The loại văn học tiếp thu từ Trung Quốc

Thể loại mà văn học trung đại tiếp thu từ văn học Trung Quốc là?

B. Phú

D. Hát nói

Các câu hỏi tương tự

Văn học viết Việt Nam gồm: văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX [văn học trung đại] và văn học từ đầu thế kỉ XX đến nay [văn học hiện đại]. Cần nắm được đặc điểm chung và đặc điểm riêng của văn học trung đại và văn học hiện đại theo các gợi ‎ý sau:

a] Những nội dung lớn của văn học Việt Nam trong quá trình phát triển. b] Văn học viết Việt Nam phát triển trong sự ảnh hưởng qua lại với các yếu tố truyền thống dân tộc, tiếp biến văn học nước ngoài như thế nào? Nêu một số hiện tượng văn học tiêu biểu để chứng minh. c] Sự khác nhau giữa văn học trung đại và văn học hiện đại về ngôn ngữ và hệ thống thể loại.

Về bộ phận văn học dân gian, có các trọng tâm kiến thức:

– Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian. – Hệ thống thể loại văn học dân gian Việt Nam. – Những giá trị của văn học dân gian Việt Nam. Để nắm được những trọng tâm kiến thức nói trên, có thể ôn tập theo các gợi‎ ý‎ sau: a] Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian. Văn học dân gian bao gồm những thể loại nào? Chỉ ra những đặc trưng chủ yếu nhất của từng thể loại. b] Chọn phân tích một số tác phẩm [hoặc trích đoạn tác phẩm] văn học dân gian đã học [hoặc đã đọc] để làm nổi bật đặc điểm nội dung và nghệ thuật của sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện thơ, truyện cười, ca dao, tục ngữ. c] Kể lại một số truyện dân gian, đọc thuộc một số câu ca dao, tục ngữ mà anh [chị] thích.

Văn học dân gian cho chúng tôi những lời ru ngọt ngào từ thủa còn nằm nôi. Đó là ca dao, một bộ phận quan trọng làm nên nền vănhọc và văn hoá dân gian của dân tộc. Ca dao không chỉ là khúc hát du dương đưa em thơ và giấc ngủ mà đó còn là những câu nói hàm súc chứa đựng bao lời khuyên dạy về đạo lí làm người, những bài học nhân sinh. Ví dụ:

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

A. Giới thiệu về ca dao.

C. Đưa ra ví dụ về ca dao.

D. Tổng kết về ca dao.

Tìm một vài bài thơ của các nhà thơ trung đại và hiện đại có sử dụng chất liêu văn học dân gian để chứng minh vai trò của văn hoc dân gian đối với văn học viết.

Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX [văn học trung đại] gồm những thành phần văn học:

B. Văn học chữ Nôm.

D. Văn học chữ quốc ngữ.

Thành phần văn học chữ Hán xuất hiện sớm, tồn tại trong suốt quá trình hình thành và phát triển của văn học trung đại, bao gồm cả thơ và văn xuôi.

Các thể loại của văn học phong phú gồm chiếu, biểu, hịch, cáo, truyện truyền kì, kí sự, tiểu thuyết, chương hồi, phú, thơ cổ phong, thơ Đường luật…

Văn học chữ Nôm

Văn học chữ Nôm bao gồm các sáng tác bằng chữ Nôm, ra đời muộn hơn văn học chữ Hán [khoảng cuối thế kỉ XIII], tồn tại, phát triển đến hết thời kì văn học trung đại.

Thể loại văn học chủ yếu là thơ, rất ít văn xuôi. Trong văn học chữ Nôm, chỉ một số thể loại tiếp thu từ Trung Quốc như phú, văn tế, thơ Đường luật, còn phần lớn là thể loại văn học dân tộc như ngâm khúc [viết theo thể song thất lục bát], truyện thơ [lục bát], hát nói [viết theo thể thơ tự do kết hợp với âm nhạc], hoặc thể loại văn học Trung Quốc đã được Việt hóa như thơ Đường luật thất ngôn xen lục ngôn.

Thể loại mà văn học trung đại tiếp thu từ văn học Trung Quốc là?

