Tại sao đám ma phải có kèn trống

Sống Dầu Đèn, Chết Kèn Trống

Lượt xem: 14645

[Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích Người Phật Tử Cần Biết, tập 1, TG.2012, tr.131-139]

Nguồn: Sách: Người Phật Tử Cần Biết - Tập 1

Hỏi: Kính thưa Thầy, lúc nhà có người chết, phải mời trống kèn đến thổi kèn và đánh trống ầm ĩ, linh đình, làm cho người chết lẫn người sống quên đi sự đau buồn kẻ ở, người đi. Tục ngữ có câu: “Sống dầu đèn, chết kèn trống”. Thưa Thầy, lại có người bảo: “Thổi kèn trống gọi ma về rủ vong đi, như vậy có đúng không, thưa Thầy?

Ðáp: Trong kinh sách Nguyên Thủy của đạo Phật không có dạy điều này. Thổi kèn đánh trống ầm ĩ, để quên đi sự đau buồn [của cảnh tử biệt, sanh ly, kẻ ở, người đi], để an ủi tinh thần của người còn sống thì đúng, còn rủ ma về gọi vong đithì không đúng [mê tín]. Nếu đứng về góc độ thế gian, thổi kèn đánh trống ầm ĩ để quên đi sự đau buồn kẻ mất, người đi thì được tha thứ, còn rủ ma về gọi vong đi, thì không được tha thứ. Ðó là tưởng tri thuộc về mê tín, dị đoan.

Theo đạo Phật, khi một người chết thì các duyên tan rã hết, không còn tồn tại một vật gì, làm sao người chết có đau buồn? Chỉ có người còn sống thương nhớ, thấy mọi kỷ niệm của người chết còn lại thì lòng đau như muối xát. Theo tinh thần tự lực của Phật giáo, mọi người đều nên trang bị một sự hiểu biết thấu suốt các pháp thế gian này đều do duyên hợp tạo thành.

Thế nên mọi vật đều bị luật vô thường chi phối, thường xuyên thay đổi, biến dịch, có thành phải có hoại, có sanh thì có chết. Vì thế, con người sống trên thế gian này, không ai tránh khỏi điều đó [sanh tử]. Người đệ tử của Phật đều phải chuẩn bị cho mình một tinh thần vững chắc, với một trí tuệ thông suốt lý nhân quả, để ứng dụng đối phó trực tiếp trước mọi cảnh tai ương, bịnh tật, gian nan, hiểm nguy mà không hề sợ hãi, sờn lòng. Trước cảnh ly tan hoặc sum họp cũng chẳng buồn, chẳng vui; trước cảnh tử biệt, sanh ly cũng chẳng thương khóc nức nở. Với trí tuệ nhân quả của đạo Phật, mọi sự việc trên đời này xảy ra trước mắt họ, họ đều thấy rõ ràng: “Các pháp là vô thường, nay còn, mai mất là lẽ đương nhiên của các pháp duyên hợp”.

Vì đã chuẩn bị tinh thần vững chắc với sức định tĩnh và trí tuệ nhân quả, luôn luôn sống trong chánh niệm [niệm thiện], người đệ tử của Phật thản nhiên trước mọi tình huống. Không làm khổ mình, khổ người, thì trước cảnh sanh ly, tử biệt cần gì đến trống kèn ầm ĩ. Ðám ma mà làm giống như đám hát, thật là một việc làm không đúng cách.

Nếu chúng ta là những đứa con hiếu thì trống kèn làm sao vui cho được khi mà mất cha, mất mẹ. Chúng ta nên giữ im lặng để hồi tưởng lại công ơn sanh thành, dưỡng dục của mẹ cha. Một người con hiếu được theo học đạo Phật, khi cha mẹ mất hoặc có người thân mất là một điều nhắc nhở rất lớn cho họ. Phải làm sao, bằng cách nào giúp cha mẹ hoặc những người thân của mình thoát vòng sanh tử, luân hồi, chấm dứt sự khổ đau của kiếp người.

Hiểu biết sự báo hiếu của đạo Phật, người con phải tu tập đạt được cứu cánh giải thoát, có đầy đủ đạo hạnh để làm gương sáng và hướng dẫn cho cha mẹ tu hành, theo giáo pháp và đường lối của đạo Phật. Người con phải có một ý chí sắt đá, một nghị lực kiên cường, một lòng dũng cảm quả quyết, để thực hiện con đường của đạo Phật rốt ráo, để làm tròn bổn phận của người con hiếu [công ơn sanh thành của mẹ cha nuôi con lớn khôn rất là vất vả, như trời, như biển]. Nên nhớ, vì muốn nuôi con lớn khôn nên người, không thua kém ai, cha mẹ phải nhiều lần làm điều ác, giờ đây đã trở thành nghiệp lực, nghiệp lực ấy theo vô minh tiếp tục tái sanh luân hồi, thọ biết bao nhiêu là thứ khổ đau của kiếp làm người, ngàn đời, muôn kiếp chẳng bao giờ dứt.

Khi đã hiểu rõ Phật pháp, như lời Phật đã dạy, nếu trong nhà có người chết, chúng ta hãy làm lễ an táng đơn giản, không kèn, không trống, không thầy chùa tụng kinh, niệm Phật, cũng không ai hộ niệm cho ai cả. Hãy tiếp tay với gia đình có người chết, đồng lo chôn cất hoặc thiêu đốt càng sớm càng tốt, để lâu mùi hơi hôi thúi làm mất vệ sinh, ô nhiễm môi trường sống của con người.

Khi trong nhà có người chết, ta nên tổ chức đám ma âm thầm, lặng lẽ, để hồi tưởng lại những công ơn, khi người còn sống. Việc ma chay cần phải bỏ bớt, đơn giản, để người sống khỏi lo lắng nhiều, những việc cúng bái có tính cách mê tín, dị đoan thì cần dẹp sạch, cốt sao cho giản dị nhất, khi đám tang xong không nợ nần ai hết.

Tẩm liệm thây người chết đừng cột bó như đòn bánh Tét. Hãy để người chết nằm trong quan tài nhưngười nằm ngủ, phủ vải lại nhẹ nhàng, đừng chèn nhét rơm rạ như ép dầu, rồi đậy nắp áo quan lại một cách giản dị, tự nhiên, v.v... Bạn bè, thân quyến đến phúng điếu chia buồn, chẳng nên làm ầm ĩ, đánh trống thổi kèn làm mất vẻ trang nghiêm, thanh tịnh, không đúng cách đám ma, mà còn làm hao tốn tiền bạc vô ích.

Một đám tang trong âm thầm, lặng lẽ, trang nghiêm có ý nghĩa của sự chết hơn là một đám tang ầm ĩ kèn trống, tiếng hò hét, tụng niệm giọng cao, giọng thấp trầm bổng như ca, ngâm, vịnh, hát. Thể hiện những điều này không đúng cách đám ma, mà là một đám hát, một trò chơi của những người không có sự ưu sầu. Vì người chết không thể sống lại được, dù để bao lâu cũng không sống, tốt hơn ta nên an táng sớm chừng nào tốt chừng nấy, để giữ vệ sinh chung cho mọi người, nhất là những người thân trong gia đình, và còn lo những việc khác nữa. Phật dạy, thân người bất tịnh hôi thúi, do bốn đại: đất, nước, gió, lửa hợp thành, nên khi chết đất, nước, gió, lửa tan rã, đất trở về đất, nước trở về nước, gió trở về gió, lửa trở về lửa; thọ, tưởng, hành, thức thì tan biến theo nghiệp lực nhân quả, người chết chẳng còn một chút xíu nào cả.

