Thực trạng đa dạng sinh học ở Việt Nam hiện nay

Moitruong.net.vn

– Vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam đã trở thành vấn đề cấp thiết dưới áp lực của gia tăng dân số, khai thác quá mức tài nguyên sinh vật và sự đánh đổi với ưu tiên phát triển kinh tế .

Việt Nam được ghi nhận là một trong 16 quốc gia có tính đa dạng sinh học [ĐDSH] cao trên thế giới, với nhiều kiểu hệ sinh thái, các loài sinh vật.

Theo báo cáo số liệu thống kê về đa dạng sinh học cho thấy, tại Việt Nam đã phát hiện được gần 12.000 loài thực vật, trong đó khoảng 2.300 loài được sử dụng làm lương thực, khoảng 3.300 loài được sử dụng làm dược liệu, thức ăn gia súc, lấy gỗ, lấy dầu và nhiều sản phẩm quý khác. Về hệ động vật, Việt Nam có khoảng 310 loài thú; 840 loài chim; 296 loài bò sát; 162 loài ếch nhái; 2.472 loài cá [trong đó có 472 loài cá nước ngọt] và hàng chục nghìn loài động vật không xương sống ở cạn, ở nước và trong đất…

Có thể nói, đa dạng sinh học đã mang lại lợi ích trực tiếp cho con người và đóng góp vai trò to lớn cho nền kinh tế nước nhà.
Tuy nhiên, cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam đang đối diện với nguy cơ suy thoái đa dạng sinh học và sự mất cân bằng sinh thái diễn ra mạnh mẽ.

Tại lễ mít-tinh kỷ niệm Ngày quốc tế đa dạng sinh học năm 2019 diễn ra sáng 22/5, Bộ TN&MT nhấn mạnh, công tác bảo tồn đa dạng sinh học cần một sự hợp tác đa bên, sự vào cuộc mạnh mẽ của toàn xã hội mới có thể thực hiện được mục tiêu đề ra của Công ước Đa dạng sinh học cũng như mục tiêu của chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học.

Những năm qua, tài nguyên ĐDSH của Việt Nam đang trên đà suy giảm một cách đáng báo động; các hệ sinh thái bị thu hẹp, bị chia cắt và suy giảm chất lượng; nguồn gien bị thất thoát, mai một…

Nguyên nhân của tình trạng này là do áp lực gia tăng dân số kéo theo việc khai thác quá mức tài nguyên sinh vật, không bảo đảm cho việc tái tạo lại. Ngoài ra, công tác quản lý bảo tồn ĐDSH thời gian qua còn nhiều bất cập về quy định pháp luật, chính sách, thể chế và tổ chức bộ máy quản lý. Hệ thống các chính sách, quy định pháp luật về bảo tồn ĐDSH nói chung và bảo tồn loài nói riêng chưa đồng bộ. Đối với vấn đề bảo vệ các loài hoang dã, đặc biệt là các loài nguy cấp, quý, hiếm còn có sự chồng chéo về phân quyền, trách nhiệm quản lý giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Tại Vườn quốc gia Tràm Chim [Đồng Tháp], trong những năm gần đây, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu [BĐKH] đang làm cho nhiệt độ ngày càng tăng, dẫn đến tình trạng hạn hán, nguồn nước bị cạn kiệt rất dễ xảy ra cháy rừng. Những tác động đó đã làm ảnh hưởng đến điều kiện sống của một số loài chim di cư, đặc biệt là Sếu đầu đỏ, vì một khi thiếu bãi ăn, thiếu nước uống, sếu sẽ lập tức bỏ đi.

Cùng với đó, đối với các loài thực vật, BĐKH sẽ làm cho hệ sinh thái trong Vườn quốc gia Tràm Chim ảnh hưởng nặng nề Đặc biệt là quần xã rừng tràm, nếu bị ngập nước lâu ngày sẽ bị đổ ngã hoặc kém phát triển, còn nếu quá khô rất dễ gây cháy ảnh hưởng đến đa dạng sinh học của Vườn quốc gia Tràm Chim.

Theo TS Dương Văn Ni – Trường Đại học Cần Thơ, các nguyên nhân chính ảnh hưởng đến đa dạng sinh học của Vườn quốc gia Tràm Chim là thay đổi hệ sinh thái, khai thác quá mức, ô nhiễm, dịch bệnh, loài ngoại lai và BĐKH. Việc thay đổi hệ sinh thái là do nước ở Vườn quốc gia Tràm Chim trao đổi chỉ qua các cống, thời gian khô giảm, thời gian ngập gần như quanh năm, cây tràm xâm lấn tất cả các quần xã khác, chất hữu cơ chưa phân hủy tích tụ nhiều hơn trên mặt đất và trong kênh rạch là điều kiện để các loài ngoại lai phát triển.

Cục trưởng Bảo tồn ÐDSH [Bộ Tài nguyên và Môi trường] Phạm Anh Cường cho biết: Trong điều kiện BÐKH, các hệ sinh thái [HST] bị chia cắt chắc chắn sẽ phản ứng kém cỏi hơn trước những sự thay đổi và có thể sẽ không tránh khỏi sự mất mát các loài sinh vật với tốc độ rất cao.

Theo dự báo của Viện Khoa học Khí tượng – Thủy văn và BÐKH [Bộ Tài nguyên và Môi trường], vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình năm của nước ta tăng khoảng 2, 3oC; mực nước biển có thể dâng từ 75 cm đến 1 m so với trung bình thời kỳ từ 1980 đến 1999.

Do vậy, nếu theo dự báo thì khoảng 20% đến 38% diện tích đồng bằng sông Cửu Long và khoảng 11% diện tích đồng bằng sông Hồng bị ngập nước. Cũng với kịch bản này, sẽ có 78 sinh cảnh tự nhiên quan trọng [27%], 46 khu bảo tồn [33%], chín khu vực ÐDSH có tầm quan trọng bảo tồn quốc gia và quốc tế [23%] và 23 khu có đa dạng quan trọng khác [21%] ở Việt Nam bị tác động nghiêm trọng…

Ðáng chú ý, nhiệt độ trung bình tăng sẽ làm thay đổi vùng phân bố và cấu trúc quần thể sinh vật của nhiều HST. Các nhà khoa học đã chứng minh được sự di cư của một số loài do sự ấm lên của Trái đất.

