Tình hình sản xuất bánh kẹo trên thế giới

Trong bối cảnh kinh tế vẫn còn khó khăn và sức mua chưa tăng mạnh, nhiều người vẫn thắt chặt tiêu dùng, thì thị trường bánh kẹo vẫn được kỳ vọng sẽ thành công, bởi các “cửa ngõ” trên “con đường tơ lụa” của ngành bánh kẹo ngày càng nhiều và dài ra… 

Tình hình sản xuất bánh kẹo trên thế giới

Không tăng trưởng quá mạnh trong những năm qua là đặc trưng của ngành bánh kẹo Việt Nam. Tuy nhiên, đây lại chính là cơ sở cho thấy ngành bánh kẹo Việt Nam vