ĐÁNH GIÁ THỰC
TRẠNG VẤN ĐỀ TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN THEO HỌC CHẾ TÍN
CHỈ VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP CẢI THIỆN
Khoa
Thủy sản
1.
MỞ ĐẦU
Đào tạo theo hình thức
tín chỉ là phương pháp đào tạo có nhiều ưu thế so
với phương thức đào tạo truyền thống. Hiện nay việc
áp dụng hình thức này sao cho phù hợp với điều kiện
và hoàn cảnh của mỗi trường là vấn đề lớn và khó
đối với cán bộ quản lý, cán bộ giảng dạy và cả
sinh viên.
Theo hình thức tín chỉ thì
sinh viên là trung tâm, ngoài kiến thức giảng viên truyền
đạt trên lớp thì sinh viên phải tự học, tự nghiên
cứu thêm tài liệu. Việc tự học của sinh viên giữ vai
trò rất quan trọng, nó là nhân tố trực tiếp nâng cao
chất lượng đào tạo ở các trường đại học. Bên
cạnh đó tự học còn góp phần nâng cao hoạt động trí
tuệ của sinh viên trong việc tiếp thu và hiểu tri thức
mới, rèn luyện cho sinh viên có cách độc lập suy nghĩ,
độc lập giải quyết các vấn đề khó khăn trong quá
trình học, giúp sinh viên tự tin hơn trong việc lựa chọn
cuộc sống của mình, và thúc đẩy sinh viên lòng ham học,
ham hiểu biết, vươn tới đỉnh cao của khoa học, sống
có hoài bão, có ước mơ.
2.
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN KHOA THỦY
SẢN
2.1.
Nhận thức của sinh viên về vấn đề tự học theo hệ
thống tín chỉ
Tự học có vai
trò vô cùng quan trọng trong quá trình học đại học của
sinh viên. Tự học nhằm phát huy tính tự giác học và
nghiên cứu. Việc
tự học đối với sinh viên có vai trò hết sức quan
trọng vì qua đó góp phần giúp cho sinh viên rèn luyện
khả năng tư duy và sáng tạo của cá nhân. Hầu hết sinh
viên đều nhận thức rằng vấn đề tự học là quan
trọng khi áp dụng theo học chế tín chỉ (83%),
tuy nhiên việc tự học này đồng nghĩa với hình thức
học cá nhân (62,1%),
không phụ thuộc vào người khác và không cần sự cộng
tác của bạn bè. Sinh viên cho rằng đây là yêu cầu thối
thiểu của một sinh viên. Ngoài ra phải giao lưu học hỏi
ở các bạn khác ngành, các lớp đàn anh để nâng cao
trình độ và nắm bài tốt hơn. Học theo chương trình
tín chỉ hóa nên việc tự học là rất quan trọng, tuy
nhiên để nhằm bổ sung thêm kiến thức sinh viên thường
tạo ra những nhóm học để các bạn dễ dàng trao đổi
kiến thức và giúp đỡ nhau trong học tập. Có lớp cho
rằng việc tự học có nghĩa là học theo nhóm (61,3%).
Sinh viên cho rằng tự học theo nhóm mang lại hiệu quả
cao nhưng cũng có ý kiến cho rằng vào học chỉ lo trò
chuyện, cười giỡn không thể tiếp thu được nhiều nên
hiệu quả kém. Theo ý kiến của một số sinh viên muốn
học nhóm có hiệu quả cao thì cần tuân thủ một số
điều quan trọng như không nói chuyện, đùa giỡn trong
khi học, phải có một trưởng nhóm có kiến thức vững
và biết cách truyền tải lượng kiến thức đó một
cách hiệu quả nhất, biết điều tiết nhiệt độ
học và biết phân bố thời gian học hợp lý và sinh động
để các thành viên học không bị chán.
Thời
gian dành cho tự học là trên 2 giờ/ngày (57,8%).
Đây là con số khá lý tưởng nếu như thực tế diễn ra
như vậy.
Phân
tích về vai trò quan trọng của Trung tâm học liệu Trường
và Thư viện Khoa Thủy sản, qua thống kê cho thấy phần
đông sinh viên rất ít đến những nơi này để học hỏi
(tỉ lệ lần lượt là 68,2%
và 52,9%).
Tự học ở nhà riêng là giải pháp được ưa chuộng
hiện nay của sinh viên (51,6%),
trong khi số sinh viên đến trường học ở Thư viện là
18,2% và học bất
cứ ở phòng trống của các nhà học là 30,2%.
Khi
tự học sinh viên có thể chủ động được quỹ thời
gian mà không bị ràng buộc, có thể học bất cứ lúc
nào. Từ đó giúp sinh viên nắm kiến thức vững chắc và
có thể hiểu sâu và nhớ kỹ hơn các vấn đề (tự học
nên nhớ lâu hơn). Ngoài ra, việc tự học còn nâng cao
tinh thần trách nhiệm trong công tác làm việc theo nhóm,
khi đó sinh viên có thể thể hiện tính sáng tạo trong tư
duy và linh hoạt nhạy bén trong suy nghĩ, điều quan trọng
hơn hết là sinh viên có thể đi sâu hơn so với thực tế
nhằm rèn luyện kỹ năng phân tích tình hình và đưa ra
quyết định, đây là một yếu tố cần và đủ để sau
này khi rời khỏi ghế nhà trường sinh
viên sẽ không bỡ ngỡ khi làm việc ở môi trường thực
tế. Việc tự học giúp cho sinh viên có thể tiếp thu tốt
bài giảng trên lớp hay củng cố lại các kiến thức đã
học, mở mang thêm nhiều kiến thức mới qua sách vở và
mạng Internet phục vụ cho chuyên ngành nghiên cứu, nâng
cao kỹ năng làm việc nhóm, tạo
môi trường học tập tiến bộ và tiên tiến,.
2.2.
Phương tiện và trang thiết bị hỗ trợ cho việc tự học
Đánh
giá về nguồn tư liệu và sách tham khảo chuyên môn ở
Trung tâm học liệu Trường Đại học Cần Thơ và Thư
viện Khoa Thủy sản, số liệu thống kê cho thấy có
51,7%
không rõ được nguồn sách ở Trung tâm học liệu và
hoàn toàn không biết có đủ hay không. Có 47,8%
sinh viên cho rằng nguồn tư liệu và sách chuyên môn ở
Thư viện Khoa Thủy sản còn thiếu chưa đáp ứng cho việc
học tập của sinh viên. Tuy nhiên con số thống kê này
chưa nói lên được thực trạng khảo sát vì có đến
65,5%
rất ít đến Trung tâm học liệu Trường và 63,8%
rất ít đến Thư viện Khoa Thủy sản. Điều này phản
ánh thực trạng là sinh viên không đến hoặc rất ít đếnnhững nơi kể
trên và như thế thiếu thông tin khi trả lời các câu hỏi
đề ra.
Do
yêu cầu tự học nên đòi hỏi sinh
viên phải có khả
năng ngoại ngữ để tra cứu thông tin, đọc tài liệu.
Tuy nhiên, trình độ ngoại ngữ của sinh viên còn nhiều
hạn chế nên rất khó để tiếp cận với các nguồn tài
liệu nước ngoài. Một chỉ số khác cho thấy có đến
86,2%
số lượng sinh viên xác định sự hạn chế của bản
thân là vấn đề ngoại ngữ khi tiếp cận nguồn tài
liệu ở Trung tâm học liệu Trường, kể cả tài liệu
chuyên môn ở Thư viện Khoa Thủy sản. Học phí cho sinh
viên khi đăng ký học ngoại ngữ tại trung tâm ngoại ngữ
còn cao nên
những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn không đủ điều
kiện kinh tế để được học,..
Bàn
về việc sinh viên được phép sử dụng phòng máy tính
công của nhà trường, Khoa và qui chế được phép sử
dụng để truy cập tài liệu, số liệu khảo sát cho thấy
lần lượt là 80,6%
và 66,5%.
Điều này cho thấy sinh viên hiểu rõ được tầm quan
trọng của công nghệ thông tin là công cụ cho học tập.
Tuy nhiên trong thực tế đa số sinh viên vẫn còn ngại và
cho rằng phòng máy tính công của nhà trường và Khoa
không đáp ứng cho sinh viên khi cần học tập. Để kết
luận vấn đề này, cần khảo sát thêm số liệu thống
kê về tình trạng sinh viên sử dụng máy tính công của
nhà trường và ở Khoa, mức độ sử dụng của sinh viên
năm 1, 2, 3 và 4 có khác nhau hay không.
Phòng máy tính
công đã phát huy tác dụng, tạo điều kiện thuận lợi
cho sinh viên tham khảo tài liệu, tuy nhiên cần mở
rộng thời gian hoạt động để sinh viên có dịp
vào học ban đêm do quá tải giờ lên lớp.
Do
không có nhiều phòng tự học nên rất nhiều sinh viên
phải ngồi học ngay tại hành lang nhà học, điều này
ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả học tập. Một
nghịch lý đang tồn tại: sinh viên thường tự học ngoài
giờ nhưng hầu hết các Thư viện lại đóng cửa ngoài
giờ. Nguồn tài liệu Thư viện Khoa phần lớn đọc tại
chỗ, thiếu phiên bản. Máy tính bị hư hỏng nhiều, mạng
kết nối chậm gây mất nhiều thời gian, thiếu máy tính
trong những ngày đăng ký môn học. Nhiều phòng học thiếu
quạt và bị hư hỏng bàn ghế nhiều. Phòng máy tính
không đủ số lượng phục vụ sinh viên trong những ngày
cao điểm (cuối học kỳ, chuẩn bị báo cáo giữa kỳ).
Cần có giám sát, quản lý việc sử dụng máy tính vì
không ít sinh viên sử dụng không đúng mục đích (chơi
games, đọc báo,). Phòng
máy tính tuy được trang bị nhiều nhưng vẫn chưa đáp
ứng đủ nhu cầu của sinh viên. Mặt khác, kỹ năng tìm
kiếm thông tin trên Internet phục vụ cho học tập của
sinh viên chưa cao.
2.3.
Nắm vững qui chế học vụ và chương trình đào tạo
Có
đến 66,7%
số lượng sinh viên được khảo sát cho thấy không nắm
rõ về qui chế học vụ, kể cả qui chế học vụ mới
thay đổi trong năm học này (tháng 08/2010). Điều này ảnh
hưởng khá nhiều đến tiến trình học tập: lập kế
hoạch học tập theo chương trình đào tạo khuyến khích
ở Khoa đề ra, phân bố các môn học theo thời gian học,
số tín chỉ được phép đăng ký trong trường hợp học
một ngành hay cùng lúc 2 ngành.
Nắm
vững nội dung chương trình đào tạo và tính tiên quyết
cũng như thứ tự của môn học là rất quan trọng cho
sinh viên trong quá trình lập kế hoạch học tập. Có
64,2%
số lượng sinh viên trả lời là có tham khảo chương
trình đào tạo ngành mình học, tuy nhiên qua thực tế của
việc lập kế hoạch học tập còn khá nhiều trường hợp
chưa hiểu được tính thứ tự cần thiết khi bố trí
các môn học trong các học kỳ.
Học
ngành 2 là sự uyển chuyển trong việc học tập theo hệ
thống tín chỉ, giúp cho sinh viên cùng lúc học được 2
ngành, và trong một thời gian nhất định sẽ tốt nghiệp
với 2 bằng cấp đại học trong tay. Tuy nhiên điều này
chỉ thích hợp cho sinh viên có học lực khá trở lên và
hiểu biết khá cặn kẽ về chương trình đào tạo của
2 ngành, sự liên quan và hỗ trợ nội dung cho nhau trong
quá trình học tập. Một số sinh viên thấy bạn bè đăng
ký học ngành 2, vội vàng đăng ký theo phong trào và chưa
hiểu biết nhiều về ngành 2 mà mình muốn học, đến
khi vào cuộc thì thực tế cho thấy không đủ sức theo
đuổi, cuối cùng làm đơn xin nghỉ học ngành 2. Điều
này ảnh hưởng khá nhiều đến việc tự học của sinh
viên.
2.4. Chuẩn bị nội dung
khi đến lớp học tập
Việc
đầu tư tự học để chuẩn bị cho buổi học kế
tiếp thường không được quan tâm đúng mức. Có
đến 86,2%
số lượng sinh viên không có thói quen xem bài trước
khi lên lớp. Điều này nói lên sự quá tải trong
quá trình học và không còn thời gian để tự học
ở nhà. Khi nghe giảng trên lớp có 72,4%
số lượng sinh viên ghi chép ý chính, chủ yếu dựa
vào nội dung giáo trình hoặc bài giảng in sẵn để
theo dõi.