Theo kết quả điều tra sơ bộ tại Vườn quốc gia Hoàng Liên cho thấy, đang có sự dịch chuyển lên cao của một số loài cây đặc trưng thuộc các đai thực vật khác nhau. Hiện tượng này được gọi là hiện tượng “dịch chuyển vành đai nhiệt lên cao”. Trong số đó, có loài thông Vân San Hoàng Liên [loài đặc hữu], trước đây chỉ sinh trưởng ở độ cao từ 2.200 m đến 2.400 m, thì nay chỉ có thể gặp ở độ cao từ 2.400 m đến 2.700 m.

Ngoài ra, BÐKH cùng với sự suy giảm diện tích rừng đầu nguồn, sử dụng tài nguyên nước không hợp lý dẫn tới hiện tượng lũ lụt, lũ quét, sạt lở đất… xảy ra ngày càng nhiều, hậu quả ngày càng nghiêm trọng đối với đời sống con người và môi trường.

Cùng với các hoạt động buôn bán, sự xâm nhập của các loài ngoại lai hiện nay đang là mối đe dọa lớn lên tính ổn định và đa dạng của các HST ở Việt Nam thời gian qua.

Để chủ động ứng phó với sự suy thoái ÐDSH, bên cạnh việc tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về ÐDSH, các nhà khoa học cho rằng, Việt Nam cần nghiên cứu và chủ động đề xuất các giải pháp giảm đến mức thấp nhất ảnh hưởng, ứng phó và thích nghi với BÐKH.

Triển khai giải pháp bảo tồn và phát triển ÐDSH thông qua chính sách cụ thể để thu hút các thành phần trong xã hội tham gia; thành lập khu cứu hộ để bảo vệ các loài có nguy cơ tuyệt chủng cao do sự BÐKH. Thực thi và triển khai có hiệu quả những công ước quốc tế có liên quan tới BÐKH và ÐDSH mà Việt Nam đã ký kết với cộng đồng quốc tế thời gian qua.

Ngoài ra, trong kế hoạch bảo tồn ÐDSH quốc gia và các địa phương, cần đặc biệt lưu ý các giải pháp ứng phó phù hợp kịch bản của BÐKH để bảo vệ và duy trì nguồn gien trong các HST nông nghiệp, lâm nghiệp, quản lý bền vững và phát triển rừng đầu nguồn.

Xây dựng các phương án phù hợp để chuyển đổi cơ cấu cây trồng với các giống phù hợp [chịu hạn, chịu nhiệt], điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch cho các khu bảo tồn ở vùng đất thấp… Bộ Tài nguyên và Môi trường cần tiếp tục hoàn thiện và cụ thể hóa các chính sách về bảo tồn ÐDSH; tăng cường bảo tồn và phát triển ÐDSH ở cả các cấp độ HST, loài và nguồn gien.

Đồng thời hạn chế, tiến tới chấm dứt khai thác, buôn bán trái phép và khai thác quá mức tài nguyên sinh vật, nhất là các loài quý, hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng.

Nếu chúng ta biết quản lý, giám sát để sử dụng một cách bền vững thì đây chính là cơ sở bảo đảm cho sự phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, du lịch bền vững; là nền tảng của y dược truyền thống phương Đông; là ngân hàng gien vô cùng quý giá tạo giống vật nuôi, cây trồng, phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước.

Ngọc Ánh [T/h]

Share on FacebookShare on TwitterShare on Linkedin

BÁO CÁO RÀ SOÁT, ĐÁNH GIÁ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌCI. HIỆN TRẠNG ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY1. Khái niệm Đa dạng sinh họcTheo Công ước về Đa dạng sinh học [ĐDSH] được đưa ra năm 1992[1] tại hội nghị Liên hợp quốc về môi trường và sự phát triển, ĐDSH được định nghĩa là toàn bộ sự phong phú của các thế giới sống và các tổ hợp sinh thái mà chúng là thành viên, bao gồm sự đa dạng bên trong và giữa các loài và sự đa dạng của các hệ sinh thái. Mức độ ĐDSH của một quần xã sinh vật thể hiện ở 3 dạng: đa dạng về loài – là tính đa dạng các loài trong một vùng; đa dạng di truyền – là sự đa dạng về gen trong một loài; đa dạng hệ sinh thái – là sự đa dạng về môi trường sống của các sinh vật trong việc thích nghi với điều kiện tự nhiên của chúng. Tính đa dạng là một phạm trù bao trùm toàn bộ các thành phần tạo ra của hệ sinh thái đảm bảo sự duy trì một hệ sinh thái đa dạng và phong phú. Theo Luật ĐDSH năm 2008 của Việt Nam, ĐDSH được định nghĩa như sau: “ĐDSH là sự phong phú về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái trong tự nhiên” [khoản 5 Điều 3]. Có thể nhận thấy rằng khái niệm ĐDSH theo pháp luật của Việt Nam cụ thể, rõ ràng và chính xác hơn so với khái niệm trong Công ước ĐDSH nêu trên. Điều này thể hiện ở một số điểm như: [i] Luật ĐDSH xác định rõ sự phong phú về “gen” còn Công ước ĐDSH lại nêu chung chung là “sự đa dạng bên trong”; [ii] Luật ĐDSH xác định rõ đa dạng về “loài sinh vật” chứ không chỉ là “các loài” như trong Công ước ĐDSH; [iii] Luật ĐDSH xác định rõ sự đa dạng về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái trong “tự nhiên” còn Công ước ĐDSH chưa nêu rõ ý này. Bên cạnh đó, Luật ĐDSH còn định nghĩa “Bảo tồn đa dạng sinh học” là việc bảo vệ sự phong phú của các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, đặc thù hoặc đại diện; bảo vệ môi trường sống tự nhiên thường xuyên hoặc theo mùa của loài hoang dã, cảnh quan môi trường, nét đẹp độc đáo của tự nhiên; nuôi, trồng, chăm sóc loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; lưu giữ và bảo quản lâu dài các mẫu vật di truyền [khoản 1 Điều 3].2. Khái quát thực trạng Đa dạng sinh học của Việt Nam hiện nayViệt Nam được biết đến như là một trung tâm ĐDSH của thế giới với các hệ sinh thái tự nhiên phong phú và đa dạng. Nằm ở vùng Đông Nam châu Á với diện tích khoảng 330.541 km2, Việt Nam là một trong 16 nước có tính đa dạng sinh học cao trên thế giới [Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2002 - Chiến lược quốc gia quản lý hệ thống khu bảo tồn của Việt Nam 2002 - 2010]. Đặc điểm về vị trí địa lý, khí hậu... của Việt Nam đã góp phần tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái và các loài sinh vật. Về mặt địa sinh học, Việt Nam là giao điểm của các hệ động, thực vật thuộc vùng Ấn Độ - Miến Điện, Nam Trung Quốc và Inđo - Malaysia. Các đặc điểm trên đã tạo cho nơi đây trở thành một trong những khu vực có tính ĐDSH cao của thế giới, với khoảng 10% số loài sinh vật, trong khi chỉ chiếm 1% diện tích đất liền của thế giới [Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2002 - Báo cáo quốc gia về các khu bảo tồn và Phát triển kinh tế]. ĐDSH có vai trò rất quan trọng đối với việc duy trì các chu trình tự nhiên và cân bằng sinh thái. Đó là cơ sở của sự sống còn và thịnh vượng của loài người và sự bền vững của thiên nhiên trên trái đất. Theo ước tính giá trị của tài nguyên ĐDSH toàn cầu cung cấp cho con người là 33.000 tỷ đô la mỗi năm [Constan Za et al-1997]. Đối với Việt Nam nguồn tài nguyên ĐDSH trong các ngành Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thủy sản hàng năm cung cấp cho đất nước khoảng 2 tỷ đô la [Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt Nam - 1995][2]. Các hệ sinh thái rừng, đất ngập nước, biển, núi đá vôi,… với những nét đặc trưng của vùng bán đảo nhiệt đới, là nơi sinh sống và phát triển của nhiều loài hoang dã đặc hữu, có giá trị, trong đó có những loài không tìm thấy ở nơi nào khác trên thế giới. Việt Nam cũng là nơi được biết đến với nhiều nguồn gen hoang dã có giá trị, đặc biệt là các cây thuốc, các loài hoa, cây cảnh nhiệt đới,… Quỹ Bảo tồn động vật hoang dã [WWF] đã công nhận Việt Nam có 3 trong hơn 200 vùng sinh thái toàn cầu; Tổ chức bảo tồn chim quốc tế [Birdlife] công nhận là một trong 5 vùng chim đặc hữu; Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới [IUCN] công nhận có 6 trung tâm đa dạng về thực vật[3]. Tuy nhiên, hiện nay ĐDSH ở nước ta đang bị suy thoái nhanh. Diện tích các khu vực có các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị thu hẹp dần. Số loài và số lượng cá thể của các loài hoang dã bị suy giảm mạnh. Nhiều loài hoang dã có giá trị bị suy giảm hoàn toàn về số lượng hoặc bị đe dọa tuyệt chủng ở mức cao. Các nguồn gen hoang dã cũng đang trên đà suy thoái nhanh và thất thoát nhiều. Suy thoái ĐDSH dẫn đến mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của con người, đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước. Nhiều hệ sinh thái và môi trường sống bị thu hẹp diện tích và nhiều Taxon loài và dưới loài đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng trong một tương lai gần[4]. Những giá trị của ĐDSH lại chưa được nhận thức một cách đầy đủ. Sự khai thác quá mức các giống loài, nguồn gen động thực vật để phục vụ cho các nhu cầu trước mắt của con người, đặc biệt là trong một số năm gần đây đã đẩy nhanh tốc độ suy thoái ĐDSH ở Việt Nam. Những mối đe doạ chính đối với sự ĐDSH của Việt Nam là tình trạng khai thác rừng quá mức, tập quán du canh du cư, tình trạng lấn chiếm đất trồng trọt, ô