Tiêu luận sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH sự LÃNH đạo ĐÚNG đắn của ĐẢNG là NHÂN tố HÀNG đầu QUYẾT ĐỊNH THẮNG lợi của CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [207.92 KB, 23 trang ]

1
SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU
QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM.
MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp thành của chủ
nghĩa Mác-Lênin. Trước khi chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời đã có những trào
lưu, những tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng. Vào giữa thế kỷ XIX, chủ
nghĩa tư bản có những bước phát triển, đồng thời bộc lộ những mâu thuẫn ngày
càng rõ rệt và cũng xuất hiện những tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở hiện thực ấy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã có đủ
những căn cứ khoa học và căn cứ thực tiễn để sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa
học. Từ đó, chủ nghĩa xã hội khoa học ngày càng gắn bó chặt chẽ với thực tiễn
sản xuất và phong trào công nhân, vừa phản ánh, vừa soi sáng con đường giai
cấp công nhân tiến lên hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học nghiên cứu các quy luật, tính quy
luật chính trị - xã hội của quá trình phát sinh, hình thành phát triển hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa; những điều kiện, con đường, hình thức, phương
pháp đấu tranh và những nguyên tắc cơ bản của giai cấp công nhân nhằm thực
hiện sự chuyển biến cách mạng từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa lên
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Bản “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản” của C.Mác và Ph.Ăngghen ra đời tháng 2-1848 đánh dấu sự hình thành chủ
nghĩa xã hội khoa học. Trong “Tuyên ngôn”, các nguyên lý, phạm trù của chủ
nghĩa xã hội khoa học đã được nêu lên. Một trong những nguyên lý đặc biệt
quan trọng đó là nguyên lý về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cách
mạng vô sản, về mối quan hệ của Đảng đối với các vấn đề xã hội như văn hoá,
gia đình, tôn giáo, con người, các trào lưu tư tưởng khác .v.v.. “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản” là cột mốc lịch sử ghi nhận sự hình thành chủ nghĩa xã hội
khoa học về cơ bản. Kể từ đó, chủ nghĩa xã hội khoa học đã có bước phát triển
mạnh mẽ, sự phát triển đó gắn liền và chịu sự quy định của những biến đổi kinh
tế - chính trị - văn hoá - xã hội của thời đại; với thực tiễn đấu tranh của giai cấp
công nhân, của phong trào cộng sản công nhân quốc tế; gắn với đặc điểm dân tộc;


với cuộc đấu tranh chống các trào lưu tư tưởng thù địch, sai trái. Cùng với sự


2
phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa xã hội hiện thực, nguyên lý
về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản cũng phát triển và ngày càng hoàn thiện,
trở thành một nguyên lý then chốt trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các lực
lượng tay sai, việc tấn công và hệ tư tưởng và lực lượng lãnh đạo, cầm quyền
nhà nước và xã hội, luôn là mục tiêu quan trọng nhất. R. Nich-xơn trong cuốn
sách: “1999 – không đánh mà thắng” rút ra kết luận: rút cuộc sự cạnh tranh
giữa các hệ thống xã hội cuối cùng, cái có tác dụng quyết định đối với lịch sử
là tư tưởng chứ không phải là vũ khí. Chính vì vậy, chủ nghĩa đế quốc đã đồng
thời thực hiện chiến tranh xâm lược và “diễn biến hòa bình”, chống phá hệ
thống xã hội chủ nghĩa ngay từ khi nước Nga Xô- viết ra đời. Tuy nhiên, từ khi
các nước xã hội chủ nghĩa tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới, các thế lực thù
địch đã tập trung mũi nhọn, đẩy tới cuộc “chiến tranh không có khói súng”
chiến lược “Diễn biến hòa bình” đối với các nước đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa, tấn công vào hệ tư tưởng, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
Vũ trang bằng học thuyết chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung, chủ nghĩa
xã hội khoa học nói riêng và tư tưởng Hồ Chí Minh, những người cộng sản Việt
Nam tháng 8 năm 1945 đã lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập, tự do cho Tổ
quốc, đưa đất nước đi vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; thắng lợi của cuộc kháng chiến chống xâm lược mà đỉnh cao là
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa xuân năm 1975,
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc
tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
với nhận thức và tư duy mới đúng đắn phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Với
những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc

địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con
đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm
chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém
phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế
rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Những


3
thành tựu rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử qua 25 năm đổi mới là bằng chứng
sống động của chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa xã hội hiện thực. Trong sự
nghiệp đổi mới toàn diện do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo,
trước hết là đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định với chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, trên cơ sở đó, nghiên cứu, tìm tòi, thử nghiệm, tổng kết thực tiễn
để đề ra chiến lược, chủ trương, chính sách đúng đắn và những giải pháp, hình
thức, bước đi thích hợp, đưa nước ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Khảo sát thực tiễn công tác xây dựng đảng để tổng kết thực tiễn, vận
dụng đúng đắn, sáng tạo các nguyên lý chủ nghĩa xã hội khoa học vào hoạt
động thực tiễn cách mạng, ngăn ngừa những biểu hiện giáo điều sơ cứng,
hoặc cải lương, cơ hội trong công tác lý luận và hoạt động thực tiễn, góp phần
làm cho chủ nghĩa xã hội khoa học luôn sống động, thực sự là học thuyết
chính trị - xã hội, khoa học - cách mạng định hướng cho cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động vì lý tưởng cao đẹp, đồng thời vận
dụng những kinh nghiệm chủ yếu đó vào công tác xây dựng đảng, tiếp tục
thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Với ý nghĩa đó, tác giả lựa chọn vấn đề “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam” - một trong
những bài học kinh nghiệm được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng rút ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam; từ sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa

xã hội ở Liên xô và Đông Âu làm chủ đề nghiên cứu, viết tiểu luận môn Lịch sử
phong trào Cộng sản và Công nhân quốc tế.
NỘI DUNG
1. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.1. Đảng Cộng sản Việt Nam – Người khởi xướng và quyết định
thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt


4
Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm
nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Công cuộc đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo đã hơn 25 năm. Nước ta bước vào thế kỷ XXI trên con đường
đã lựa chọn với tất cả những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức trong bối
cảnh quốc tế và đất nước đang biến đổi không ngừng. Nhiều vấn đề mới nảy sinh
từng bước được đảng ta nhận thức và giải quyết có hiệu quả; quan niệm về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng rõ hơn;
đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp. Vì vậy,
đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng đắn, nắm vững, vận dụng sáng tạo, bổ sung
và phát triển di sản lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin về chủ nghĩa xã hội, về thời
kỳ quá độ và khả năng lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Sự sụp đổ của Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã gây ra
cuộc tranh luận lớn ở những năm cuối của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ
XXI xung quanh việc đánh giá tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa
xã hội nói chung và những tư tưởng về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân,
vai trò của chính đảng vô sản nói riêng. Kẻ thù của chủ nghĩa xã hội thì tuyên bố

kết thúc vĩnh viễn "những thí nghiệm cộng sản" và chủ nghĩa Mác. Lợi dụng
tình hình này, các thế lực thù địch với chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội
hiện thực coi đây là cơ hội ngàn vàng để loại bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực, chủ
nghĩa Mác – Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng và hạ bệ vai
trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với sự nghiệp cách mạng của các nước xã
hội chủ nghĩa còn lại trên thế giới. Những kẻ lên giọng phán quyết đã không
giấu nổi sự hả hê trước sự thoái trào tạm thời của chủ nghĩa xã hội. Sau khủng
hoảng và sụp đổ của một bộ phận quan trọng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa
thế giới [1989 – 1991], có học giả cho rằng chủ nghĩa tư bản là “Sự tột cùng
của lịch sử”. Thế rồi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ nước Mỹ
[năm 2007 – 2009] và hiện nay phong trào “Chiếm phố Uôn” nổ ra từ nước Mỹ
lan rộng ra các nước tư bản phát triển đã cho người ta thấy chủ nghĩa tư bản sẽ


5
không bao giờ có thể thay đổi bản chất của một xã hội bất công, cho nên cần
phải thay đổi. Xã hội đó không thể là “sự tột cùng của lịch sử”. Các thế lực thù
địch đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội, tìm mọi cách chứng
minh rằng đó là sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác nói chung, chủ nghĩa xã hội khoa
học nói riêng và dự báo rằng, với sự sụp đổ lây truyền đó, chế độ cộng sản sẽ
không thể tồn tại đến năm mở đầu thế kỷ XXI. Tuy nhiên, họ đã nhầm! Sự thật,
sự sụp đổ đó như các Đảng cộng sản nghiêm túc đánh giá chỉ là sự sụp đổ của
một mô hình xã hội cụ thể đã trở nên sơ cứng, không được kịp thời thay đổi
cho phù hợp với những biến đổi của thời đại cũng như của tự thân xã hội xã
hội chủ nghĩa; hoặc trong quá trình cải tổ, cải cách, một số Đảng cộng sản đã
mắc sai lầm về mục tiêu, nội dung, hình thức và bước đi, vi phạm những
nguyên lý cơ bản, những nguyên tắc bất di bất dịch của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đồng thời, các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hoà bình” hết sức
thâm độc và xảo quyệt ra sức phá hoại. Trong hoàn cảnh đó, những người
cộng sản chân chính và quần chúng cách mạng vẫn kiên định lý tưởng xã hội

chủ nghĩa, nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác- Lênin, đoàn kết tập hợp lực
lượng, đề ra chiến lược, sách lược cách mạng mới. Đến những năm đầu thế kỷ
XXI, nhiều Đảng cộng sản đã phục hồi, có ảnh hưởng sâu rộng và uy tín trong
xã hội, tiếp tục đấu tranh để trở lại nắm chính quyền hoặc tham gia trong lực
lượng cánh tả cầm quyền. Thời kỳ khủng hoảng, thoái trào nghiêm trọng nhất
đã qua. Đại hội lần thứ XI Đảng ta đã khẳng định: phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế có những bước hồi phục. Thực tế đã cho thấy ở đâu mà Đảng
Cộng sản trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, lợi ích cơ bản của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, kiên định với mục tiêu lý tưởng cách mạng xã
hội chủ nghĩa - cộng sản chủ nghĩa, nắm bắt xu thế thời đại, biết đoàn kết, dựa
vào nhân dân, tiến hành đổi mới, cải cách toàn diện, đúng đắn, sáng tạo, nêu
cao cảnh giác cách mạng thì chủ nghĩa xã hội hoàn toàn có thể vượt qua khó
khăn thử thách, tồn tại và phát triển mạnh mẽ.
Nêu cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh với những phán xét hồ
đồ, phủ định với dụng ý thâm hiểm, xấu xa của các thế lực thù địch đối với chủ
nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa xã hội hiện thực, Đảng


6
Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản, vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa xã
hội khoa học vào xây dựng đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của đảng, khởi xướng sự nghiệp đổi mới đất nước. Việc nâng cao năng lực lãnh
đạo được khơi nguồn từ những bước đột phá cục bộ về đổi mới tư duy trước khi
hình thành đường lối đổi mới toàn diện, đến hệ thống những quan điểm về đổi
mới đất nước mà Đại hội VI của Đảng đề cập đây chính là những quan điểm chủ
yếu chỉ đạo công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta. Từ sau Đại hội VII, những
quan điểm về đổi mới đất nước tiếp tục được bổ sung, phát triển trong các văn
kiện, nghị quyết của Đảng.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng [12-1986] đến nay,

đất nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới, giai đoạn đổi mới có tính cách
mạng, vượt qua bao khó khăn thử thách để đi lên. Công cuộc đổi mới vì chủ
nghĩa xã hội đã được triển khai toàn diện, rộng mở và đồng bộ, trên thực tế đã
thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới để đưa
đất nước tiếp tục tiến lên. Sau 10 năm đổi mới, Đại hội lần thứ VIII Đảng ta
khẳng định: “kinh tế tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước
[GDP] bình quân hằng năm thời kỳ 1991 – 1995 đạt 8,2%. Lạm phát bị đẩy lùi
từ 774,7% năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991, 12,7% năm 1995. Đầu tư toàn
xã hội bằng nguồn vốn trong và ngoài nước so với GDP năm 1990 là 15,8%,
năm 1995 là 27,4%”1. Đại hội lần thứ X Đảng ta đánh giá: “Đất nước ta đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế
tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được
củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được
giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh
tổng hợp của quốc gia được tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất
nước ta tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp”2. Đại hội lần thứ XI Đảng ta tiếp tục
1
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, tr. 10.


7
khẳng định: “Đất nước bước đầu thực hiện thành công công cuộc đổi mới, ra khỏi
tình trạng kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều
thay đổi; sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của
Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát

triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới” 3; thực hiện một số mục tiêu của Chiến
lược 2001 – 2010: “Kinh tế tăng trưởng nhanh, tốc độ bình quân 7,26%/năm…
Tổng sản phẩm trong nước [GDP] năm 2010 theo giá thực tế gấp 3,26 lần so với
năm 2000; thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu tăng gấp 5 lần so với năm 2000;
GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1.168 USD”4. “Tỷ lệ thất nghiệp ở thành
thị giảm còn dưới 4,5%, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%..., chỉ số phát triển con
người tăng từ mức 0,683 [năm 2000] lên 0,733 [năm 2008], xếp thứ 100/177
nước, thuộc nhóm trung bình cao; hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu Thiên niên kỷ
[MDG] do Liên hợp quốc đặt ra cho các nước đang phát triển đến năm 2015” 5.
Điều đặc biệt quan trọng là, sau 25 năm lãnh đạo và chỉ đạo công cuộc đổi mới,
Đảng ta ngày càng tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm: “Có thể khẳng định rằng,
trong 20 năm qua, Đảng ta đã bổ sung và phát triển nhiều nhận thức mới, từng
bước hình thành được một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các chủ trương, chính sách lớn
của Đảng được nhân dân đồng tình, hưởng ứng”6.
Những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới không chỉ mọi người
dân Việt Nam cảm nhận được rất rõ ràng, được thụ hưởng thực sự trong cuộc
sống hàng ngày, mà còn được cả thế giới ngưỡng mộ và tin rằng: đất nước
Việt Nam sẽ trở thành “một quốc gia phồn thịnh” trong tương lai. “Tấm
gương cho các nước đang phát triển”, trong buổi tiếp Đại sứ Đặc mệnh Toàn
quyền Việt Nam Lê Thanh Tùng, Tổng thống Goa-tê-ma-la A.Cô-lôm đã ca
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr. 17.
, 4: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 20.