Đa
số sinh viên do chuẩn bị chưa kỹ nên vấn đề đặt
câu hỏi trên lớp rất ít xảy ra, qua khảo sát cho
thấy có 63,8%
số lượng sinh viên thỉnh thoảng mới tham gia đặt
câu hỏi. Điều này cho thấy sự thụ động của
sinh viên trong quá trình học và không có tính khám
phá, năng động sáng tạo trong khi nghe giảng trên lớp.
Ngoài
ra số liệu thống kê còn cho thấy sinh viên ít chịu
đọc lại những nội dung đã học, số liệu khảo
sát cho thấy có 77,6%
số lượng sinh viên xác nhận là thỉnh thoảng mới
đọc lại nội dung đã học.
Có
48,3%
số lượng sinh viên cho rằng tìm hiểu kiến thức
bên ngoài giáo trình, sách chuyên môn để bổ sung
trong quá trình học là quan trọng và cần phải
thường xuyên thu thập. Truy cập bổ sung kiến thức
chuyên môn từ nguồn Internet vẫn là chủ yếu, có
đến 63,8%
số lượng sinh viên đồng ý với quan điểm này.
Việc
tự học khuyến khích tinh thần học tập của bản thân
do có động lực tác động từ giảng viên, cố gắng tìm
tòi thu thập thông tin từ bên ngoài để theo kịp bài
giảng ngày tiếp theo của giảng viên. Việc tự học còn
gắn kết mối quan hệ bạn bè để trao đổi học hỏi
lẫn nhau, giúp sinh viên có khả năng làm việc độc lập,
có khả năng xử lý tình huống đột xuất, khắc phục
thói quen lười biếng, xem nhẹ việc học của mỗi cá
nhân.
2.5.
Những hạn chế của việc tự học
Theo
ý kiến của sinh viên thì một trong những nguyên nhân khó
thực hiện việc tự học là do phải học quá nhiều môn
học trong một học kỳ, đặc biệt là những sinh viên có
tham gia học ngành 2 đã đăng ký tối đa số tín chỉ
trong một học kỳ (25tín
chỉ). Do đó sinh viên không còn thời gian cho việc tự
học.
Bàn
về giải pháp để bắt buộc sinh viên tham gia tự học,
số liệu khảo sát cho thấy có 50,7%
cho
là giáo viên nên dạy theo chuyên đề và buộc sinh viên
phải làm seminar theo nhóm ở các buổi lên lớp; có 32,7%
đề nghị giáo viên nên khuyến khích sinh viên tự học
là chính. Số liệu phân tích trên cho thấy nếu dạy theo
chuyên đề thì giáo viên phải chọn cách dạy sao cho phù
hợp (dạy theo chuyên đề, dạy theo tình huống, dạy theo
block.) và sinh viên phải đầu tư nhiều vào nội dung
môn học để làm seminar. Thực tế cho thấy, thời gian
trước đây sinh viên học theo hệ niên chế, giáo viên
môn học nào cũng yêu cầu sinh viên làm seminar theo dạng
chuyên đề, mất khá nhiều thời gian. Vấn đề này còn
nhiều tranh cãi và không đồng tình về phía sinh viên do
quá tải về đầu tư công sức cùng lúc cho nhiều môn
học khác nhau.
Theo
ý kiến của sinh viên đề xuất với Khoa nên tổ chức
định kỳ hàng năm hội thảo về vấn đề tự học theo
học chế tín chỉ, qua đó giúp cho sinh viên luôn ý thức
về tầm quan trọng của việc tự học và tìm ra giải
pháp mới áp dụng cho phương pháp tự học. Theo số liệu
khảo sát thì đa số sinh viên cho rằng việc xác lập
phương pháp học tập theo hình thức tự học là rất
quan trọng, việc này quyết định thành công cho việc học
theo hệ thống tín chỉ (56,7%).
Qua phân tích thực trạng
việc tự học của sinh viên cho thấy còn khá nhiều điều
phải bàn để cải thiện việc tự học của sinh viên.