Thổi kèn, đánh trống để gọi ma về rủ vong đi, thì bọn ca hát cũng thổi kèn đánh trống, sao ma không về dẫn linh hồn họ đi? Ðó là một sự bịa đặt vô căn cứ, thiếu thực tế, chúng ta không chịu suy tư, nghe đâu tin đó, bảo sao làm vậy, thấy ai làm xu hướng làm theo, chẳng biết đó là bị kẻ khác lừa đảo.

Khi đức Phật còn tại thế, Ngài cảnh giác các đệ tử của mình, thậm chí ngay lời Phật dạy, Ngài còn bảo: “Ðừng tin lời ta nói, mà hãy suy nghiệm lời ta nói có lợi ích thiết thực cụ thể hay không, rồi hãy tin”.

Thật ra từ ngàn xưa đến giờ, Tổ tiên của chúng ta đã để lại cho chúng ta một gia tài trong đó sự mê tín chiếm một nửa. Trong cuộc sống, ngoài sự hiểu biết của ý thức [hoặc tri thức ở học đường], con người dùng tưởng mà tạo ra, bây giờ đã biến nó thành một truyền thống [thế giới siêu hình] thật sự, muốn bỏ nó hiện giờ đây đâu phải dễ. Lợi dụng lòng mê tín này, con người sản xuất ra tôn giáo, để dựng lên một thế giới mê tín siêu việt hơn, độc đáo hơn, tối thượng hơn, cao hơn các thế giới siêu hình khác, khiến cho con người với trí hữu hạn không thể hiểu rõ được nên đắm mê tập trung theo tôn giáo đó, trở thành một giáo phái có uy quyền có thế lực. Từ đó, lớp mê tín cũ chưa bỏ lại chồng thêm một lớp mê tín mới, trên đầu và đôi vai phải đội, mang, cõng biết bao nhiêu thần linh, ma, quỷ, rồi bây giờ phải đội thêm một ông Ngọc Hoàng, Thượng Ðế, Tiên, Thánh, Chúa, Phật, v.v... Bây giờ là thời đại khoa học hiện đại, dân trí con người đã nâng lên khá cao, thế mà giới trí thức hiện nay có kiến thức sâu rộng về khoa học vẫn bị thế giới siêu hình lừa đảo một cách đáng thương và đáng trách.

Ðạo Phật ra đời quyết đập tan, phá sạch thế giới siêu hình, để đưa con người thoát ra khỏi vòng mê tín lẩn quẩn. Trong thời điểm của đức Phật, con người còn đang sống trong những bộ lạc, dân trí trình độ còn thấp kém, khó nâng cao sự hiểu biết, mặc dù giáo pháp của Ngài dạy rất rõ và xác định cụ thể về thế giới siêu hình, nhưng người ta vẫn không tin, nên sau khi Ngài tịch, các đệ tử của Ngài, nhất là những người tu chưa chứng đắc, họ đã thêm bớt vào giáo pháp của Ngài, biến thành một giáo pháp mê tín và sản xuất ra có vô lượng cõi siêu hình. Bốn mươi chín năm thuyết pháp, thời gian quá ngắn, Ngài chưa kịp đập tan và phá sạch thế giới siêu hình thì Ngài lại thị tịch, để lại một sự nghiệp rất khoa học, một đạo đức tuyệt vời, mà không có vị đệ tử nào thừa kế. Ngài phải đành di chúc lại cho người sau: “Hãy lấy giáo pháp và giới luật của ta làm thầy”. Nhưng giáo pháp và giới luật của người còn đó, người theo đạo Ngài thì chẳng tu theo, mà lại tu theo giáo pháp và giới luật của ngoại đạo. Bây giờ, giáo pháp của Ngài đã trở thành giáo pháp mê tín, còn Ngài thì trở thành ông thần phò trợ, ban phước lành cho chúng sanh. Chùa là nơi cúng bái, tụng niệm, cầu an, cầu siêu, cầu phước, cầu tự, v.v... Chùa cũng là nơi tập ngồi thiền trị bịnh, biến thiền định của Phật thành một thứ thiền dưỡng sinh trị và ngừa bịnh, thật là đau lòng.