3
4

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 154.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá

độ lên CNXH [1991-2011], Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 141.
5
6


8
ngợi mô hình phát triển của Việt Nam “là tấm gương cho các nước đang phát
triển, đặc biệt nổi bật là chủ trương gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội.
Khẳng định sự ngưỡng mộ trước truyền thống lịch sử đấu tranh hào hùng
trước đây và những thành tựu phát trển kinh tế - xã hội to lớn của nhân dân
Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay” 7. Có được những thành tựu và
những ấn tượng sâu sắc đó là bởi vì nhân dân ta có sự lãnh đạo của Đảng,
được dẫn dắt bởi chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; bởi con
đường xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang đi là đúng đắn, phù hợp với xu thế
tất yếu của thời đại và yêu cầu phát triển của lịch sử dân tộc.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong quá trình thực hiện đổi mới
chúng ta cũng còn những yếu kém: kinh tế phát triển chưa bền vững, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa chậm; chế độ phân phối còn nhiều
bất hợp lý, phân phối giàu nghèo tăng lên. Những hạn chế, yếu kém trong các
lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi
trường chậm được khắc phục; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ
nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối sống chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Thể chế
kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm yếu cản
trở sự phát triển. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm. Còn tiềm ẩn
những nhân tố gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đảng ta đã rút ra những bài học kinh

nghiệm quí báu. Đại hội lần thứ XI của Đảng đã chỉ ra những bài học lớn sau đây:
Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện
đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới toàn diện, đồng bộ với những bước đi thích hợp.
7

Báo Quân đội nhân dân, số ra ngày 27-11-2011.


9
Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc.
Mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và ý thức
trách nhiệm của mỗi công dân, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và cả cộng đồng.
Hai là, phải thật sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát
triển bền vững. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế với tốc độ tăng
trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường huy động các nguồn
lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực để đẩy
nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển lực lượng sản xuất phải đồng thời xây
dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp; củng cố và tăng cường các yếu tố
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Ba là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo,
đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn,
suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng,
an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư

tưởng và tổ chức. Xây dựng Đảng vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố
quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Đảng khởi xướng và lãnh đạo cuộc
đổi mới, tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, hoàn thiện đường lối đổi mới;
thường xuyên xây dựng chỉnh đốn Đảng, tạo ra sự thống nhất về quan điểm, ý
chí hành động trong toàn Đảng.
Năm là, trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên
quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước.
Đổi mới là qui luật phát triển của bất kỳ sự vật, hiện tượng và quá trình lịch sử
nào. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã được hơn
20 năm và đạt được những thành tựu quan trọng có ý nghĩa to lớn. Trên cơ sở đó,
cộng với thời cơ và vận hội mới nhất định công cuộc đổi mới của nhân dân ta sẽ thành


10
công. chủ nghĩa xã hội với các đặc trưng cơ bản nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh sẽ trở thành hiện thực. Đất nước ta
sẽ được xây dựng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, từng bước sánh vai với các cường
quốc văn minh trên thế giới, như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong
ước.
Đây chính là biện chứng của quá trình tổng kết thực tiễn cách mạng, rút
ra những vấn đề mới về lý luận để Đảng ta tiếp tục lãnh đạo cách mạng đạt được
những bước tiến bộ quan trọng hơn đối với sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn tiếp theo. Đây chính là một phần đóng góp của Đảng ta vào
lý luận của chủ nghĩa hội khoa học trong giai đoạn cách mạng mới.
1.2. Sự lãnh đạo của Đảng - nhân tố quyết định đến thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới đất nước.
Sự nghiệp đổi mới đất nước được bắt nguồn từ những điều kiện khách
quan, những nhân tố chủ quan. Một trong những nhân tố chủ quan quyết định
đến thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước là Đảng ta đã tự đổi mới về nhận
thức và hành động, nắm bắt và vận dụng đúng đắn, sáng tạo các nguyên lý, quy

luật xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta, nâng cao tầm trí tuệ, năng lực và sức chiến đấu, lãnh đạo sự nghiệp đổi mới
đất nước đạt được những thành tựu quan trọng.
Về nhận thức: Tổng kết 25 năm đổi mới đất nước, nhận thức của Đảng ta
có những đổi mới quan trọng. Công tác lý luận của Đảng đã làm rõ hơn yêu cầu,
nhiệm vụ của Đảng cầm quyền trong điều kiện mới: nghiên cứu tìm tòi mô hình
và con đường, bước đi xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với quy luật khách
quan; lãnh đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
ngăn chặn và đẩy lùi được những nguy cơ: chệch hướng xã hội chủ nghĩa hoặc
bảo thủ, cố giữ những quan niệm cũ không còn phù hợp với thực tiễn. Đảng lãnh
đạo xây dựng chế độ mới do nhân dân làm chủ. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội; Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách
và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức,


11
kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
Khẳng định Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm
nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đại hội IX của Đảng đã phát triển nhận thức tư
tưởng Hồ Chí Minh là: một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại…Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Đây là bước
phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về vị trí công tác
xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, hoà bình xây dựng, phát triển

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế, tình
hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Đảng ta khẳng định: xây dựng Đảng
là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ sống còn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng;
Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, coi đây là quy luật tồn tại và phát triển của
Đảng. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đã nhấn mạnh vấn đề kiên định bản
chất cách mạng và khoa học, trung thành với giai cấp và dân tộc; xây dựng Đảng
vững mạnh về bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, trong sạch về phẩm chất đạo
đức; có phương thức lãnh đạo khoa học.
Trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng, khẳng định sự cần thiết phải đẩy
mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nâng cao trình độ nắm
bắt, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; nâng cao khả năng tự đề kháng trước những quan điểm, tư tưởng sai
trái; khẳng định tính chủ động đấu tranh chống lại những quan điểm, tư tưởng
đó; xem việc nâng cao nhận thức đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là yếu tố bên trong, quan trọng nhất để khắc phục có hiệu quả
sự tấn công về lý luận, tư tưởng của các thế lực thù địch. Thường xuyên đấu
tranh với các biểu hiện giáo điều và cơ hội dưới mọi hình thức.


12
Trên lĩnh vực tổ chức, đã khẳng định tính đồng bộ, toàn diện trong
xây dựng Đảng ở mọi cấp; thấy rõ hơn, sâu sắc hơn sự tác động qua lại giữa
xây dựng tổ chức đảng ở cấp cơ sở và cấp trên cơ sở, mối quan hệ giữa xây
dựng tổ chức với việc nâng cao chất lượng đảng viên. Thấy rõ hơn tính liên
hoàn, tính đồng bộ của công tác cán bộ: Phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, đánh giá, sử dụng, luân chuyển cán bộ... Từng bước làm rõ hơn tiêu
chuẩn của cán bộ trong thời kỳ mới; nhấn mạnh các yêu cầu về sự kiên định,
sự trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tính chủ động, năng động, sáng
tạo; năng lực phát hiện, đề xuất vấn đề đúng đắn, kịp thời; khả năng cập nhật
những tri thức mới, cần thiết cho công việc lãnh đạo và quản lý; về khả năng

quy tụ sức mạnh của tập thể vào công việc chung...
Đã luận chứng một cách sâu sắc, có sức thuyết phục sự cần thiết phải
bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng ta; không chấp nhận đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập. Đã bổ sung, phát triển và từng bước làm sáng tỏ lý
luận về vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền, dân chủ
hoá xã hội, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
Những đổi mới trong nhận thức đã cho chúng ta những kết quả to lớn
thông qua thực tiễn đổi mới. Trong tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức
tạp, yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới rất nặng nề, các thế lực
thù địch tấn công toàn diện vào Đảng, vào chế độ, Đảng ta vẫn vững vàng,
thể hiện rõ bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định về
mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo nhân dân
tiến hành công cuộc đổi mới đạt nhiều thành tựu to lớn, quan trọng, đưa sự
nghiệp cách mạng nước ta tiếp tục đi lên.
Công tác tư tưởng chính trị của Đảng có nhiều đổi mới, góp phần quan
trọng vào việc nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, thống nhất tư tưởng trên
những vấn đề cơ bản về công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới. Đấu tranh bảo vệ quan điểm,
đường lối đúng đắn của Đảng; phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái đòi đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập, dân chủ cực đoan, phủ nhận thành tựu của quá


13
khứ... Dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng tiếp tục được phát huy. Cùng
với việc cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ, đảng đã có nhều quyết định về
phát huy dân chủ trong Đảng, xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của mỗi cấp
lãnh đạo, tăng cường hoạt động giám sát nhằm ngăn ngừa và khắc phục tình
trạng độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức. Đã bước
đầu chú trọng xây dựng văn hoá chính trị, văn hoá lãnh đạo. Biết lắng nghe

những ý kiến khác nhau; quyết định theo đa số nhưng tôn trọng ý kiến của thiểu
số, tôn trọng những tìm tòi, thử nghiệm, chắt lọc từ đó những nhân tố có giá trị
để xây dựng chủ trương, chính sách. Dựa vào nhân dân để xây dựng, sửa đổi và
tổ chức thực hiện chính sách, để chỉnh đốn Đảng.
Công tác tổ chức và cán bộ đã có những đổi mới đáng kể, phục vụ tích
cực cho nhiệm vụ đổi mới. Tiếp tục khẳng định và có cơ chế cụ thể để thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ. Sắp xếp, kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng và
Nhà nước theo hướng tinh gọn hơn, giảm bớt đầu mối trung gian. Trong đánh
giá cán bộ, đã chú ý lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo
phẩm chất và năng lực, lấy nhu cầu nhiệm vụ làm căn cứ để bố trí cán bộ. Đã
chú trọng thực hiện dân chủ hoá, công khai hoá công tác cán bộ, đổi mới chính
sách cán bộ. Đã hình thành Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng có đội ngũ cán bộ đông đảo thích ứng nhanh
với cơ chế mới; có năng lực nắm bắt, vận dụng quan điểm, chủ trương của Đảng
và kịp thời tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, quan điểm đó.
Công tác củng cố tổ chức cơ sở đảng và xây dựng đội ngũ đảng viên
có những chuyển biến tích cực, nhất là đã chú ý đến xây dựng và hướng dẫn
thực hiện chức năng, nhiệm vụ ở các loại hình tổ chức cơ sở đảng khác nhau.
Nhìn chung, đa số đảng viên vẫn giữ được vai trò tiên phong, gương mẫu, tận
tụy với công việc, tích cực thực hiện đường lối đổi mới của Đảng; trình độ
các mặt được nâng lên. Nhiều tổ chức cơ sở đảng vẫn thực hiện được vai trò
là nền tảng của Đảng và là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
Phương thức lãnh đạo của Đảng có bước tiến bộ: Đã có đổi mới trong
việc ra nghị quyết, tổ chức học tập quán triệt và triển khai tổ chức thực hiện nghị
quyết. Đã đẩy mạnh việc dân chủ hoá phương thức lãnh đạo của Đảng, coi trọng


14
việc lãnh đạo thể chế hoá nghị quyết, lãnh đạo xây dựng luật và pháp lệnh để
toàn dân thực hiện. Điều đó đã góp phần giảm bớt tình trạng bao biện, làm thay,

áp đặt. Coi trọng việc quy chế hoá, quy trình hoá trong thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của nhiều cơ quan đảng, quy chế hoá mối quan hệ làm việc giữa Đảng
và một số cơ quan của Nhà nước; quy trình hoá, quy chế hoá công tác cán bộ...
Thực tế lịch sử cách mạng nước ta hơn 80 năm qua là hiện thực sinh
động chứng minh hùng hồn vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản; chứng tỏ đường
lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đã được tăng cường, là
nhân tố quyết định cho thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước. Đồng thời,
thông qua đổi mới, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên đi lên chủ
nghĩa xã hội của Đảng ta ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về
công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.

2. Những bài học kinh nghiệm trong công cuộc cải tổ, cải cách, đổi
mới ở các nước xã hội chủ nghĩa
2.1. Nguyên nhân thất bại trong cải tổ, cải cách chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu.
Trong quá trình tiến hành thực hiện công cuộc cải tổ, cải cách, đổi
mới chủ nghĩa xã hội, một số nước đã đạt được những thành tựu bước đầu
quan trọng. Tình hình kinh tế- xã hội có sự chuyển biến tích cực, tạo thế đi
lên, khẳng định rõ con đường đổi mới là đúng đắn. Trong khi đó, một số
nước đã thất bại dẫn đến sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa, gây tổn thất to lớn
cho phong trào cách mạng thế giới. Song, phải thấy rằng sự sụp đổ ấy không
phải là từ bản chất của chủ nghĩa xã hội hay những nguyên lý của chủ nghĩa
xã hội khoa học, mà do những nguyên nhân của nó.
Nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng toàn diện và sụp đổ chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
bên cạnh những thành tựu vĩ đại về nhiều mặt có ý nghĩa lịch sử và quốc tế, các



15
nước xã hội chủ nghĩa đã mắc phải những sai lầm, khuyết tật to lớn, chậm được
phát hiện và khắc phục, gây ra tình trạng trì trệ về kinh tế- xã hội kéo dài.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và Đông Âu là do các nguyên nhân sau:
Một là, trong cải tổ, các Đảng cộng sản đã mắc phải sai lầm rất nghiêm
trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối xét lại, phản bội
chủ nghĩa Mác - Lê nin ở một số người lãnh đạo cao nhất; sai lầm trong bước đi
của việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị...
Trong quá trình tiến hành cải tổ, cải cách chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu, các Đảng cộng sản đã xa rời chủ nghĩa Mác - Lê nin dẫn đến sai lầm
về chiến lược cải tổ, cải cách, vi phạm các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã
hội khoa học: chung sống hoà bình một cách vô nguyên tắc với chủ nghĩa đế
quốc, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ, thừa nhận đa nguyên đa đảng, từ
bỏ chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
cộng sản đối với đời sống xã hội; giải quyết không đúng mối quan hệ giữa cải tổ
kinh tế và cải tổ chính trị. Cải tổ kinh tế chưa có kết quả đã vội vàng đẩy nhanh
cải tổ chính trị. Hậu quả là xã hội rối loạn, mất phương hướng chính trị; đánh giá
lịch sử không tuân theo nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử- cụ thể. Vì
vậy, dẫn đến tình trạng đào bới lịch sử, bôi đen lịch sử, phủ nhận toàn bộ giá trị
mà chủ nghĩa xã hội đã đạt được; sai lầm trong công tác tổ chức và cán bộ để
dẫn đến tình trạng loại những cán bộ có kinh nghiệm, trung kiên, trung thành với
chủ nghĩa xã hội; đưa những phần tử cơ hội, thực dụng vào Ban lãnh đạo cao
nhất, thậm chí để cho kẻ địch cài cắm nội gián vào tận Bộ chính trị để thực hiện
phá từ trong phá ra, phá từ trên phá xuống.
Hai là, sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch, phản động đối với chủ nghĩa xã hội. Lợi dụng những khó khăn và đường
lối sai lầm trong cải tổ, cải cách của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã đẩy mạnh chiến lược “Diễn
biến hoà bình” cực kỳ thâm độc, nguy hiểm, can thiệp toàn diện, tinh vi và trắng

trợn vào nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa để gây mất ổn định và xóa bỏ chế độ
xã hội chủ nghĩa mà không cần đến chiến tranh.


16
Hai nguyên nhân này quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động cùng
chiều, tạo nên một cơn lốc chính trị phá sập chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và Đông Âu vừa qua.
2.2. Những bài học kinh nghiệm
Từ những thành công và thất bại đó đã để lại những bài học kinh nghiệm cho
công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, như Đảng
ta đã khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội đã có lịch sử hơn 70 năm, có thành công và có
thất bại, đó là nguồn kinh nghiệm vô giá” 8 để các nước xã hội chủ nghĩa tiếp tục
định hướng công cuộc cải cách, đổi mới các mặt của đời sống xã hội.
Bài học thứ nhất là kiên trì đường lối đổi mới và đổi mới có nguyên tắc.
Kiên trì đổi mới giữ vững mục tiêu chủ nghĩa xã hội, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lê
nin- đó là lập trường duy nhất đúng hiện nay của chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Kinh nghiệm đó được rút ra từ những thành công và thất bại của quá trình cải tổ,
cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa vừa qua. Đổi mới không phải là
từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà chính là nhằm đạt được mục tiêu ấy một
cách có hiệu quả bằng con đường, hình thức, phương pháp và bước đi thích hợp.
Cần phải quán triệt và thực hiện đổi mới có nguyên tắc là vì, trong sự
nghiệp đổi mới chắc chắn sẽ luôn gặp phải không ít những khó khăn, phức tạp,
nên dễ nảy sinh tư tưởng và nhận thức lệch lạc, thậm chí muốn xem xét lại mục
tiêu xã hội chủ nghĩa, đánh giá lại con đường đi của giai cấp, dân tộc mình. Vì
vậy, đòi hỏi phải đấu tranh với những quan điểm sai trái, giữ vững mục tiêu xã
hội chủ nghĩa. Mặt khác cũng cần phải chống khuynh hướng bảo thủ, giáo điều
trong cải tổ, cải cách, đổi mới những lực cản trong tiến trình đổi mới.
Bài học thứ hai là nắm bắt qui luật khách quan, tôn trọng khách quan, tiến
hành đổi mới phải toàn diện và đồng bộ các mặt đời sống xã hội, song phải có

bước đi thích hợp với thực tiễn; nắm vững khâu trung tâm là vấn đề kinh tế và
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị.
Sự nghiệp cải tổ, cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa xét trên
tổng thể phải bắt đầu từ đổi mới tư duy chính trị, trên cơ sở nắm bắt qui luật
8

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb CTQG, Hà Nội, 1991, tr. 110.


17
khách quan để định ra đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn. Nhưng
trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải thực hiện đổi mới trên cơ sở bảo đảm
sự ổn định về chính trị- xã hội, tránh để xảy ra tình trạng rối loạn về chính trị
như ở một số nước trong những năm qua, do sai lầm chủ quan duy ý chí, nóng
vội không có bước đi thích hợp.
Thực tiễn thành công ở Việt Nam, Trung Quốc ở giai đoạn đầu của cải
cách, đổi mới là do các Đảng cộng sản đã có chủ trương và bước đi đúng đắn,
thích hợp, tập trung đổi mới kinh tế, giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy
mọi tiềm năng của đất nước và xã hội để tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá, đáp
ứng nhu cầu cấp thiết của đời sống nhân dân. Chính nhờ đó mà làm cho công
cuộc đổi mới thực sự trở thành sự nghiệp của nhân dân, động viên mọi nguồn
lực cho công cuộc đổi mới. Những kết quả của đổi mới kinh tế trong những năm
qua đã thúc đẩy quá trình đổi mới chính trị và đã chỉ ra nhu cầu và phương
hướng cần thiết cho đổi mới chính trị.
Trong đổi mới chính trị, phải có bước đi thận trọng, kịp thời, từng bước
và vững chắc, bắt đầu từ đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy
nhà nước. Đổi mới phương pháp và phong cách lãnh đạo của Đảng và nhà nước
theo hướng khắc phục tệ quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, vi phạm quyền làm
chủ của nhân dân; thực hiện dân chủ trong Đảng, trong công tác cán bộ; từng
bước đổi mới qui chế bầu cử và hoạt động của các cơ quan dân cử.

Chính trị là lĩnh vực rất phức tạp và đầy nhậy cảm có quan hệ tới tất cả
các giai cấp, các tầng lớp xã hội, cho nên để đổi mới chính trị cần phải có sự
chuẩn bị chu đáo và có thời gian thích hợp. Mọi sự chậm trễ hoặc cố tình trì
hoãn trong đổi mới chính trị sẽ không tránh khỏi phải trả giá ngay cả khi đời
sống vật chất của nhân dân không phải là quá thấp kém.
Đổi mới chính trị và kinh tế là hai lĩnh vực cơ bản nhất của xã hội là sự
nghiệp đầy khó khăn và phức tạp. Đó là quá trình vừa triển khai thực hiện, vừa
phải tìm tòi, sáng tạo, trong đó phải luôn thất hết mối quan hệ biện chứng của
hai lĩnh vực này để có bước đi phù hợp, có như vậy mới bảo đảm sự tác động hỗ
trợ lẫn nhau giữa chúng trong quá trình đổi mới, tránh được những sai lầm như
một số nước xã hội chủ nghĩa vừa qua.


18
Bài học thứ ba là, phải dựa vào nhân dân, phát huy quyền dân chủ của
nhân dân là kinh nghiệm quan trọng nhất của công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới
xã hội chủ nghĩa. Mọi sức mạnh của chủ nghĩa xã hội đều bắt nguồn từ nhân dân
lao động, những người chủ của chế độ xã hội mới dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản và sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Mở rộng và phát huy quyền dân chủ trong quá trình cải cách, đổi mới phải
được thực hiện toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, trong đó kinh
tế luôn là vấn đề trọng yếu nhất của quá trình dân chủ hoá, là cơ sở, điều kiện tiền
đề cho nhân dân làm chủ các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội.
Đổi mới là quá trình mang tính cách mạng. Đó là quá trình kết hợp năng
động, sáng tạo hai chiều từ dưới lên, từ trên xuống. Đây còn là một phong trào
có tính chất quần chúng rộng lớn nhưng lại phải được định hướng chặt chẽ. Kinh
nghiệm các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô trước đây cho thấy, nếu
chỉ áp đặt ý chí từ trên xuống thì nhân dân không có cách nào khác là “cách
mạng từ bên dưới”. Ngược lại, nếu mở rộng dân chủ đến mức thiếu định hướng
thì dễ rơi vào tình trạng hỗn loạn vô chính phủ và tất yếu bị các thế lực phản

động từ bên trong và bên ngoài lợi dụng để phá hoại.
Bài học thứ tư là, đổi mới phải bắt đầu từ Đảng và xét đến cùng- điều
quyết định nhất để giành thắng lợi là Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, giữ
vững vai trò lãnh đạo, nâng cao năng lực trí tuệ và sức chiến đấu của Đảng.
Đảng cộng sản là người khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp cải tổ, cải
cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội, cho nên bản thân Đảng phải tự tiến hành đổi
mới về tổ chức, phương pháp, tác phong, nội dung lãnh đạo của Đảng, nâng cao
năng lực lãnh đạo nhằm thực hiện tốt vai trò lãnh tụ chính trị của toàn xã hội.
Chỉ có Đảng cộng sản lãnh đạo công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới chủ
nghĩa xã hội mới đi đến thành công, do đó, phải khẳng định vai trò lãnh đạo duy
nhất và tuyệt đối của Đảng cộng sản trong sự nghiệp cải tổ, cải cách, đổi mới và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những sai lầm mà các đảng cộng sản và công nhân ở
các nước xã hội chủ nghĩa đã phạm phải trong những thập kỷ vừa qua không
phải là kết quả tất yếu sinh ra từ chế độ một đảng.


19
Trong quá trình cải cách, đổi mới, cần phải chống những quan điểm và
hành động nhằm hạ thấp, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản. Đồng thời
đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao trí tuệ và năng lực
lãnh đạo, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo trong công cuộc cải tổ, cải
cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội.
Bài học thứ năm là, cải tổ, cải cách, đổi mới phải kết hợp giữa sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy nội lực với mở rộng hợp tác quốc tế.
Bài học thứ sáu là, thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, làm thất
bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động, kết hợp cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa chống cộng với đấu tranh
chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại trong quá trình cải tổ, cải cách, đổi mới.
Hiện nay, chủ nghĩa xã hội đang tạm thời lâm vào thoái trào, một số nước
xã hội chủ nghĩa đã phạm những sai lầm nghiêm trọng trong quá trình cải tổ, cải

cách, làm mất đi thành quả cách mạng. Nhưng ở một số nước do kiên trì những
mục tiêu, nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội, có biện pháp và bước đi thích hợp,
đang thực hiện có hiệu quả công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới, tạo ra những sinh
lực mới cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Trung Quốc, một đất nước rộng lớn với trên 1,2 tỷ dân, sau hơn một thập
kỷ mở cửa cải cách và hiện đại hoá đất nước, đã thật sự có bước chuyển mình,
khởi sắc mạnh mẽ về kinh tế- xã hội. Với đường lối cơ bản lấy xây dựng kinh tế
làm trọng tâm và bắt đầu cải cách từ lĩnh vực kinh tế. Trung Quốc trong thời kỳ
cải cách, mở cửa luôn đạt mức tăng trưởng GDP trung bình hàng năm xấp xỉ
10%, riêng năm 1994 đạt trên 13%. Thành công trong phát triển kinh tế đã tạo
điều kiện cải thiện những nhu cầu vật chất, văn hoá, xã hội của nhân dân lao
động, góp phần ổn định chính trị và từng bước cải cách trên lĩnh vực chính trị.
Cuba và Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều tiên do phải vượt qua nhiều
khó khăn hạn chế trong nước, hơn nữa phải đối phó với những hành động thù
địch, bao vây cấm vận của các thế lực đế quốc và bọn phản động, cho nên, công
cuộc xây dựng đất nước còn gặp những khó khăn. Tuy nhiên, trước tình hình
mới của thế giới hiện nay, các nước này đang có những cố gắng để thay đổi,
điều chỉnh cơ cấu và cơ chế quản lý kinh tế và những nỗ lực ngoại giao để từng


20
bước tháo gỡ khó khăn về kinh tế và đời sống xã hội. Cuba tích cực tranh thủ sự
ủng hộ quốc tế để đấu tranh phá bao vây cấm vận của Mỹ, tiếp tục khẳng định
xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, bước đầu đã đạt được kết
quả về kinh tế, xã hội, năm 2001 GDP đã tăng 5%.
KẾT LUẬN
Thực tiễn của sự nghiệp cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn chỉ rõ: quá trình phát triển luôn gắn liền với quá trình
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù
địchbên trong và bên ngoài, dưới mọi màu sắc. Trung thành và vận dụng sáng

tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy vai trò động lực của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đất nước tiến
lên, thực hiện thắng lợi mục tiêu : dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; là sự khẳng định rõ ràng của chúng ta về vai trò lãnh đạo của Đảng trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Trong tình hình hiện nay, trước yêu cầu mới của cách mạng, chúng ta
càng phải kiên định sự lãnh đạo của Đảng. Đây là vấn đề nguyên tắc, vấn đề
sống còn, bảo đảm sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đương nhiên, để có đủ khả năng và điều kiện, lãnh đạo đúng đắn và có hiệu quả,
Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức mạnh của Đảng về mọi mặt, làm cho Đảng thật sự là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc. Đại hội lần thứ XI đã xác định: “Đẩy mạnh xây
dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tiếp tục đổi mới, nâng
cao hiệu quả công tác cán bộ, kiểm tra, giám sát và tư tưởng; thường xuyên học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng
cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên; tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng”9. Chính vì vậy, Đảng phải tiếp tục đổi mới tư
duy lý luận, làm tốt công tác tư tưởng chính trị, nâng cao trình độ trí tuệ và
9

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2011, tr.322.


21
năng lực lãnh đạo chính trị, năng lực cầm quyền, đổi mới nội dung, phương
thức lãnh đạo của Đảng; phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, tăng cường đoàn

kết thông nhất; làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; khắc
phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực, đặc biệt là tệ quan liêu, tham nhũng,
khôi phục và nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng; chấn chỉnh tổ chức
bộ máy và đội ngũ cán bộ, làm cho Đảng có đủ bản lĩnh chính trị, có kiến thức,
năng lực và sức chiến đấu cao trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mở
cửa hội nhập, môi trường quốc tế rất phức tạp, có nhiều nguy cơ và thách thức
mới. Tiếp tục cụ thể hoá, quy chế hoá, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân
chủ trong Đảng; kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng, trong đó chú trọng nâng
cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức cơ sở đảng thực sự
là hạt nhân chính trị ở cơ sở, có khả năng lãnh đạo, quy tụ sức mạnh của đơn vị
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; làm tốt công tác giáo dục, rèn luyện, quản
lý đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về năng lực, phẩm chất đạo đức và tác phong
công tác. Kiện toàn và nâng cao chất lượng của các cơ quan tham mưu, tạo sự
liên thông giữa các cơ quan tham mưu trong hệ thống chính trị.
Đồng thời quán triệt và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung
ương 4 [khóa XI] về “Một số vấn đề cấp bách về công tác xây dựng Đảng
hiện nay”; trong đó có 4 nhóm giải pháp đó là: Tự phê bình và phê bình, nêu
cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên; Giữ vững nguyên tắc trong
công tác tổ chức, cán bộ, sinh hoạt đảng; Cơ chế chính sách hợp lý; Coi
trọng giáo dục chính trị tư tưởng. Bốn nhóm giải pháp chính là những qui
định cụ thể và các bước tiên hành thực hiện với một quyết tâm chính trị rất
cao của Trung ương. Nghị quyết xác định rõ, thực hiện các giải pháp phải
được tiên hành từ Trung ương với phương châm chỉ đạo là: Ban chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy Đảng, cán bộ chủ chốt,
nhất là cấp Trung ương, người đứng đầu làm trước và phải thật sự gương
mẫu để cho các cấp noi theo. Ngăn chặn đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức lối sống của bộ phận cán bộ đảng viên; thực hiện
tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cùng với quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước trong 25 năm
qua, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc hơn, cụ thể hơn về mối quan hệ giữa xây