nhiễm nguồn nước, sự xuống cấp của môi trường ven biển và những đòi hỏi đặt ra với nông dân trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Những sức ép khác là tình trạng dân số tăng nhanh và các hoạt động phát triển nông nghiệp ở mức độ cao. Nhiều dự án xây dựng cơ sở hạ tầng đang được đề xuất - như đập nước hay đường quốc lộ - và những dự án này cũng gây nguy hại tới ĐDSH, nếu không được quy hoạch và quản lý tốt. Thách thức lớn nhất của Việt Nam là phải nhìn nhận sự ĐDSH quý báu của mình như là một tài sản quý và làm thế nào để cân đối nhu cầu phát triển với nhu cầu bảo tồn[5]. Bên cạnh đó, việc sử dụng phân bón, các loại thuốc bảo vệ mùa màng, thuốc kích thích tăng trưởng một cách bừa bãi trong phát triển nông nghiệp ở nước ta cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm đi số lượng các loài sinh vật có ích, giảm tính ĐDSH, làm mất vệ sinh an toàn thực phẩm, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người, làm ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí. Một số hiện trạng và diễn biến suy thoái ĐDSH ở nước ta có thể được mô tả như sau[6]:- Hầu hết các hệ sinh thái tự nhiên nước ta hiện đang phải chịu sức ép nặng nề từ các hoạt động phát triển kinh tế. Hệ sinh thái rừng tự nhiên có nhiều biến động lớn trong hơn nửa thế kỷ qua. Độ che phủ rừng tăng nhưng phần lớn diện tích tăng là rừng trồng, nếu tính về giá trị ĐDSH thì cao. Hầu hết các vùng tự nhiên còn lại đều đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Diện tích rừng nguyên sinh chưa bị tác động chỉ còn tồn tại trong các vùng rừng nhỏ, rời rạc tại các khu vực núi cao của miền Bắc và Tây Nguyên. Đây là mối đe doạ lớn đối với các cấu thành ĐDSH của rừng bao gồm cả các loài thực vật và động vật phụ thuộc vào rừng. - Xu hướng quần thể của rất nhiều loài thực vật đang suy giảm, càng ngày càng có nhiều loài hơn phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Hoạt động buôn bán động thực vật hoang dã chưa giảm bớt cũng là một trong những nguyên nhân tác động xấu tới số lượng các loài trong tự nhiên.- Hệ sinh thái nông nghiệp và giống cây trồng, vật nuôi bị ảnh hưởng. Các giống cây trồng mới có năng suất cao ngày càng được đưa nhiều vào sản xuất và chiếm diện tích ngày càng lớn. Do đó các giống địa phương ngày càng bị thu hẹp diện tích, vì vậy nhiều nguồn gen quý của địa phương, đặc biệt là các nguồn gen chống chịu sâu bệnh bị mai một.- Từ năm 1990 đến nay, diện tích rừng liên tục tăng, trong đó rừng trồng tăng rất nhanh, chỉ sau chưa đầy 15 năm rừng trồng đã tăng lên 4 lần. Diện tích rừng tự nhiên tăng lên trên 1 triệu ha, nhưng chủ yếu là rừng phục hồi. Đến năm 2004, tỷ lệ che phủ của rừng đạt 36,7%. Tuy nhiên, chất lượng của rừng vẫn chưa được cải thiện. Phần lớn rừng tự nhiên hiện nay thuộc nhóm rừng nghèo, trong khi đó rừng nguyên sinh chỉ còn 0,75 triệu ha phân bố rải rác. Những khu rừng tự nhiên ít bị tác động, còn tương đối nguyên sinh và có giá trị cao về đa dạng sinh học tập trung chủ yếu ở các khu rừng đặc dụng. Riêng rừng trồng có diện tích trên 2 triệu hecta, chiếm tỷ lệ 18% diện tích có rừng. Rừng trồng công nghiệp hiện nay mang tính thuần loại về cây trồng cao, do vậy tính ĐDSH thấp.- Trong những năm gần đây, việc khai thác và sử dụng đất ngập nước diễn ra một cách ồ ạt thiếu quy hoạch, nhiều diện tích rừng ngập mặn và các vùng đất ngập nước khác bị chuyển thành đất canh tác nông nghiệp hoặc nuôi trồng thuỷ sản, làm cho diện tích đất ngập nước bị thu hẹp, tài nguyên suy giảm, kéo theo đó là các tai biến xói lở, bồi tụ và môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Diện tích đầm nuôi tôm tăng dần theo thời gian thì diện tích rừng ngập mặn cũng giảm dần tương ứng. Trước đây, rừng ngập mặn trải dài suốt dọc bờ biển, nhưng hiện nay diện tích này đã giảm đi rất nhiều, gây suy thoái hệ sinh thái rừng ngập mặn làm thiệt hại không nhỏ cho vùng đất ngập nước ven biển và cho các ngành kinh tế quan trọng trong khu vực.- ĐDSH biển bị khai thác quá mức. Nguồn lợi hải sản suy giảm nhanh: trữ lượng hải sản của Việt Nam năm 2003 là 3.072.800 tấn, giảm 25% so với năm 1990 [4,1 triệu tấn]. Nhiều loài tôm, cá kinh tế đã bị giảm sút cả về số lượng lẫn chất lượng, thay vào đó thành phần cá tạp trong sản lượng tăng lên. Danh sách các loài thuỷ hải sản bị đe doạ, có nguy cơ tuyệt chủng tăng từ 15 loài, năm 1989, lên 135 loài vào năm 1996. Các rạn san hô đang suy giảm về độ phủ. Hầu hết các rạn san hô đang bị đe doạ, trong đó có 50% ở mức bị đe doạ cao và 17% ở mức bị đe doạ rất cao. Khai thác quá mức đang bị đánh giá là mối đe doạ lớn cho khoảng một nửa số rạn san hô. Có nhiều nơi độ phủ giảm đến trên 30%. Điều này cho thấy rằng rạn san hô đang bị phá huỷ và có chiều hướng suy thoái.- Hiện nay, nguồn gen [cây trồng, vật nuôi và cây thuốc] đang được các cơ quan, tổ chức trong nước, quốc tế nghiên cứu, thu thập, khai thác và phát triển thành thương phẩm có giá trị kinh tế. Tuy nhiên, trong phần lớn trường hợp, chưa có sự chia sẻ lợi ích giữa người sở hữu và người khai thác, sử dụng nguồn gen, cũng như chia sẻ một phần lợi nhuận thu được để góp phần duy trì và phát triển tài nguyên. Tri thức bản địa ở nước ta rất phong phú. Tri thức bản địa đã được thừa nhận như một nguồn tài nguyên quan trọng không kém các nguồn tài nguyên hữu hình khác. Tuy nhiên, tri thức bản địa cũng đang bị mất mát nhiều theo thời gian do chưa ý thức được tầm quan trọng của nguồn tài nguyên này. Ngoài ra, cũng như nguồn gen, việc chia sẻ lợi ích giữa người sở hữu và người khai thác, sử dụng tri thức bản địa không lúc nào cũng được thực hiện một cách công bằng. Để bảo tồn tri thức bản địa cần có sự phối hợp giữa người dân, nhà nước và các nhà khoa học. Việc xây dựng các chính sách khai thác, phát triển và chia sẻ lợi ích nguồn gen và tri thức bản địa chưa được quan tâm đúng mức.Các nguyên nhân gây suy thoái ĐDSH[7]:- Chuyển đổi mục đích sử dụng đất thiếu quy hoạch.- Khai thác và sử dụng không bền vững tài nguyên sinh học.- Các loài sinh vật ngoại lai xâm lại.- Ô nhiễm môi trường.- Cháy rừng.- Thiên tai.- Quản lý còn nhiều bất cập.Như vậy, có thể thấy có nhiều nguyên nhân khác nhau làm cho nguồn tài nguồn tài nguyên ĐDSH của Việt Nam đã và đang bị suy giảm. Trong đó, nguyên do cơ bản nhất là ĐDSH luôn thay đổi cùng sự tiến hoá của sinh vật trong quá trình hình thành loài mới, trong sự tham gia vào hoặc sự mất đi của một loài. Nguyên nhân gây ra các biến đổi đó là do sự biến đổi bất thường của tự nhiên hoặc do hoạt động của con người. Để khắc phục tình trạng trên Chính phủ Việt Nam đã đề ra nhiều biện pháp, cùng với các chính sách kèm theo nhằm bảo vệ tốt hơn tài nguyên ĐDSH của đất nước. Tuy nhiên, thực tế đang đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến bảo tồn ĐDSH cần phải giải quyết như quan hệ giữa bảo tồn và phát triển bền vững hoặc tác động của biến đổi khí hậu đối với bảo tồn ĐDSH,… Trước khi có Luật ĐDSH được ban hành năm 2008, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là do còn nhiều tồn tại, bất cập trong các quy định của pháp luật về ĐDSH[8] gây ra nhiều khó khăn trong quản lý, bảo tồn và phát triển ĐDSH. Sau khi Luật này được ban hành, có hiệu lực vào ngày 01/07/2009, hệ thống pháp luật về ĐDSH đã được thống nhất, quy về một mối. Tuy nhiên, nhận thức được bảo tồn ĐDSH là vấn đề phức tạp với nhiều nội dung khác nhau [nhất là trong điều kiện Luật mới ban hành] nên việc đánh giá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này cũng như hiệu quả áp dụng, thi hành trong giai đoạn hiện nay là một điều cần thiết để hoàn thiện các quy định cũng như đẩy mạnh việc thực thi trong thực tế.II. TỔNG QUAN PHÁP LUẬT BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC TẠI VIỆT NAM1. Tổng quan pháp luật bảo tồn Đa dạng sinh học của Việt Nam trước khi có Luật Đa dạng sinh họcTrước khi Luật ĐDSH được ban hành, vấn đề bảo tồn ĐDSH được quy định trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó pháp luật môi trường đề cập đến bảo tồn ĐDSH ở mức độ bao trùm, khái quát nhất. Những nguyên tắc, những quy định chung về bảo tồn ĐDSH được đề cập trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát triển các quy định cụ thể về ĐDSH[9]. Hệ thống pháp luật giai đoạn này quy định những nội dung của vấn đề bảo tồn ĐDSH như sau: [i] các quy định về nguyên tắc và trách nhiệm bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH; [ii] các quy định về bảo tồn và phát triển bền vững hệ sinh thái tự nhiên; [iii] các quy định về bảo tồn và phát triển bền vững loài hoang dã; [iv] các quy định về nguồn gen; [v] các quy định về an toàn sinh học. Căn cứ vào những tiêu chí chung để đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật, có thể thấy một số điểm hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về ĐDSH tại Việt Nam trước khi Luật ĐDSH được ban hành như sau:- Các quy định pháp luật về bảo vệ ĐDSH còn tản mạn và hiệu quả điều chỉnh trên thực tế chưa cao, nên suy thoái ĐDSH vẫn đang là vấn đề nhức nhối trong sự nghiệp bảo vệ môi trường ở nước ta.Vấn đề bảo vệ ĐDSH thời kỳ này được quy định tản mạn ở rất nhiều văn bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng chủ yếu tập trung trong các văn bản pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ và kiểm dịch thực vật, quản lý và bảo hộ giống cây trồng và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, nội dung bảo vệ ĐDSH chỉ là một nội dung nhỏ trong những văn bản đó và mỗi văn bản tiếp cận vấn đề bảo vệ ĐDSH theo một góc độ khác nhau, do đó có thể thấy các quy định về bảo vệ ĐDSH còn tản mạn và hiệu quả điều chỉnh trên thực tế chưa cao[10]. Có thể thấy một số quy định pháp luật về bảo vệ ĐDSH còn mang tính tuyên ngôn hay ở mức chung chung, thiếu tính cụ thể, không có tính khả thi, nhiều quy định mang tính định hướng nên khó áp dụng trên thực tế. Các quy định không được pháp điển hóa trong một văn bản pháp lý có hiệu lực cao, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến các nội dung chính của ĐDSH đã làm hạn chế rất nhiều đến hiệu quả áp dụng pháp luật[11]. Bên cạnh đó, các quy định về bảo vệ gen, kiến thức bản địa, di truyền cây thuốc,... còn mờ nhạt.- Pháp luật về ĐDSH thời kỳ này chưa đảm bảo tính thống nhất.- Pháp luật về ĐDSH thời kỳ này còn chưa hoàn thiện, thiếu một số quy định quan trọng. Cụ thể: thiếu các quy định về cơ chế tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích, quyền đối với tri thức truyền thống của cộng đồng, các quy định về cơ chế kiểm soát các sinh vật lạ xâm hại, các quy định về hình thức bảo tồn ngoại vi,...; các quy định về bảo tồn các loài hoang dã hầu như mới chỉ được đề cập trong các văn bản pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng mà chưa được đề cập trong các lĩnh vực pháp luật khác.2. Tổng quan pháp luật bảo tồn Đa dạng sinh học của Việt Nam sau khi ban hành Luật Đa dạng sinh họcHệ thống văn bản pháp luật về bảo tồn ĐDSH hiện nay bao gồm:2.1. Luật Đa dạng sinh học năm 2008Như đã phân tích ở phần trên, hệ thống pháp luật về bảo tồn ĐDSH của Việt Nam trong một thời gian dài đã thể hiện những bất cập lớn, chưa đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất,... nên hiệu quả áp dụng chưa cao, dẫn đến việc bảo vệ ĐDSH còn hạn chế, chưa duy trì và phát triển được hệ thống bảo tồn ĐDSH cũng như tính đa dạng trong hệ thống ĐDSH của quốc gia. Bên cạnh đó, các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia vẫn chưa được nội luật hóa hoàn toàn vào hệ thống pháp luật trong nước. Với những đòi hỏi về mặt lý luận cũng như thực tiễn như vậy, để hoàn thiện hệ thống pháp luật về ĐDSH, luật hóa có hệ thống và thống nhất các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện các cam kết quốc tế về ĐDSH phục vụ mục tiêu phát triển bền vững đất nước, Luật ĐDSH được Quốc hội nước ta ban hành ngày 13 tháng 11 năm 2008 đã tạo nên một hành lang pháp lý thống nhất điều chỉnh việc bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH, đáp ứng được nhu cầu cấp bách của hoạt động bảo tồn ĐDSH hiện hay và trong tương lai. Luật ĐDSH bao gồm 8 chương với 78 điều luật quy định các vấn đề cơ bản nhất của việc bảo tồn và phát triển ĐDSH; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH[12]. Luật ĐDSH năm 2008 được ban hành đã đánh dấu một bước phát triển lớn của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường[13]. Luật đã hoàn thành nhiệm vụ pháp điển hóa các quy định về bảo vệ ĐDSH được đề cập rải rác trong nhiều lĩnh vực pháp lý thành một lĩnh vực pháp lý cụ thể, độc lập, hỗ trợ và tạo thế cân bằng với lĩnh vực pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường. Có thể nhận thấy một số điểm sau:- Luật ĐDSH [có hiệu lực từ ngày 01/07/2009] là văn bản đầu tiên và có hiệu lực pháp lý cao nhất trong việc bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH trong thời điểm hiện nay. - Luật ĐDSH 2008 là nền tảng cơ bản về mặt pháp lý cho công tác bảo tồn ở nước ta.- Luật ĐDSH tập trung điều chỉnh các vấn đề: quy hoạch bảo tồn ĐDSH; bảo tồn và phát triển bền vững các loài sinh vật; bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên di truyền; hợp tác quốc tế về ĐDSH; cơ chế, nguồn lực bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH.2.2. Các bộ luật khác có liên quan đến lĩnh vực bảo tồn Đa dạng sinh học- Luật Bảo vệ môi trường năm 2005[14].- Luật Bảo vệ phát triển rừng năm 2004.- Luật Thuỷ sản năm 2003.- Luật Hải quan năm 2001.- Luật sửa đổi bổ sung Luật Hải quan năm 2005.- Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.2.3. Các văn bản khác của Chính phủ về bảo tồn Đa dạng sinh học- Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam [Định hướng phát triển bền vững của Việt Nam].- Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.- Quyết định số 79/2007/QĐ-TTg ngày 31/05/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Kế hoạch hành động Quốc gia về ĐDSH đến năm 2020 thực hiện Công ước ĐDSH và Nghị định thư Cartagena về An toàn sinh học”.- Quyết định số 845/1995/QĐ-TTg ngày 22/12/1995 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Kế hoạch hành động ĐDSH của Việt Nam”.- Quyết định số 1479/2008/QĐ-TTg ngày 13/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn vùng nước nội địa đến năm 2020.- Quyết định số 102/2007/QĐ-TTg ngày 10/07/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể tăng cường năng lực quản lý an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen đến năm 2020.- Nghị định số 48/2002/NĐ-CP ngày 22/4/2002 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung danh mục thực vật, động vật hoang dã quý hiếm ban hành kèm theo Nghị định số 18/HĐBT ngày 17/10/1992 của HĐBT quy định danh mục thực vật rừng, động vật rừng quý hiếm và chế độ quản lý, bảo vệ]. - Nghị định số 86/2005/NĐ-CP ngày 08-7-2005 về quản lý và bảo vệ di sản văn hóa dưới nước.- Nghị định số 109/2003/NĐ-CP về bảo tồn và phát triển bền vững của vùng đất ngập nước[15]...2.4. Các văn bản khác do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành- Thông tư số 18/2004/TT-BTNMT của Bộ TN&MT hướng dẫn thực hiện Nghị định số 109/2003/NĐ-CP.- Quyết định số 04/2004/QĐ-BTNMT phê duyệt Kế hoạch hành động về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước.Một vài nhận xét sơ bộ[16]:- Luật ĐDSH 2008 ra đời đã tạo ra một cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác bảo tồn ĐDSH.- Luật ĐDSH 2008 đề cập một cách tổng thể và toàn diện các vấn đề bảo tồn ĐDSH.- Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao là cơIII. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC CỦA VIỆT NAM1. Về tính hợp hiến, hợp phápPháp luật ĐDSH hiện nay nhìn chung đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp. Các văn bản pháp luật liên quan đến bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH [đặc biệt là Luật ĐDSH] có nội dung không vi phạm Hiến pháp 1992 [sửa đổi năm 2001]; tuân thủ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong hoạt động bảo vệ môi trường và được ban hành đúng trình tự, thủ tục cũng như thẩm quyền theo quy định của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay.2. Các quy định pháp luật về Đa dạng sinh học hiện nay được pháp điển hóa thành một lĩnh vực pháp lý cụ thể, thống nhất trong một văn bản điều chỉnh chung: Luật Đa dạng sinh học năm 2008Đây có thể được xem là một bước tiến trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung cũng như pháp luật môi trường nói riêng của Việt Nam trong thời gian qua. Việc ban hành Luật ĐDSH năm 2008 đã thể hiện sự nhận thức đúng đắn tầm quan trọng và sự cần thiết trong việc điều chỉnh thực trạng bảo tồn ĐDSH hiện nay của nước ta. Một hành lang pháp lý được xây dựng góp phần hệ thống hóa các quy định rải rác trước đó cũng như bổ sung thêm những nội dung mới nhằm điều chỉnh đầy đủ và thực thi có hiệu quả pháp luật bảo tồn ĐDSH – một trong những phương thức bảo vệ và phát triển tài nguyên thiên nhiên của trái đất. Sau khi Luật ĐDSH bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/07/2009, Luật này đã trở thành văn bản quan trọng nhất điều chỉnh lĩnh vực quan trọng này. Bên cạnh đó, có thể nhận thấy Luật ĐDSH đã quy định những vấn đề chung nhất về bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH còn các vấn đề mang tính đặc thù vẫn được quy định trong các luật chuyên ngành [như Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Thủy sản,…]. Điều này đã dẫn đến một vấn đề là một số vấn đề sẽ bị trùng lặp khiến cho việc áp dụng trong thực tế sẽ khá khó khăn. Trong quá trình xây dựng Luật ĐDSH, các nhà làm luật đã cố gắng xây dựng ranh giới rõ ràng giữa luật này với các luật chuyên ngành hiện hành nhưng vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Ví dụ một trường hợp như sau:Theo Luật ĐDSH 2008, Khu bảo tồn [KBT] được phân thành: i] Vườn quốc gia; ii] Khu dự trữ thiên nhiên; iii] KBT loài - sinh cảnh; iv] Khu bảo vệ cảnh quan [Điều 16]. Như vậy, so với Luật BVMT 2005, đã có sự khác biệt về Khu dự trữ sinh quyển. So với Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 đã có sự khác nhau về KBT loài - sinh cảnh, Khu dự trữ thiên nhiên. So với Luật Thuỷ sản năm 2003, sự khác biệt đó là Khu bảo vệ cảnh quan. Vấn đề đặt ra là cách phân loại các KBT theo Luật ĐDSH 2008 có thay thế cách phân loại các KBT hiện hành theo các Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật Thủy sản năm 2003, Nghị định số 109/2003/NĐ-CP về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước hay không? Nếu áp dụng các quy định về hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật, theo đó “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau”[1] thì việc phân loại lại các KBT theo Luật ĐDSH 2008 sẽ được tiến hành trên thực tế như thế nào? Trong thời gian bao lâu? Mặc dù Luật đã có quy định chuyển tiếp [Khoản 1 Điều 76] nhưng quy định đó chỉ có giá trị đối với việc thành lập các KBT chứ không có ý nghĩa đối với việc phân loại chúng.Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là hệ thống pháp luật ĐDSH đã được thống nhất trong một đạo luật có hiệu lực pháp lý cao. Bởi vậy, hoạt động bảo tồn ĐDSH từ nay trở về sau sẽ được điều chỉnh thông qua chủ yếu bằng Luật ĐDSH. Việc xây dựng được một hành lang pháp lý riêng biệt về ĐDSH của Việt Nam như hiện nay là một cố gắng lớn, mang lại nhiều điều tích cực.3. Hệ thống pháp luật Đa dạng sinh học hiện nay nhìn chung bảo đảm tính thống nhất, tính phù hợp với hệ thống văn bản pháp luật hiện hành nhưng vẫn tồn tại những mâu thuẫn, xung đột nhất địnhPháp luật về ĐDSH hiện nay đảm bảo được tính thống nhất nội tại ở mức độ cao của hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Các khía cạnh của ĐDSH cũng như các nội dung quan trọng của bảo tồn ĐDSH trước đây chưa được pháp luật điều chỉnh hoặc điều chỉnh ở mức sơ sài nay đã được Luật ĐDSH 2008 quy định đầy đủ, toàn diện, như: vấn đề quy hoạch bảo tồn ĐDSH; vấn đề tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích, vấn đề kiểm soát sinh vật lạ xâm hại, tiếp cận bảo tồn cảnh quan... Tuy nhiên cũng có một số vấn đề còn chưa thống nhất, cần được làm rõ hơn nữa. Có thể nhìn nhận quan điểm này qua việc phân tích một số nội dung điển hình trong Luật ĐDSH năm 2008 sau đây[2]:Về những nội dung liên quan đến quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh họcLuật ĐDSH 2008 rất phù hợp với Luật Đất đai năm 2003 về Quy hoạch bảo tồn [QHBT] ĐDSH [từ Điều 21 đến Điều 30 Mục 2 Chương II - Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất]. Theo đó, quy hoạch sử dụng đất là một trong những căn cứ quan trọng để lập quy hoạch tổng thể bảo tồn ĐDSH của cả nước[3].Về cơ bản, có sự phù hợp giữa Luật ĐDSH 2008 với Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 [Luật BVMT 2005] về QHBT ĐDSH. Tuy nhiên, có một số vấn đề cần phải làm rõ hơn như sau:Một là, theo Luật ĐDSH 2008, một trong những nội dung của quy hoạch tổng thể bảo tồn ĐDSH của cả nước là đánh giá môi trường chiến lược dự án quy hoạch tổng thể bảo tồn ĐDSH [khoản 7 Điều 9]. Vấn đề cần phải làm rõ là quy hoạch tổng thể bảo tồn ĐDSH của cả nước là dạng quy hoạch nào trong số các quy hoạch được quy định tại Điều 14 Luật BVMT 2005 mà theo đó, chủ dự án phải có trách nhiệm đánh giá tác động môi trường?Thứ hai, khoản 2 Điều 28 và khoản 5 Điều 29 Luật BVMT 2005 quy định về QHBT thiên nhiên và trách nhiệm lập QHBT thiên nhiên. Vậy có sự khác biệt nào giữa QHBT thiên nhiên với QHBT ĐDSH hay không? Mối quan hệ giữa chúng là gì?Ngoài ra, cần xem xét tính khách quan trong quy trình lập, thẩm định, phê duyệt QHBT ĐDSH đối với hai quy định sau: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức lập, thẩm định, điều chỉnh QHBT ĐDSH của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua”[4]; “Bộ, cơ quan ngang Bộ căn cứ vào quy hoạch tổng thể bảo tồn ĐDSH của cả nước tổ chức lập, phê duyệt, điều chỉnh QHBT ĐDSH thuộc phạm vi quản lý”[5]. Một chủ thể vừa chịu trách nhiệm tổ chức lập quy hoạch vừa tổ chức thẩm định, phê chuẩn quy hoạch liệu có đảm bảo tính khách quan của các hoạt động này hay không?Về những nội dung liên quan đến bảo tồn và phát biển bền vững các loài sinh vậtViệc quản lý, bảo vệ các loài sinh vật được pháp luật đề cập khá sớm. Từ năm 1972, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã giao nhiệm vụ cho Hội đồng Chính phủ quy định những loại thực vật, động vật quý và hiếm trong rừng cần phải đặc biệt bảo vệ. Từ đó đến nay, Danh mục các loài động vật, thực vật quý hiếm cần có chế độ quản lý bảo vệ nghiêm ngặt thường xuyên được hoàn thiện. Hiện đang tồn tại khá nhiều Danh mục loài sinh vật cần được bảo vệ, như:- Danh mục các loài thực vật, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm được ban hành kèm theo Nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30/3/2006 