Mục đích của Ngài là muốn con người thật sự hiểu, hiểu thật rõ cái thế giới mà con người đang sống. Chính vì lầm chấp thế giới hữu hình và thế giới siêu hình là thật có mà con người tạo biết bao nhiêu nhân ác, để rồi gặt lấy quả khổ và tiếp tục mãi mãi luân hồi sanh tử. Ngày nay, tất cả mọi người, kể cả những người không phải là tín đồ Phật giáo, ai ai cũng cho những hình thức mê tín là của Phật giáo, thật là đau lòng, xót dạ. Biết nói làm sao bây giờ, vì các bậc tôn túc Thầy Tổ của chúng ta ngày xưa đã làm như vậy. Ðọc lại những lời Phật dạy năm xưa trong kinh Nguyên Thủy, ta mới thấm thía đến rơi nước mắt. Tâm nguyện của Ngài muốn đem lại cho loài người một sự hiểu biết chân thật. Vâng, chỉ có sự hiểu biết chân thật con người mới không còn khổ đau nữa và chấm dứt luân hồi. Nhờ hiểu biết chân thật người ta sẽ không còn bị lường gạt được về thế giới hữu hình và siêu hình nữa.

Hồi tưởng lại cách đây 2542 năm [năm 1998, là năm Thầy viết bộ ÐVXP] có một con người vĩ đại xuất hiện ra đời, chỉ vạch cho con người biết rõ rằng không có thế giới siêu hình thật sự, chỉ có thế giới tưởng của loài người mà thôi. Một số bài kinh trong tạng kinh Nguyên Thủy của Phật giáo đã xác định rõ ràng như: Kinh Tứ Diệu Ðế, kinh Thập Nhị Nhân Duyên, kinh Ngũ Uẩn, kinh Pháp Môn Căn Bản, v.v...

Trong những bài kinh này, lời nói của đức Phật rất hùng hồn và quả quyết: “Thế giới siêu hình không có, chỉ có thế giới tưởng mà thôi”. Nhưng tại sao trong tạng kinh Nguyên Thủy còn có những bài kinh nói về thế giới siêu hình? Khi đức Phật nói về thế giới siêu hình, 33 cõi Trời, cõi Ðịa Ngục, cõi chư Thiên và cõi Ngạ Quỷ, là nói đến cảnh giới tưởng của con người, chớ Ngài đâu có nói đó là cảnh thật. Vì thế Ngài xác định: “Tưởng tri chớ không phải là liễu tri”.

Bây giờ, quý vị đã rõ rồi phải không? Vậy từ đây quý vị còn mê tín nữa không? Còn tin theo kinh sách Ðại thừa nữa không? Tuy nói như vậy, nhưng tin hay không tin là tùy quý vị, chúng tôi chẳng có quyền và chẳng có trách nhiệm gì cả trong vấn đề mê tín dị đoan. Mất tiền, mất của là mất tiền của của quý vị, chớ chúng tôi chẳng có hao tốn gì cả. Nói để cùng nhau suy ngẫm cuộc sống con người đâu đúng, đâu sai, đâu tà, đâu chánh,đâu thật, đâu giả, v.v... để cho mọi người sống an vui, hạnh phúc, không làm khổ mình, khổ người. Và đó cũng là tâm nguyện của chúng tôi.

***

< Trang trước

Trang sau >

TT - Ở quê tôi nghe tin có người chết là cả xóm bắt đầu sợ. Không phải họ sợ ma mà sợ bị kèn, trống của đám tang hành!

Cả xã tôi người dân có phong tục “sống có đèn, chết phải có kèn có trống”, ngày nay phong tục đó không những được giữ gìn mà còn làm rầm rộ gấp nhiều lần hơn xưa. Trước những người ra đi từ 60 tuổi trở lên được coi là thọ thì đám ma mới có trống kèn.

Còn nay, chạy đua với “phong trào” nhà nào có người thân mất cỡ 40 tuổi cũng rước phường kèn trống cả.