22
dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa kinh tế và quốc phòng - an ninh đối ngoại. Đã
định hình rõ hơn các nguy cơ đối với an ninh quốc gia, các nhân tố có khả năng
gây mất ổn định chính trị - xã hội, phá hoại an ninh quốc gia. Chúng ta đã bước
đầu xây dựng được hệ thống quan điểm mới về chiến tranh nhân dân, về hậu
phương trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao; làm sáng tỏ nội dung mới
của chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược quốc phòng toàn dân. Đảng ta đã
chăm lo xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt, trong đó lấy xây dựng về
chính trị làm cơ sở. Bằng chứng sinh động về việc củng cố, tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với Quân đội là ngày 20 tháng 7 năm 2005, Bộ Chính trị đã
ban hành Nghị quyết số 51/NQ-TW “Về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo
của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính
ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. Đây là những vấn đề rất
quan trọng, là chủ trương lớn có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng
quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết khẳng định những
vấn đề cơ bản nhất về bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của quân đội ta,
nguyên tắc lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với quân đội và nội
dung tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng nhằm tăng cường sức mạnh
lãnh đạo của tổ chức đảng, hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị, đảm bảo
cho quân đội luôn luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành,
tin cậy bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Tổ quốc và nhân
dân, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:
“Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng
như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra
bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ
tiến tới chủ nghĩa xã hội”10. Là khoa học chính trị, cơ sở lý luận trực tiếp cho
những quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng, chủ nghĩa xã hội khoa học

phải phải góp phần nâng cao giác ngộ cách mạng, xây dựng niềm tin xã hội chủ
nghĩa cho cán bộ, chiến sĩ quân đội ta có nhận thức đầy đủ, đúng đắn quy luật
chính trị - xã hội của cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhận rõ nội dung, tính chất,
tiến trình, điều kiện khách quan và chủ quan, khó khăn và thuận lợi của sự
nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, nhận rõ kẻ thù giai cấp và dân tộc. Từ
đó có cơ sở quán triệt đường lối, chính sách của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng
và của quân đội, rèn luyện bản lĩnh chính trị, ý chí chiến đấu, tinh thần sẵn sàng
10

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2001, tr.65.


23
nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ. Việc tăng cường học tập chủ nghĩa xã hội
khoa học giúp cho cán bộ, chiến sỹ quân đội có niềm tin cơ sở khoa học vững
chắc vào tiền đồ của cách mạng, vào tương lai tươi sáng của giai cấp công nhân
và dân tộc, không hoang mang, dao động, hoài nghi trước những biến động xã
hội, thậm chí cả sự thoái trào tạm thời của chủ nghĩa xã hội; tuyệt đối tin tưởng
vào sự lãnh đạo và đường lối của Đảng, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân đưa
cách mạng vượt qua khó khăn, tiến lên giành thắng lợi mới.
Bên cạnh đó, chúng ta phải kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai,
xuyên tạc của các thế lực thù địch, chúng cho rằng Đảng đã “hết vai trò lịch sử”,
“không còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước”. Chúng đổ lỗi cho Đảng ta trước
sự tụt hậu về kinh tế của đất nước so với những nước láng giềng; từ đó cho rằng
trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác – Lênin đã lỗi thời, nên còn đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa là sai lầm. Chúng “khuyên” chúng ta đi theo mô hình
“xã hội dân chủ”, thực hiện “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”, xóa bỏ
Điều 4 trong Hiến pháp về quyền lãnh đạo của Đảng...; mưu đồ “phi chính trị
hoá” quân đội, tách quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự quản lý
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Những bài học của Liên Xô và Đông Âu vừa

qua luôn là lời cảnh báo về sự xa rời nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học
trong xây dựng quân đội cách mạng, nhất là chăm lo xây dựng quân đội về chính
trị. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần đặc biệt chăm lo xây dựng,
củng cố niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Dù trong bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào cũng kiên quyết đánh bại mọi âm
mưu của các thế lực thù địch, bảo vệ đảng, bảo vệ chế độ chủ nghĩa xã hội, bảo
vệ Tổ quốc, tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế đất nước.
Tóm lại. Để lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, nhiệm vụ cấp bách và then chốt là phải vận dụng một cách đúng đắn,
sáng tạo nguyên lý xây dựng đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
ngang tầm với yêu cầu lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.



ĐẢNG LÃNH ĐẠO

Yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng

Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong hơn 9 thập kỷ qua, kể từ ngày thành lập Đảng, đã chứng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam.

Một Ðảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công

Về quan điểm, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Về hình thức, Đảng chủ trương động viên, tổ chức và đoàn kết lực lượng của toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc, yêu nước để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc.

Về phương pháp cách mạng, Ðảng đặt nhiệm vụ khởi nghĩa vũ trang để giành độc lập, giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm. Trên quan điểm đó, Ðảng ta đã chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.

Một yếu tố khác cũng góp phần rất quan trọng trong thành công của Cách mạng Tháng Tám là nghệ thuật phân tích, dự báo thời cơ, chuẩn bị lực lượng. Trên cơ sở phân tích tình hình trong nước và thế giới, Đảng ta đã dự báo chính xác thời cơ khởi nghĩa.

“Cơ hội cho dân tộc ta, giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh.”

Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trong “Thư gửi đồng bào toàn quốc” tháng 10/1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Cơ hội cho dân tộc ta, giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh.”

Sau đó, Người chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân [ngày 22/12/1944], tiếp đến là lập Ủy ban quân sự cách mạng và xây dựng chính quyền [các Ủy ban dân tộc giải phóng và Ủy ban nhân dân cách mạng], thành lập Khu Giải phóng Việt Bắc… để chuẩn bị, sẵn sàng khởi nghĩa.

Ngày 16/8/1945, Quốc dân Ðại hội họp và ra Nghị quyết về giành chính quyền toàn quốc. Thực hiện Nghị quyết của Ðảng và Quốc dân Ðại hội, chỉ trong vòng hai tuần từ 14 đến 28/8/1945, nhân dân cả nước ta đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc Cách mạng Tháng Tám.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam] – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc.” [Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.7, tr.25]

“Đảng đi đầu trong chiến đấu. Đảng xông pha nơi khó khăn”

Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã trưởng thành và phát triển về mọi mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Nhờ đó, trong 30 năm liên tục, từ 1945-1975, Đảng tổ chức, lãnh đạo hai cuộc kháng chiến trường kỳ giành những thắng lợi to lớn, viết tiếp “những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc,” làm nên những “sự kiện có tầm quốc tế và có tính chất thời đại sâu sắc.”

Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.

“Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ.”

Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.”

Thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và việc ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954 đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Chiều 7/5/1954, lá cờ “Quyết chiến-Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries, đánh dấu thời khắc của chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.” [Ảnh: Tư liệu TTXVN]

Với đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Đây là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc, là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính thời đại sâu sắc.

Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế-xã hội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Trong cuộc trường chinh để giành độc lập, tự do cho dân tộc, ở đâu và lúc nào cũng có Đảng. Đảng đi đầu trong chiến đấu. Đảng xông pha nơi khó khăn. Đảng gắn bó với Nhân dân bằng những gì Đảng đã làm cho sự nghiệp giải phóng đất nước.

Sau 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã giành được những thành tựu quan trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của, hoàn thành vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam; tạo những cơ sở vật chất và những kinh nghiệm quý báu trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sau này.

Có thể thấy, “trong cuộc trường chinh để giành độc lập, tự do cho dân tộc, ở đâu và lúc nào cũng có Đảng. Đảng đi đầu trong chiến đấu. Đảng xông pha nơi khó khăn. Đảng gắn bó với Nhân dân bằng những gì Đảng đã làm cho sự nghiệp giải phóng đất nước.” [Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV]

Đại hội Đảng lần thứ VI mở đầu công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy sức mạnh, tiềm năng để đưa đất nước tiến lên. [Ảnh: TTXVN]

Đảng lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới

Sau khi đất nước được thống nhất, trong muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa khôi phục kinh tế, vừa tiến hành hai cuộc chiến đấu chống xâm lược ở hai đầu biên giới, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước vừa đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất, vừa tìm tòi, tháo gỡ khó khăn, khắc phục trì trệ, khủng hoảng kinh tế-xã hội, từng bước hoạch định đường lối đổi mới.

Năm 1986, Đảng đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Từ đó, đất nước không những vượt qua khủng hoảng kinh tế, mà còn trở thành nước đang phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, sức mạnh đất nước không ngừng được tăng cường toàn diện, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực ngày một nâng cao.