A. Truyện thơ

B. Phú

C. Ngâm khúc

D. Hát nói

Hướng dẫn

Chọn đáp án : B

Thể loại trong văn họcTrung Quốc thời trung đạiTrong lời nói đầu cho Văn tuyển, Tiêu Thống xác định rõ ràng các danh giới của bộvăn tuyển này, sau khi chỉ ra rằng ông không chọn những tác phẩm văn xuôi lịch sử vàtrước tác triết học. Ông cũng không đưa vào bộ tuyển các văn bản kinh điển [vốn vẫn đượcđưa vào các danh sách tác phẩm văn học], cũng không chấp nhận chia ra văn và bút, mộtsự phân chia dựa trên dấu hiệu thuần túy hình thức: có hay không có vần. Đối với TiêuThống, tiêu chuẩn lựa chọn duy nhất là tính nghệ thuật của văn bản, điều ông hiểu như làtrước tác “có hình thức tinh xảo và trình bày khéo léo”. Và xét từ quan điểm này, tuyển tậpcủa ông hết sức có giá trị, bởi vì nó cho phép hình dung ra khá rõ thành phần của văn học[có tính] nghệ thuật trong nhận thức của các nhà lý luận Trung Quốc thời trung đại[4].Tuy nhiên một vấn đề được đặt ra: các thể loại văn học viết thời ấy đã được TiêuThống gọi tên hay người tiền bối Lưu Hiệp phân tích đầy đủ chưa? Chúng ta không bànđến các văn bản về nông nghiệp, y học, luật pháp, các bộ binh thư, v.v vì chúng có chứcnăng thực dụng thuần túy nói chung dường như đứng ngoài hệ thống thể loại văn học.Song vào thời ấy, ở Trung Quốc đã có một khối lượng khá lớn kinh điển Phật giáo đượcdịch [Kinh-sutra, Luận-sastra, Luật-vinaya, jataka, v.v ]; có cả kinh sách của Đạo giáo[trong lời tựa cho văn tuyển, trong số các trước tác triết học đạo gia Tiêu Thống chỉ nhắcđến Lão Tử, Trang Tử]; ngoài ra còn có nhiều trước tác sử học không chính thống đã đưavào văn bản của mình vô số truyền thuyết lịch sử có thể sưu tập; cuối cùng đã có nhữngtuyển tập truyện thần kỳ như Sưu thần ký [Ghi chép về việc đi tìm kiếm thần linh] của CanBảo, xuất hiện khoảng thế kỷ III, tức là trước Tiêu Thống hai trăm năm, cũng như cáctuyển tập truyện tiếu lâm [ví dụ Tiếu lâm của Hàm Đan Thuần, thế kỷ III]. Sự xem thườngnhững cuốn sách này và sự rõ ràng không chú ý đến chúng cho thấy tính tự sự, tính hấpdẫn không được các nhà biên soạn và các nhà lý luận thời ấy xem như một dấu hiệu củatính nghệ thuật. Cần có hơn một nghìn năm để thừa nhận văn xuôi tự sự là một nhánh bìnhquyền của văn học Trung Quốc.Nếu so sánh hệ thống văn học ở Trung Quốc trung đại sơ kỳ với hệ thống văn họccủa nước Nga cổ vốn cũng chịu sự qui định bởi thế giới quan trung đại [xem Kuskov, tr.3]thì dễ thấy sự khác biệt về nguyên tắc. Ở nước Nga cũng như trong toàn bộ thế giới Kitôgiáo, các văn bản tôn giáo và cận tôn giáo làm thành cơ sở cho nền văn học trung đại. Hệthống thể loại của văn học nhà thờ, bền vững và bảo thủ, có ưu thế rõ ràng so với hệ thốngvăn học thế tục [trần thế]. Ở Trung Quốc có khác: văn học Phật giáo được vay mượn từ ẤnĐộ [thường qua trung gian Trung Á] sẽ khép kín mãi mãi và tồn tại đâu đó bên ngoài nềnvăn học được tiếp nhận rộng rãi. Còn học thuyết Đạo Phật ở Trung Quốc không trở thànhtôn giáo chính thống, mặc dù dưới triều một số đế vương nó được ủng hộ mạnh mẽ. Cònhọc thuyết của đạo Khổng thì đã trở thành cơ sở của toàn bộ hệ tư tưởng chính thống TrungQuốc, lại là học thuyết đạo đức chứ không phải là tư tưởng tôn giáo mặc dù với thời gian, nócó hấp thụ vào mình những yếu tố riêng rẽ của sự thờ cúng trong miếu mạo. Theo chúng tôi,chính điều này giải thích tính chất thế tục của văn học Trung Quốc. Cả Lưu Hiệp lẫn TiêuThống đều không xây dựng trật tự thứ hạng thể loại dưới ảnh hưởng của Khổng giáo. Nếumà không thế thì đứng đầu hệ thống hẳn đã là những thể loại thuần túy của Khổng giáonhư luận về đề tài kinh điển, v.v [như điều đó đã được áp dụng trong các tuyển tập của cácnhà nho chính thống thế kỷ XIX]. Nhưng Lưu Hiệp và Tiêu Thống đã xuất phát từ các tiêuchuẩn thẩm mỹ, trước hết là tiêu chuẩn phong cách. Do đó, vị trí đứng đầu trong hệ thốngcủa họ là phú hay thi, vốn nổi bật trong số các thể loại khác nhờ tính tu sức đặc biệt củaphong cách.Tiêu Thống đã sáng lập truyền thống biên soạn tuyển tập ở Trung Quốc và ở toànvùng Viễn Đông. Trong số những người kế tục ông có Diêu Huyễn [姚 鉉]sống ở cuối thếkỷ X. Tác giả này đã soạn tuyển tập Đường văn túy [những hình tượng xuất sắc của vănchương đời Đường] trong đó cũng phân định các tác phẩm theo tiêu đề thể loại. Song,khác với Tiêu Thống, ông không giới thiệu đến 39 thể loại mà chỉ có 22. Bản thân nguyêntắc phân định về cơ bản vẫn là thế. Thứ hạng các thể loại do phú dẫn đầu, sau nólà thi[5].Nhưng tiếp theo, trật tự bị phá vỡ. Gần với thi là tụng và tán, được soạn giả đặtngay sau thi, và điều này xem ra có tính nhất quán hơn. Diêu Huyễn giới thiệu trong tuyểntập của mình cả những thể loại chưa có ở bộ tuyển của Tiêu Thống: Sớ - bình chú, trạng -báo cáo do các quan lại viết gửi vua hay quan trên, lộ bố - thông báo khẩn cấp, zi - cảnhbáo [khác với châm được cả Tiêu Thống và Diêu Huyễn giới thiệu].Tất cả những cái mới được áp dụng đó rõ ràng phù hợp với thực tiễn văn học đờiĐường. Dù những thể loại này ra đời từ đầu công nguyên, nhưng những kiểu mẫu của chúng,theo quan điểm Tiêu Thống, còn chưa có giá trị văn học, trong khi đó, đến thế kỷ X, chúngđã bước vào đời sống văn học và Diêu Huyễn đưa chúng vào tuyển tập của mình. Khôngkhó khăn mà nhận thấy rằng tất cả các thể loại mới, được viết bằng văn xuôi có vần vàkhông vần, về thực chất là biến thể của giấy tờ hành chính - công việc và những dấu hiệutiêu biểu của chúng gắn liền trước hết với lễ nghi thời trung đại. Ví dụ tiêu biểu: lộ bố: thờicổ [thế kỷ III-II trước CN] đây là thư từ gửi nhà vua được viết bởi dân thường hay quan lạikhông được triều đình phong quan tước hay cấp cho những suất ruộng đất [nguyên tắc nàyđược duy trì ở đời Đường đến đâu, cần có những khảo sát chuyên biệt].Như vậy, đối với người soạn bộ tuyển tập văn chương có uy tín đời Đường, đã sốngở cuối thế kỷ X, cũng như đối với những bậc tiền bối của ông, văn học thống hợp cả cácthể loại thuần túy nghệ thuật [phú, thi, v.v ] cả các thể loại hành chính - sự vụ với tínhchức năng rất rõ. Tuy nhiên, các tác phẩm tự sự, ví dụ như các truyện truyền kỳ thờiĐường rất nổi tiếng ngày nay, cũng như các văn bản được sáng tạo trong các nhà chùabằng ngôn ngữ hội thoại thời ấy dành để diễn xướng [biến văn] đã không rơi vào hệ thốngvăn học nói chung. Ngoài ra, trong tuyển tập của Diêu Huyễn có một chi tiết kỳ thú. Trongsố 22 mục thể loại được giới thiệu trong bộ sách này, có một [cổ văn] không chỉ một thểloại riêng biệt. Cổ văn – nghĩa đen “văn chương thời cổ”, “văn học cổ”- khái niệm chỉ mộtkhuynh hướng thể loại xuất hiện vào đời Đường, khi hai nhà văn nổi tiếng Hàn Dũ và LiễuTôn Nguyên chống lại lối văn đối xứng phức tạp và hô hào quay trở lại với thời cổ đại, tứclà với phong cách ngắn gọn, sáng sủa của các kinh điển Khổng giáo cổ đại. Mặc dù nhữngđại biểu của phong trào phong cách và ở mức độ rõ ràng có tính tư tưởng này đã sử dụngtrong sáng tác của mình nhiều thể loại hệt như các nhà văn khác, Diêu Huyễn vẫn tách họra một mục riêng biệt. Rất có thể là ý nghĩa cổ của thuật ngữ thể [“thân thể” văn học], kếthợp trong mình, như đã nói ở đầu bài viết này, đồng thời cả khái niệm phong cách và thểloại, ở đây đã đóng vai trò nhất định.Gần như đồng thời với Diêu Huyễn, cũng ở cuối thế kỷ X, các nhà bác học LýPhương và Tống Bạch và những người khác theo lệnh vua đã soạn một tuyển tập lớn Vănuyển anh hoa [Hoa nở rực rỡ trong vườn văn]. Nó được tính toán như là tiếp nối trựctiếp Văn tuyển của Tiêu Thống và bao gồm các tác phẩm sáng tác từ cuối đời Lương [giữathế kỷ VI] đến đời Đường. Xây dựng bộ tập đại thành của mình kế tục Văn tuyển, nhữngngười soạn đã vay mượn ở Tiêu Thống nguyên tắc xếp sắp tài liệu và cả bản thân hệ thốngthể loại. Nhưng đưa lên vị trí hàng đầu các thể loại văn học phú và thi, các soạn giả đồngthời thuyết minh cho các thể loại không có ở Tiêu Thống hay là được ông ta gọi tên khácđi. Ví dụ, tiếp theo thi là các bài ca hành chiếm vị trí của thể loại nhạc phủ mô phỏng cácbài dân ca. Các soạn giả cũng đưa vào hệ thống thể loại của mình cả những thể loạinhư truyện chí chiếm vị trí quan trọng trong văn học đời Đường hay phán- phán quyết củatòa án, viết bằng văn chương trang nhã thường là biền ngẫu. Nhưng nói chung thứ hạngthể loại vẫn là: trước hết, các thể loại thuần túy văn chương, sau đó là thể loại hành chínhsự vụ, cuối cùng là các thể loại nghi lễ gắn liền với tang lễ,- trật tự này lặp lại hệ thốngcủa Văn tuyển.Được soạn trong triều đại tiếp theo, triều Nguyên [thế kỷ XIII- XIV], tuyển tập gọilà Nguyên văn loại [Các phạm trù văn chương đời Nguyên] của Tô Thiên Tước [1294-1352] trên thực tế lặp lại vẫn hệ thống ấy. Nhưng tiếp theo sẽ diễn ra sự vận động rõ ràngtrong ý thức sáng tạo văn học và thứ hạng các thể loại văn học. Trong thế kỷ XVI, tuyểntập được gọi tên bởi soạn giả Trình Mẫn Chính là Minh văn hành [Cái cân của văn học đờiMinh] đã cho thấy một quan niệm hoàn toàn khác về hệ thống văn học. Đứng đầu trật tựthứ hạng không phải là các thể loại văn chương, mà là những thể loại chức năng - sựvụ: hịch-lệnh tuyên bố chiến tranh hay lên đường chinh phạt, tuyên bố của vua chiếu, cácquyết định của hoàng đế - chí [về khen thưởng hay phạt, khoan hồng, v.v ], thông điệpcủa nhà vua gửi nhân dân – cáo, các quyết định của nhà vua [tuyên bố lên ngôi của ngườikế vị, lập hoàng hậu, cung phi] - sách, cuối cùng là tế văn. Tất cả chúng ở Trình MẫnChính được đặt trước các thể loại phú, tao, nhạc phủ [thi nói chung không được giới thiệutrong bộ văn tuyển này], đi sau các thể loại này, đến lượt mình, là những thể loại chủ yếuđược các nho gia sử dụng trong việc giải thích, cắt nghĩa học thuyết của họ: luận - bànluận, thuyết - lời nói, giải - giải thích, v.v Sau đó bỗng lại xuất hiện những thể loại thơ caquen thuộc tụng, tán, tiếp theo là những thể loại văn học tuồng như “phụ trợ”: vấn đối - hỏiđáp, thư -thông điệp, ký - ghi chép [thời ấy chúng thường mang tính chất văn học], tự - lờinói đầu, bạt - lời nói sau sách, tạp ký - các trước tác hỗn tạp, truyện, và cuối cùng, cũngnhư ở Tiêu Thống trong Văn tuyển, là những thể loại gắn với nghi lễ mai táng. Rõ ràng ởtác giả đời Minh, các thể loại thuần túy có tính văn chương đã lùi xuống hàng thứ hai.Nhưng truyền thống của Tiêu Thống không chết. Ở thế kỷ XVII, Tiết Hy đã soạntuyển tập Minh văn tại [Các tác phẩm văn đời Minh đang tồn tại] theo mẫu của Văntuyển,tức là đề cao phú, thi và xếp sau chúng các thể loại liên quan đến hoạt động của vua[cáo, chiếu ] và hành pháp của quan lại; tiếp theo là các tác phẩm chức năng: các loại bàitựa, các bút ký về tranh, về đền chùa, các phác thảo về phong cảnh, những bia kỷ niệm,v.v và cuối cùng - các thể loại nghi lễ gắn với tang lễ. Tiết Hy đã tiến hành phân loại tỷmỷ gần như là kĩ vào bậc nhất, tách ra đến 72 tiểu loại. Nhưng các thể loại thuần túy ở ôngít hơn - có gần 50; các tiểu loại thì hình thành nhờ có việc chia các thể loại thành các hạng:ví dụ,tự - lời nói đầu, được chia thành 12 hạng tùy thuộc vào chỗ lời nói đầu viết cho kiểutrước tác nào [kinh điển nho giáo hay tuyển tập thi ca, hay là cho bài văn tả cuộc du lịch,hay vựng tập các chiếu chỉ, v.v ].Từ đầu thế kỷ XVIII và trong thế kỷ XIX, khi văn phái Đồng Thành桐 成 派cóảnh hưởng lớn đến văn học Trung Quốc, đã xuất hiện những tuyển tập được soạn bởi cácđại biểu hàng đầu như Diêu Nại [1731-1815] với Cổ văn phân loại tuyển tập, Tăng QuốcPhiên [1811-1873] với Bách gia chư tử tạp ký. Diêu Nại và Tăng Quốc Phiên, cũng nhưTrình Mẫn Chính, đã đặt lên hàng đầu bảng thứ hạng không phải những thể loại vănchương [thi, phú] mà là luận [thường luận về kinh điển], sau đó là tự và bạt, rồi ở vị trí thứba -tấu - báo cáo lên nhà vua hay các tác phẩm bàn về các vấn đề chính trị hay cuộc sốngxã hội viết mô phỏng tấu.Diêu Nại cắt giảm số lượng thể loại rất gay gắt trong bộ tuyển của mình [13 thay vì39 ở Tiêu Thống], nói chung không hạ cố đến các văn bản thơ ca [tuyển tập của ông gọi làtuyển cổ văn chứ không phải các tác phẩm văn chương nói chung], còn phú và tán thìđược xếp cho ở vị trí 12 và 11. Tăng Quốc Phiên, định sửa chữa tình hình, đã đặt lên vị tríthứ hai từ phú - văn xuôi có vần, chủ yếu được dùng trong các kỳ thi quốc gia, nhưng ôngvẫn làm lơ các tác phẩm văn chương thuần túy.Sự tái phát chủ nghĩa thực dụng nho giáo vào một thời đại đã rất gần với chúng ta,khi mà ở Trung Quốc đã xuất hiện những mẫu mực tuyệt vời không chỉ trong thơ ca mà cảtrong văn xuôi tự sự [tiểu thuyết, truyện ngắn] và kịch, rõ ràng là sự lỗi thời. Nhưng đồngthời, nó cho thấy không chỉ tính chất bảo thủ của hệ tư tưởng nho giáo chính thống mà còncả tính bảo thủ trong các quan điểm của các nhà văn Trung Quốc, họ vẫn hướng về nhữngquan niệm trung đại về văn học, về hệ thống thể loại của thời trung đại. Như chúng ta thấy,hệ thống này có tính cách hỗn hợp; trong nó tồn tại những thể loại được phân