Thường người chết được liệm khoảng 3g chiều, trống kèn nổi lên gọi là đưa tiễn. Ngay sau đó là giờ của bà con đến viếng, thế là kèn trống rong ruổi suốt đến 7g thì nghỉ khoảng 30 phút để ăn tối, sau đó lại nổi lên rền rĩ.

Trống cái được đánh cật lực bằng hai cái dùi to bằng cổ tay, cộng với tiếng kèn lớn khiến ngồi trong đám ai nấy đều đinh tai rồi. Vậy mà ở nhiều đám phường kèn còn gắn micro vào cho vọng ra loa phóng thanh phóng về bốn hướng làm cho cả làng, cả xã nhức óc suốt đêm.

Nhiều đám có con cháu khá giả thuê luôn dàn kèn đồng, một bộ sáu chiếc kèn này nổi lên là cả làng cầm chắc không ai ngủ được. Chưa hết, ở gần chỗ con cháu ngồi khóc cũng được gắn mấy cái micro để thu tiếng khóc lên loa.

Cứ vậy, có đám tang là kèn, trống suốt ngày đêm, có bơn bớt một chút vào giờ cúng cơm, chỉ đánh trống con và kèn nhỏ, sau đó lại tiếp tục kèn trống lớn cho tận lúc đưa người mất ra đồng. Mồ yên mả đẹp cho người mất rồi, gia đình lại về nhà cúng cả giờ nữamới dứt điểm.

Đám tang xong, con cháu người mất bơ phờ đã đành, còn cả làng cũng oải theo với tiếng trống, tiếng kèn.

Cũng biết “nghĩa tử là nghĩa tận”, khi một gia đình có tang thì làng xóm chung tay góp sức lo lắng cho chu toàn, bỏ qua những sai sót, bất tiện mà đám tang gây ra. Song chuyện kèn trống trong đám tang đến mức như “tra tấn” cả làng xóm thì cũng nên gia giảm.

Mục lục

Tìm Hiểu Về Nhạc Lễ Trong Đám Tang

"Sống Dầu Đèn - Chết Kèn Trống" chính là một nét văn hóa truyền thống của người dân Việt Nam chúng ta.
Tại sao lại có câu nói này?
Vì ngày xưa, không được hiện đại và cũng không có điện như bây giờ, Đèn Dầu thời bấy giờ rất được coi trọng, sao 1 ngày làm việc mệt mỏi, thì mọi người sẽ quây quần lại trước ngọc Đèn Dầu để nói chuyện trà nước thư giãn.
Còn khi mà trong nhà có Tang Sự, thì nhất định phải có Kèn Trống, thời bấy giờ gọi là Phường Bát Âm chứ không gọi là Ban Nhạc Lễ [Nhạc Hiếu] như hiện nay.
Tại sao gọi là Phường Bát Âm? tại vì nếu để đúng lễ nghi tang lễ truyền thống thì phải có đầy đủ các loại nhạc cụ như: kèn, sáo, trống, chiêng, đàn nhị, đàn nguyệt, v.v... để thể hiện đủ 8 âm điệu.

Mục lục [hide]

  • 1 Tại Sao Trong Đám Tang Không Thể Thiếu Ban Nhạc Lễ?
  • 2 Nhạc Lễ Đám Tang Gồm Những Thể Loại Nào?
    • 2.1 Nhạc Lễ Theo Phong Tục Miền Bắc
    • 2.2 Nhạc Lễ Theo Phong Tục Miền Nam
    • 2.3 Ban Kèn Tây
  • 3 Danh Sách Câu Hỏi Thường Gặp Về Nhạc Lễ - Kèn Tây Trong Đám Tang
    • 3.1 Giá Thuê Nhạc Lễ [Nhạc Hiếu] Có Mắc Không?
    • 3.2 Giá Thuê Đội Kèn Tây Mắc Hay Là Rẻ?

Video liên quan

Chủ Đề