câu thứ 2: Nỗi gian nan của người đi đường được thể hiện bằng hình ảnh chặng đường phải vượt hết lớp núi này đến lớp núi khác. Chữ “trùng san” được điệp lại hai lần nhấn mạnh sự gian khổ, cực nhọc của người đi đường.
– Câu thơ thứ tư: Hình ảnh người đi đường sau muôn vàn gian khó đã tới được đỉnh cao. Từ trên đỉnh cáo ấy người ta có thể quan sát được mọi thứ, kể cả những chặng đường, những khó khăn thử thách mình đã vượt qua, như một phần thưởng xứng đáng.

Câu 5 trang 36 - SGK Ngữ văn 8 tập 2: Theo em, đây có phải là bài thơ tả cảnh, kể chuyện không? Vì sao? Hãy nêu vắn tắt nội dung ý nghĩa bài thơ.

Bài thơ Đi Đường không thuộc loại thơ tức cảnh hay tự sự mà chủ yếu thiên về suy nghĩ, triết lý nhưng không phải triết lý lên giọng dạy đời như lời kể chuyện, tâm sự của chính Bác trong những ngày tù đày. Bốn câu thơ bình dị mà cô đọng, rất tiết kiệm ngôn từ và lời chặt chẽ, logic, vừa tự nhiên, chân thực, vừa chứa đựng tư tưởng sâu xa.

Phân tích :

M.Goóc-ki từng nói “Kì lạ thay con người!”. Con người đến với cuộc đời và khẳng định sự tồn tại của mình bằng chính ý chí, nghị lực và một trái tim bao la. Đường đời với biết bao thử thách chính là lửa thử vàng để vàng càng sáng. Trong tập thơ Nhật kí trong tù, ta luôn bắt gặp một con người như thế. Bài thơ Đi đường cũng giống như những bài thơ chuyển lao khác như: Đi Nam Ninh, Chiều tối, Giải đi sớm,… không chỉ diễn tả nỗi gian nan của người tù trên bước đường chuyển lao mà hơn hết thể hiện một thái độ mang tính chất triết lí trước những chặng đường đời đầy thử thách và phong thái của một con người có tầm vóc cao cả.

Câu thơ đầu tiên Bác dành để nói về việc đi đường. Nhưng không phải là lời kêu than của một người đã trải qua biết bao chặng đường chuyển lao mà nó như một lời khẳng định, suy ngẫm bằng sự trải nghiệm thấm thía của chính người đi đường:

“Đi đường mới biết gian lao

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng.”

Câu thơ như một triết lí của con người từng trải. Có đi đường, có trải qua những khó khăn vất vả trên những chặng đường mới thấm thía được nỗi gian nan, mới biết gian khổ là gì. Bài học này không có gì là mới lạ nhưng phải bằng chính những thử thách, trải nghiệm của bản thân mới có sự nhận thức sâu sắc được như vậy. Câu thơ giản dị mà chứa đựng cả một chân lí  hiển nhiên. “Trùng san chi ngoại hựu trùng san”. Điệp từ “trùng san” như mở ra trước mắt người đọc cả một con đường gập ghềnh những núi, càng nhấn mạnh sự trải dài như vô tận, không dứt hết lớp núi này đến lớp núi khác. Con đường đó dường như đối lập với sức người, vắt cạn sức lực của con người. Phải vượt qua con đường như thế mới có thể thấu hiểu được cái chân lí tưởng chừng như giản đơn: “Đi đường mới biết gian lao” mà Bác đã nói ở trong câu thơ đầu.

Hai câu thơ chỉ đơn giản nói chuyện đi đường vất vả, không hề trực tiếp miêu tả hình ảnh người đi đường. Nhưng ta vẫn thấy hình ảnh người đi đường xuất hiện. Con người ở đây không phải xuất hiện trong trạng thái thảnh thơi ngồi ngắm quãng đường với trập trùng những núi, không phải lữ khách du ngoạn để ngắm cảnh non sông, mây trời mà là một người tù đang phải trên đường chuyển lao. Vai đeo gông, chân mang xiềng xích, đói khát phải vượt qua bao đèo cao, dốc sâu, vực thẳm, qua những con đường núi non hiểm trở. Chữ “hựu” đứng giữa hai câu thơ dịch không chỉ diễn tả sự nối tiếp của núi non mà còn diễn tả sự vất vả của người tù. Chưa hết con đường này thì con đường núi khác đã hiện ra trước mắt, chưa hết khó khăn này thì một khó khăn khác lại ngáng trở phía trước. Thế nhưng, câu thơ không phải là tiếng thở dài, là lời than thở của người đi đường, mà chỉ là chân lí của người chiến sĩ cách mạng đúc rút được trên con đường chuyển lao, trong quá trình hoạt động cách mạng của mình.