Những trở ngại chính sinh viên cần phải khắc phục
trong quá trình học tập:
- Khó khăn đầu tiên là
thời gian. Theo qui chế của nhà trường, trong 1 học kì
sinh viên có thể đăng kí tối đa 20 tín chỉ. Điều này
đồng nghĩa với việc mỗi tuần sinh viên phải tham gia
20 tiết học trên lớp, cộng với 40 tiết tự học thì
tổng tiết học trong một tuần mà sinh viên phải học là
60 tiết. Trong khi đó, 1 tuần chỉ có 54 tiết (theo thời
khóa biểu, 1 ngày có 9 tiết, 1 tuần có 6 ngày học nên
số tiết trong 1 tuần là 9 x 6 = 54). Thời gian buổi tối
hầu như là dành cho việc học Anh văn hoặc Tin học. Kết
quả của phép tính là: sinh viên phải dành 60 tiết cho
việc học trong khi chỉ có 54 tiết trong 1 tuần!
-
Tính thụ động của sinh viên, lười đọc sách, ôn bài
ở nhà , chỉ đợi đến giờ lên lớp là vào học, không
đầu tư kiến thức chuyên môn mặc dù đã có trang bị
giáo trình, bài giảng sẵn có trong tay.
-
Chỉ học những gì giáo viên nêu ở lớp, nếu giáo viên
tóm tắt vấn đề thì sinh viên mới nắm được, đây là
kiểu học ở bậc phổ thông, mang tính từ chương.
-
Chưa nắm được phương pháp tự học và cách học ở
bậc đại học, nhất là bước chuẩn bị nội dung ở
nhà cho lần lên lớp kế tiếp. Thật ra lần lên lớp kế
tiếp cách nhau 1 tuần , không thể nói là không có thời
gian chuẩn bị cho 1 môn học!
-
Một trở ngại lớn nữa là vấn đề mưu sinh, sinh viên
gặp phải điều kiện kinh tế khó khăn, phải đi làm
thêm, đôi khi không dự lớp và không có thời gian tự
học, vì thế chất lượng học tập kém và không theo nổi
việc học.
-
Vấn đề ngoại ngữ là một trở ngại lớn đối với
việc sinh viên tự học. Khi đã bước sang năm thứ 2 và
3, tất yếu là sinh viên cần phải đọc thêm nhiều tài
liệu chuyên môn, đa phần là sách nước ngoài, tài liệu
tiếng Việt không nhiều, vì thế sinh viên không thể tích
lũy kiến thức chuyên ngành theo kiểu tự học qua sách,
tài liệu chuyên môn ngoại ngữ.
-
Vấn đề học ngành 2 là một trở ngại trong việc tự
học vì phải mất khá nhiều thời gian cho việc học trên
lớp, sinh viên phải tự giải quyết việc trùng lịch học
lý thuyết hoặc lịch thực hành do đăng ký quá nhiều
môn học trong cùng một học kỳ. Việc này thường là do
ý thích của sinh viên, mặc dù được Cố vấn học tập
phân tích và hướng dẫn kỹ lưỡng, nhưng sinh viên vẫn
mắc phải.
- Việc học nhóm gặp nhiều
khó khăn do thời khóa biểu khác nhau.
- Không có phòng cho sinh
viên tự học đặc biệt là học nhóm.
- Làm việc nhóm: đôi khi
còn đùn đẩy cho nhau, chưa phát huy hết tính tự giác
trong học tập.
3.
Đề xuất các giải pháp cải thiện việc tự học của
sinh viên.
Bàn
về giải pháp để nâng cao tính tự học của sinh viên
sao cho hiệu quả, thiết nghĩ đây là vấn đề cần thảo
luận để tìm ra những luận cứ khoa học giúp cho sinh
viên trong công tác tự học. Trong phạm vi của bài viết
này, xin
nêu các vấn đề cần chú ý như sau:
i)
Đối với sinh viên :
-
Cần nâng cao tính tự học, giải thích rõ môi trường
học tập ở bậc đại học khác xa với môi trường học
tập ở bậc phổ thông trung học. Rèn
luyện phương pháp tự học phải trở thành một mục
tiêu học tập của sinh viên. Vai trò
quan trọng ở đây là của Cố vấn học tập, của đoàn
thể, của nhà trường và cũng cần nhấn mạnh việc giáo
dục của gia đình.