biệt cả theodấu hiệu đề tài, cả theo dấu hiệu hình thức, cả theo dấu hiệu chức năng. Sự tản mạn quá rõvà tính ngẫu nhiên dễ thấy của sự phân chia thể loại, khi mà thể loại được tách biệt do ảnhhưởng trực tiếp của một văn bản nào đó vì nhu cầu thực tiễn, cho thấy thiếu vắng nhữngtiêu chí thể loại rành mạch. Nhưng đồng thời thường xuyên lại cảm thấy khuynh hướngthống ngự nhằm tách biệt các thể loại nghệ thuật [không phụ thuộc vào nguồn gốc haychức năng của chúng] theo nguyên tắc phong cách, theo nguyên tắc trang sức của ngôn từ[vần, tiết tấu, từ vựng đặc biệt hay sự kết hợp các từ, v.v ] là nguyên tắc, nói cho cùng,quyết định ranh giới khái niệm văn - văn chương. Và tình hình đó thực tế được bảo lưucho đến cuộc cách mạng văn học đầu thế kỷ XX, gắn liền với phong trào Ngũ Tứ năm1919.Vì ngôn ngữ văn học Trung Quốc là văn ngôn hình thành vào đầu công nguyên, đãphổ biến rộng rãi ở các nước Viễn Đông - Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, nơi chúngđược gọi là kanbun, hanmun, hán văn [đều có nghĩa là tiếng Hán], nên ở các nước nàycũng đã bắt rễ bền vững những hình thức Trung Hoa, cả thơ lẫn văn xuôi [chủ yếu là vănxuôi trang nhã phi tự sự]. Hơn nữa, cái gọi là những nền văn học “trẻ” của khu vực vănhóa Viễn Đông đã phát triển dưới ảnh hưởng trực tiếp của nền văn học “già”, cổ nhất trongkhu vực - văn học Trung Hoa, vốn có truyền thống văn học dài lâu và hệ thống văn họchình thành vững chắc, như chúng tôi đã cố gắng chỉ ra. Trong khu vực văn hóa này đã diễnra cái mà Likhachev gọi là sự di thực hay là sự bứng trồng, khi nói đến “sự bứng trồng vănhóa Byzantin sang mảnh đất Xlavơ”, mà kết quả là “không chỉ những tác phẩm riêng rẽ,mà cả những lớp văn hóa đã di thực sang mảnh đất Nga và ở đây bắt đầu một chu kỳ pháttriển mới trong những điều kiện hiện thực lịch sử mới” [Likhachev, 1968, tr.12-13].Rõ ràng, có thể nói về hai kiểu bứng trồng: một kiểu gắn liền với sự tất yếu phảidịch các tác phẩm ra tiếng địa phương như điều đó đã diễn ra ở nước Nga và Bungaria, vàmột kiểu được thực hiện trong điều kiện của một ngôn ngữ văn học, không đòi hỏi côngtác phiên dịch chuyên biệt nào. Sự bứng trồng kiểu thứ hai chúng ta quan sát thấy ở cácnước khu vực Viễn Đông. Đi cùng với ngôn ngữ văn học từ Trung Quốc đến các nướcláng giềng là cả một hệ thống thể loại văn xuôi phi tự sự và thơ ca đã hình thành cố định ởTrung Quốc vào đời Đường [thế kỷ VII-VIII], tức là đúng vào lúc các nền văn học kháccủa khu vực bắt đầu hình thành.Nếu chúng ta chú ý đến các tuyển tập được người Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Namtrung đại biên soạn từ các tác phẩm văn học nước mình, thì sẽ thấy họ giới thiệu trênthực tế tất cả các thể loại cơ bản của văn chương Trung Quốc, đồng với các thể loại cả hệthống và thứ hạng của chúng cũng được tiếp thụ. Ví dụ như trong tuyển tập văn học củangười Nhật soạn thế kỷ XI Bản triều văn túy [Những kiểu mẫu văn học xuất sắc nhất củabản triều] gồm các tác phẩm của các nhà văn Nhật Bản thế kỷ IX - thế kỷ XI, trong Đôngvăn tuyển [Tuyển tập văn học phương Đông] soạn ở Triều Tiên thế kỷ XV, vàtrong Hoàng Việt thi văn tuyển [thế kỷ XVIII], chúng ta phát hiện thấy cũng sự xếp sắpthứ tự các thể