của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm;- Danh mục các loài động vật, thực vật hoang dã quy định trong các Phụ lục của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp được ban hành kèm theo Quyết định số 54/2006/QĐ-BNN ngày 5/7/2006 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn;- Danh mục các loài thuỷ sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam cần được bảo vệ, phục hồi và phát triển được ban hành Quyết định số 82/2008/QĐ-BNN ngày 7/7/2008 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn ...Tuy nhiên, việc xác định Danh mục các loài nêu trên chủ yếu dựa vào các căn cứ định tính chứ chưa có tiêu chí cụ thể. Hiện mới chỉ có một số quy định chung về việc phân nhóm đối với thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm. Theo đó, Nhóm I gồm những loài thực vật rừng, động vật rừng có giá trị đặc biệt về khoa học, môi trường hoặc có giá trị cao về kinh tế, số lượng quần thể còn rất ít trong tự nhiên hoặc có nguy cơ tuyệt chủng cao; Nhóm II gồm những loài thực vật rừng, động vật rừng có giá trị về khoa học, môi trường hoặc có giá trị cao về kinh tế, số lượng quần thể còn ít trong tự nhiên hoặc có nguy cơ tuyệt chủng [khoản 2 Điều 2 Nghị định số 32/2006/NĐ-CP]. Tương tự, Pháp lệnh Giống cây trồng năm 2004, Pháp lệnh Giống vật nuôi năm 2004 cũng chỉ đề cập đến việc thu thập, bảo tồn trao đổi nguồn gen cây trồng quý, hiếm mà chưa có tiêu chí xác định giống cây trồng, giống vật nguy cấp, quý hiếm. Điều này cũng xảy ra đối với vi sinh vật và nấm nguy cấp quý hiếm. Thêm nữa, để Danh mục các loài quý hiếm trong quá nhiều văn bản pháp luật như đã nêu trên sẽ gây trở ngại cho việc tiếp cận văn bản và áp dụng thi hành.Bên cạnh đó, theo Luật ĐDSH 2008, loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ có phạm vi đối tượng rộng hơn so với các quy định trước đây[6], đó là không chỉ bao gồm loài động vật, thực vật nguy cấp, quý, hiếm mà còn bao gồm cả giống cây trồng, giống vật nuôi, vi sinh vật và nấm nguy cấp, quý hiếm. Đây là điểm cần phải có sự thống nhất về nhận thức do Danh mục các loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ sẽ bao gồm cả giống cây trồng, giống vật nuôi, vi sinh vật và nấm nguy cấp, quý hiếm. Điều này cũng có nghĩa là còn cần phải xử lý mối quan hệ giữa các quy định của Luật ĐDSH 2008 với các quy định của Pháp lệnh Giống cây trồng năm 2004, Pháp lệnh Giống vật nuôi năm 2004.Ngoài ra, theo Luật ĐDSH 2008, còn có thêm hai Danh mục nữa cần được ban hành, bao gồm: i] Danh mục loài hoang dã bị cấm khai thác trong tự nhiên; và ii] Danh mục loài hoang dã được khai thác có điều kiện trong tự nhiên[7]. Điều này cũng có nghĩa là số lượng Danh mục các loài cần bảo vệ lại tăng lên, nguy cơ trùng lặp, chồng chéo trong các quy định nêu trên là điều cần phải được dự liệu.Mặc dù có nhiều loại Danh mục các loài nguy cấp, quý hiếm cần ưu tiên bảo vệ như đã nêu trên, song pháp luật lại thiếu các quy định về căn cứ, trình tự, thủ tục để đưa vào hoặc đưa ra khỏi Danh mục các loài nguy cấp, quý hiếm. Điều này đã ít nhiều gây tranh cãi giữa các nhà khoa học, các nhà chuyên môn trong suốt thời gian qua.Đối với các cơ sở bảo tồn ĐDSH, mặc dù hiện tại đã có một số quy định về điều kiện được cấp giấy chứng nhận đối với các cơ sở nuôi, nhốt; các trung tâm cứu hộ động thực vật rừng quý hiếm, song các quy định về việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận cơ sở bảo tồn ĐDSH cũng được dự báo là sẽ gây nhiều tranh cãi, đặc biệt là quy định chuyển tiếp đối với các loại giấy phép, giấy chứng nhận đã cấp cho các cơ sở bảo tồn ĐDSH, cơ sở nuôi sinh sản, nuôi sinh trưởng, trồng cấy nhân tạo các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm trước khi Luật này có hiệu lực nếu phù hợp với quy định của Luật này thì vẫn có giá trị thi hành. Mối quan tâm của các đối tượng có liên quan đến việc nuôi, cứu hộ các loài sinh vật nguy cấp, quý hiếm là nếu các giấy phép đó không phù hợp với các quy định của Luật ĐDSH 2008 thì hậu quả pháp lý xảy ra là gì? Các cơ sở mới thành lập sẽ do cơ quan nào cấp phép?Ngoài ra, các quy định về cứu hộ loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ được xem là có thủ tục quá rắc rối trong khi vấn đề cứu hộ lại đòi hỏi phải tiến hành nhanh chóng: “Tổ chức, cá nhân phát hiện cá thể loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ bị mất nơi sinh sống tự nhiên, bị lạc, bị thương hoặc bị bệnh có trách nhiệm báo ngay cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ sở cứu hộ nơi gần nhất. Khi nhận được thông tin, Uỷ ban nhân dân cấp xã phải kịp thời báo cáo với cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc báo cơ sở cứu hộ nơi gần nhất” [khoản 2 Điều 47].Về những nội dung liên quan đến bảo tồn và phát biển bền vững tài nguyên di truyềnMột trong những mục tiêu của Công ước Đa dạng sinh học là sự chia sẻ công bằng và hợp lý các lợi ích có được từ việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên di truyền [nguồn gen] thông qua việc tiếp cận các nguồn gen, chuyển giao hợp lý các công nghệ liên quan đến nguồn gen, công nhận các quyền sở hữu các nguồn gen, công nghệ gen và các tài trợ thích đáng[8]. Các quy định về gen được đề cập chủ yếu trong các văn bản pháp luật về giống cây trồng, giống vật nuôi. Đối chiếu với Luật ĐDSH 2008 cho thấy, có sự khác biệt về khái niệm nguồn gen so với Pháp lệnh Giống cây trồng năm 2004, Pháp lệnh Giống vật nuôi năm 2004.Các quy định của Luật ĐDSH 2008 cho thấy, Luật này điều chỉnh toàn bộ nguồn gen trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là điều cần phải được thống nhất về nhận thức và phải được giải

Video liên quan

Chủ Đề