- Về khối lượng kiến
thức học tập ở bậc đại học nhiều hơn so với ở
bậc học phổ thông (ở bậc phổ thông tính ra chỉ bằng
nửa học kỳ ở bậc đại học). Chính vì thế sinh viên
không tập luyện tính tự học thì không thể giải quyết
một khối lượng lớn trong học kỳ. Ngoài ra khi sinh viên
muốn học thêm ngành 2 cùng lúc thì phải cân nhắc xem có
đủ khả năng học lực, về thời gian học tập, tình
hình tài chính, Liên quan đến công tác này không thể
nhắc đến vai trò của Cố vấn học tập trong việc phân
tích có nên học ngành 2 cùng lúc hoặc tiến hành học
ngành 2 ở năm nào là hợp lý trong quá trình học tập ở
bậc đại học.
- Về chất lượng kiến
thức: ở bậc đại học không chỉ học sự kiện hay học
hiện tượng, không chỉ học biết, học hiểu và vận
dụng mà còn học phân tích, học tổng hợp, học đánh
giá, học tư duy, và nhất là học phương pháp học tập
để học biết được nhiều và có năng lực tự học
suốt đời. Việc trang bị phương pháp học tập cho sinh
viên khi mới vào năm thứ nhất ở bậc đại học thật
là quan trọng, vai trò này không ai khác hơn là của nhà
trường và trực tiếp là của Khoa quản lý sinh viên.
-Sinh viên cần nắm vững kiến
thức của hệ thống phương pháp học tập tích cực:
Trong quá trình học tập, việc xác
định mục đích, xây dựng động cơ, lựa chọn phương
pháp, hình thức tự học hợp lý là cần thiết. Song điều
quan trọng là sinh viên phải có hệ thống kỹ năng tự
học.
ii)
Đối với giảng viên:
Đi
đôi với việc xây dựng đổi mới chương trình đào
tạo, nâng cao chất lượng giáo trình là yêu cầu đổi
mới cơ bản phương pháp dạy học. Định hướng cơ
bản trong đổi mới phương pháp giảng dạy theo học
chế tín chỉ là tích cực chuyển từ lối truyền
đạt kiến thức một chiều từ phía giảng viên
sang việc tăng cường tổ chức các hoạt động học
tập cho sinh viên, phát huy vai trò tích cực, chủ
động, sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành,
bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu cho
sinh viên.
Thực tế công tác giảng
dạy ở Khoa Thủy sản cũng đã chuyển đổi tích
cực, từ khâu xây dựng chương trình đào tạo đến
các giải pháp đổi mới phương pháp giảng dạy cho
phù hợp theo học chế tín chỉ. Với quan niệm ấy,
nội dung chương trình đào tạo được chú ý theo hướng
tăng kỹ năng thực hành; xem trọng công tác tham quan thực
tế, tổ chức các báo cáo chuyên đề, trao đổi học
thuật, thông tin khoa học với các chuyên gia đầu
ngànhĐiều này giúp sinh viên đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn của công việc sau khi ra trường.
Do Khoa quản lý
nhiều chuyên ngành đào tạo vì thế giảng viên đã
căn cứ vào điều kiện cụ thể và đặc trưng
của từng chuyên ngành để vận dụng phối hợp
các phương pháp giảng dạy đa dạng:diễn giảng,
thuyết trình nêu vấn đề, thảo luận nhóm, nghiên
cứu tình huống, báo cáo seminarđồng
thời tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nhằm
nâng cao hiệu quả của đổi mới phương pháp giảng
dạy.
Qua khảo sát thực tế
việc áp dụng các phương pháp giảng theo học chế
tín chỉ ở Khoa Thủy sản cho thấy những thuận lợi
và khó khăn như :
* Thuận lợi:
- Sinh viên phát huy được
tính chủ động và sáng tạo trong việc tự học.
- Giảng dạy những vấn đề
chủ chốt của môn học, yêu cầu sinh viên mở rộng
những thông tin liên quan khi áp dụng thực tế.
- Cung cấp, gợi ý một số
ý tưởng cho sinh viên học hỏi và tìm kiếm thông tin.
- Cung cấp những tài liệu
chuyên ngành cho sinh viên tham khảo, gợi ý cho sinh viên
nghiên cứu một số chủ đề có liên quan.
* Khó khăn:
- Không có hiệu quả đối
với các sinh viên thiếu tinh thần tự giác
- Lớp quá đông nên không
có đủ thời gian để phân chia thành từng nhóm nhỏ (2-3
SV/nhóm) để tham gia học tập theo phương pháp báo cáo
chuyên đề.