loại như trong Văn tuyển của Tiêu Thống [các soạn giả Triều Tiên và ViệtNam vay mượn cả tên gọi “văn tuyển” cho các tuyển tập của mình].Tuyển tập của Nhật Bản bắt đầu với phú, sau đó là thi và rồi sau đó đến se [chiếucủa hoàng đế] và các thể văn chức năng khác. Tuyển tập của Việt Nam bắt đầu từ phú cổsau đó xếp ký, rõ ràng vì đây chủ yếu là thể loại thiên về miêu tả và thậm chí có tính chấtcủa truyện ngắn; tiếp theo là các bài minh khắc trên đá, các bài tế văn, các bài chiếu chỉ vàcác thể loại văn sự vụ khác.Tuyển tập của Triều Tiên mở đầu với sa [từ], pu [phú], si [chiếu chỉ] và các thể loạivăn học chức năng khác, trong đó ta thấy có ký, tự, và trôn - truyện, chemun - tế văn và cácthể loại gắn với nghi lễ mai táng.Điều thú vị là khác với người Trung Quốc, các soạn giả Nhật Bản và Triều Tiên đãđưa vào các bộ tuyển tập của họ những kiểu mẫu văn học Phật giáo trong các thể loạinhưhuxugan [phát nguyện], gammon [nguyện văn] của người Nhật và tochanmun [đạotrường văn - lời văn cúng của Phật giáo] của người Triều Tiên. Điều đó gắn liền với thựctế là ở Nhật Bản và Triều Tiên, đạo Phật trong nhiều thế kỷ đã đóng vai trò quốc giáo nêncó vai trò lớn hơn nhiều so với ở Trung Quốc [cũng như ở Việt Nam].Vấn đề về hệ thống văn học du nhập từ bên ngoài và đời sống của hệ thống đó trongnhững điều kiện mới gắn liền với trình độ phát triển của nền văn học địa phương. Bởi thếnên, ví dụ, ở Nhật Bản, nơi vào thời điểm di thực hệ thống văn học Trung Quốc, đã hìnhthành truyền thống văn học truyền miệng khá bền vững và cái chính là truyền thống vănhọc viết, cả thơ lẫn văn xuôi tự sự, thì hệ thống văn học vay mượn dẫu sao vẫn chỉ là mộthiện tượng đóng kín, cùng tồn tại với các thể loại văn học riêng của Nhật Bản. Ở TriềuTiên và ở Việt Nam quá trình này diễn ra hơi khác: ở đây các thể loại Trung Quốc di thựccùng với ngôn ngữ văn học trong nhiều thế kỷ hãy còn là hình thức duy nhất của sáng tácvăn học viết.Cuối cùng, xin phép so sánh – dẫu là trên bề mặt và hời hợt - hệ thống thể loại trong nhữngnền văn học trung đại cách xa nhau và hoàn toàn không có liên lạc với nhau như văn họcTrung Quốc và văn học Nga [trước thế kỷ XVIII]. Với toàn bộ tính đặc thù của cả hai nềnvăn học, bản thân tính chất của sự hình thành thể loại lại mang tính tương đồng về mặt loạihình học. Trong văn học Nga cổ, Likhachev viết, “những đặc điểm thuộc về văn chương củasự trình bày không đóng vai trò là cơ sở để tách biệt thể loại, cùng với các tiêu chí khác,đóng vai trò này là bản thân đối tượng, đề tài mà tác phẩm hướng đến” [Likhachev, 1979,tr.58]. Hệt như ta đã thấy, các nhân tố ngoài văn học, dẫn đến sự tản mạn hóa hệ thống thểloại, như trong văn học Nga, đã chiếm ưu thế trong quá trình ra đời của các thể loại văn họctrung đại Trung Quốc. Nhưng cũng cần lưu ý một lần nữa là rất có thể, do kết quả của địnhhướng thế tục của nền văn học Trung Quốc [do đặc trưng của thế giới quan Nho giáo] nênkhác với văn học Nga, trong nó, từ rất sớm đã có ý thức về nguyên lý “tính văn chương” vàsự phân khai các thể loại giàu tính nghệ thuật ra khỏi các thể loại nghi lễ, chức năng bằngcách này cách khác có thể được thấy dấu ấn từ đầu công nguyên

Video liên quan

Chủ Đề