“Đến nay, Việt Nam đã trở thành một quốc gia có quy mô dân số gần 100 triệu người với mức thu nhập bình quân 2.800 USD/người; đã tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế, trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong các hoạt động của cộng đồng quốc tế… Với những thành tựu to lớn đã đạt được, chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.” [Diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng 3/2/1930-2020]

“Với những thành tựu to lớn đã đạt được, chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.”

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng

Thông qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng được tôi luyện và ngày càng trưởng thành, xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của nhân dân.

“Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác,” như lời của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng [3/2/1930-2020]./.

Áp phích chào mừng cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2021-2026. [Ảnh: Vietnam+]

Share this:

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám

Đăng lúc: 15:35:45 31/05/2021 [GMT+7]3348 lượt xem
Chuyên viên: HoàngThị Hiền
Phòng Quản lý đào tạo và nghiên cứu khoa học
Mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước ngoặt to lớn trong lịch sử cách mạng nước ta. 90 năm qua, dù con đường đi lên có lúc quanh co, phức tạp, dù Đảng ta có lúc phạm khuyết điểm, sai lầm, nhưng nhờ bản lĩnh vững vàng;sự khiêm tốn, cầu thị; sự nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm; được nhân dân tin yêu, ủng hộ, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nhìn lại những chặng đường dài thăng trầm của lịch sử, nhân dân ta đã đúc kết, rút ra một chân lý: Thắng lợi của cách mạng Việt Nam do nhiều yếu tố tạo thành, song nhân tố chủ yếu, quan trọng và quyết định nhất chính là vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Ngay trong những năm đầu khi mới ra đời và lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, dù trong điều kiện khó khăn phải hoạt động bí mật và liên tục phải đối phó với sự đàn áp, khủng bố của kẻ thù, nhưngvới đường lối đúng đắn, được nhân dân tín nhiệm, Đảng đã tổ chức lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn và làm nên kỳ tích của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành chính quyền về tay nhân dân, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, sau khi giành được chính quyền, trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, đất nước đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách tưởng chừng như không thể vượt qua. Nạnđói, lũ lụt xảy ra liên tiếp, kinh tế kiệt quệ, tài chính gần như trống rỗng.Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa mới ra đời, chưa có thời gian kiện toàn, củng cố nhưng thù trong, giặc ngoài uy hiếp từng ngày, từng giờ đối với chính quyền cách mạng non trẻ để hòng bóp chết chính quyền trong trứng nước.
Trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quyết sách đúng đắn, sáng suốt vừa vững vàng về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, đã lãnh đạo toàn dân vượt qua những khó khăn, thách thức nặng nề trong giải quyết nạn đói, nạn dốt và chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng. Trong đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chú trọng việc tạo lập cơ sở pháp lý, đảm bảo tính hợp pháp, hợp hiến cho chính quyền cách mạng như: bầu cử Quốc hội [6/1/1946], thành lập chính phủ chính thức; bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và thành lập ủy ban hành chính chính thức các cấp; xây dựng Hiến pháp [9/11/1946]. Chính vì vậy, chính quyền đã nhanh chóng được kiện toàn củng cố từ Trung ương đến địa phương trên phạm vi cả nước, quyền làm chủ của Nhân dân được thừa nhận trong hiến pháp, giáng đòn mạnh vào âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của các thế lực đế quốc và bọn phản động trong nước, củng cố lòng tin của nhân dân vào chính quyền cách mạng.
Cùng với việc tạo lập cơ sở pháp lý cho chính quyền cách mạng, Đảng cũng đã đề ra và lãnh đạo Nhân dân thực hiện nhiều biện pháp nhằm huy động sức mạnh đoàn kết của toàn dân để giải quyết nạn đói, nạn dốt, từng bước chăm lo đời sống cho Nhân dân; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám.
Đặc biệt, trên mặt trận ngoại giao, với phương châm thêm bạn, bớt thù và nhân nhượng có nguyên tắc, Đảng đã thực hành sách lược khôn khéo để tránh cho cách mạng cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù. Vì vậy, trong thực hiện sách lược ngoại giao, lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để rảnh tay đối phó với thực dân Pháp xâm lược, lúc thì hoà với Pháp để quét sạch hai chục vạn quân Tưởngvà bọn phản động,tay sai của chúng ra khỏi đất nước, đưa cách mạng vượt qua thử thách hiểm nghèo bởi sự bao vây, chống phá của các thế lực đế quốc và bọn phản động trong nước, tạo thời gian cho toàn Đảng, toàn dân chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.
Có thể khẳng định rằng, thành công nổi bật của hơn một năm xây dựng chính quyền non trẻ là với những chủ trương, biện pháp Đảng đề ra và lãnh đạo nhân dân thực hiện, cách mạng Việt Nam đã có được sức mạnh để có thể tự bảo vệ thành quả cách mạng của chính mình đúng như quan điểm của Lênin là cách mạng phải biết tự bảo vệ.Những biện pháp cực kỳ sáng suốt của Đảng trong chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám tiếp tụccho thấy sự lãnh đạo tài ba của Đảng ta và đã được ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời về sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo của Đảng trong việc đề ra đường lối và lãnh đạo cách mạng; để lại cho Đảng nhiều những bài học kinh nghiệm cho các thời kỳ cách mạng về sau và ngay cả đến hiện nay.
Phát huy những thành công, những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo cách mạng ở những năm đầu khi mới giành được chính quyền, trong các thời kỳ cách mạng sau, Đảng tiếp tục lãnh đạo Nhân dân ta làm nên những thắng lợi to lớn kể cả trong đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc, cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Đặc biệt, trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới, mặc dù quá trình đó cũng phải đối mặt với nhiều cam go, thử thách, có lúc tưởng chừng như không vượt qua được, nhất là sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Tuy nhiên sau 35 năm đổi mới, như đánh giá của Đại hội XIII, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tốhàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong thời gian tới, như dự báo của Đảng tại Đại hội XIII, công cuộc đổi mới của chúng ta có nhiều cơ hội lớn nhưng cũng phải đối mặt với không ít những khó khăn thử thách, đòi hỏi Đảng ta phải nâng tầm hơn nữa cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong thời kỳ mới.Chính vì vậy, Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra các quan điểm chỉ đạo và các nhiệm vụ giải pháp để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới trong thời gian tới, trong đó xây dựng Đảng vẫn được Đảng xác định là nhiệm vụ then chốt.
Về phương hướng của công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ, Đại hội XIII đã nêu rõ: “Tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng. Phát huy sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; coi trọng hơn nữa công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, củng cố và không ngừng nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Xây dựng, hoàn thiện chính sách phát hiện, thu hút, sử dụng nhân tài; có cơ chế bảo vệ những cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Đẩy mạnh đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí”[1].
Đồng thời, cùng với xác định phương hướng, tại Đại hội XIII, Đảng cũng đã đề ra 10 nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ về công tác xây dựng Đảng để thực hiện, trong đó xác định 3 nhiệm vụ trọng tâmcần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện là: [1] Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện các quy định về trách nhiệm nêu gương; [2] Đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; [3] Tiếp tục đổi mới, kiện toàn và từng bước hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Với những quan điểm chỉ đạo và những nhiệm vụ giải pháp mà Nghị quyết Đại hội XIII đã đưa ra, tin tưởng rằng, với một Đảng cách mạng chân chính, có bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín lãnh đạo như Đảng ta, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ, chúng ta sẽ có một sức mạnh to lớn, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, không thế lực nào ngăn cản nổi dân tộc ta đi lên, lập nên những kỳ tích trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước./.

[1]Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr 228-230.

Video liên quan

Chủ Đề