- Hầu hết các môn học
đều áp dụng phương pháp báo cáo chuyên đề, chính vì
thế sinh viên bị quá tải trong việc hoàn thành các
chuyên đề cho từng môn học.
- Giảng viên đưa ra các
chủ đề, sinh viên ít khi được chủ động đề xuất
vấn đề mình quan tâm, để đầu tư nghiên cứu.
Phương
châm lấy người học làm trung tâm là việc đáp ứng
cho việc giảng dạy theo học chế tín chỉ trong thời đại
ngày nay. Một khi cơ sở vật chất, trang thiết bị của
nhà trường tương đối đầy đủ, sẵn sàng đáp ứng
cho việc tự học thì giảng viên là nhân tố quyết
định sự thành công của đổi mới phương pháp
giảng dạy và đánh giá trong đào tạo, đặc biệt
là đào tạo theo học chế tín chỉ. Vì vậy, mỗi
giảng viên cần nhận thức một cách đúng đắn
tính tất yếu của việc đổi mới, từ đó chủ
động suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng linh hoạt các
phương pháp phù hợp theo các ngành nghề khác nhau
nhằm giúp sinh viên biết cách tự học, tự nghiên
cứu, sáng tạotrong quá trình học tập. Để hòa
nhịp với yêu cầu đổi mới này, lực lượng
giảng viên cần nắm vững phương pháp dạy học để :
- Dạy có nội dung chọn
lọc
-
Dạy có phương pháp phù hợp
-
Dạy phương pháp học môn học nhằm tạo cho người học
có tiềm năng tự phát triển học vấn.
iii)
Đối với các nhà quản lý :
Lực
lượng cán bộ quản lý đóng vai trò quan trọng trong tiến
trình đào tạo theo học chế tín chỉ. Ngoài việc nắm
rõ mục tiêu và nội dung chương trình đào tạo, còn phải
nắm vững phương pháp dạy và phương pháp học nhằm
phục vụ cho công tác tổ chức và quản lý đào tạo
ngày một hiệu quả hơn.
Vai
trò của nhà quản lý khá quan trọng trong công tác tổ
chức cho việc dạy và học, chính vì thế cần phải tổ
chức định kỳ các cuộc hội thảo về phương pháp
giảng dạy cho giảng viên; phương pháp tự học theo học
chế tín chỉ cho sinh viên. Việc tổ chức có thể ở
nhiều cấp độ như Khoa quản lý ngành tổ chức cho cấp
cơ sở; nhà trường tổ chức cho các báo cáo điển hình.
Nhà trường cần có
chế tài quản lý theo hướng khuyến khích giảng
viên đổi mới phương pháp giảng dạy, thực hiện
các biện pháp nâng cao năng lực sư phạm cho lực
lượng giảng viên thông qua bồi dưỡng nghiệp vụ
định kỳ và học tập kinh nghiệm trong và ngoài
nước.
iv)
Một số giải pháp thực hiện.
Xuất
phát từ những vấn đề nêu trên, cần dạy cho sinh viên
các phương pháp phù hợp để nâng cao tính tự học, năng
động và sáng tạo. Một trong những nội dung của việc
đổi mới phương pháp dạy học là dạy sinh viên tự
học, tự nghiên cứu, cụ thể là:
Dạy
cách lập kế hoạch học tập và kế hoạch sử dụng
thời gian
Dạy
cách nghe giảng và ghi bài trên lớp
Dạy
cách học bài
Dạy
cách đọc sách
Dạy
cách nghiên cứu và giải quyết vấn đề
Dạy
cách học ngoại ngữ và đáp ứng đọc sách chuyên ngành
Hiện nay việc
tự học của sinh viên thật sự chưa được thực hiện
tốt. Về
phía người học, sinh viên tuy có ý thức về tầm quan
trọng của việc tự học, có động cơ học tập rõ ràng
và có khái niệm ban đầu khá chính xác về tự học
nhưng đại đa số chưa biến động cơ thành hoạt động
học tập tích cực và chưa có cách tự học hiệu quả.
Tất nhiên còn nhiều vấn đề cần phải thảo luận để
tìm ra các giải pháp hoàn chỉnh hơn, đóng góp thiết
thực cho công tác đào tạo sinh viên trong tương lai.