Hai câu thơ tiếp theo làm người đọc sửng sốt. Nếu như hai câu thơ đầu là chân lí, thì hai câu thơ sau bỗng vút lên nhẹ nhàng:

“Núi cao lên đến tận cùng

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”

Câu thơ thứ ba tiếp tục tả núi. Không chỉ dừng lại ở việc núi cao rồi lại núi cao trập trùng mà con đường đi đã được đẩy lên đến tột cùng khó khăn, hiểm trở “lên đến tận cùng”. Câu thơ dường như là một sự reo vui của người tù khi đã vượt qua được hàng ngàn núi cao, dốc sâu để lên được tới đỉnh núi cao nhất, tận cùng nhất. Ta như bắt gặp ở đây một chủ đề quen thuộc: đăng cao và một phong thái mang cảm giác vũ trụ của con người: Đăng cao, viễn vọng. Khi lên đến đỉnh núi cao rồi, cũng là lúc con người ta có thể phóng tầm mắt bao quát và chiếm lĩnh cả một khoảng không bao la, như làm chủ vũ trụ, đất trời. Con người khi đó như trong tư thế của một người chiến thắng. Con người tự nhiên như được tạo một dáng vẻ hiên ngang, ngạo nghễ giữa một vũ trụ bao la như một du khách dạo chơi nhàn tản giữa non nước mây trời. Trong tư thế đó, con người như một “tiên ông đạo cốt”. Những khó khăn của đường đi không thể cầm tù, giam hãm được con người trong những dãy núi. Con người như đang cố gắng vươn lên làm chủ chặng đường của mình.

“Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Câu thơ cuối là đỉnh điểm của cảm xúc. Có niềm vui khôn xiết của một con người đã vượt qua được bao khó khăn, khổ ải để có thể tận hưởng được cảnh nước non mây trời. Tưởng chừng như mọi khó khăn đều lùi xa, chỉ còn lại một con người làm chủ thiên nhiên, đất trời với phong thái ung dung, tự tại đầy lạc quan. Đến đây đất trời và con người như hòa làm một. Bài thơ vút lên trong một niềm cảm hứng lãng mạn.

Đi đường là một bài thơ ngắn nhưng chứa đựng một bài học lớn lao, nói về con đường có thực trong những năm tháng tù đày, chuyển lao hết nhà lao này đến nhà lao khác. Nhưng hơn hết, nó không chỉ đơn giản chỉ là con đường thật với núi non hiểm trở. Đó còn là con đường với biết bao chông gai thử thách. Những khó khăn đó không thể làm cho con người lùi bước. Bài thơ như một niềm tin sắt đá. Đường đời dù có gian nan, vất vả đến đâu nhưng chỉ cần con người kiên trì, nhẫn nại và quyết tâm vượt qua cuối cùng sẽ đến đích. Khi đó con người sẽ lên được tới đỉnh cao của vinh quang, trí tuệ và làm chủ được những giá trị đích thực của cuộc sống.

Bài thơ Đi đường – Tẩu lộ không chỉ là bức tranh về con đường chuyển lao đầy rẫy nhọc nhằn trở ngại, đó còn là bức tranh chân dung tinh thần tự họa Hồ Chí Minh. Từ bài thơ, người đọc có thể cảm nhận hình ảnh Bác vừa có thần thái ung dung, bình tĩnh của một bậc tiên phong đạo cốt vừa có nét kiên cường rắn rỏi, đầy lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng. Và như thế, bài thơ Đi đường cùng với nhiều bài thơ khác trong tập thơ Nhật kí trong tù thực sự là một đoá hoa đáng trân trọng của văn học Việt Nam.

Phần so sánh thì mình cũng không biết

Video liên quan

Chủ Đề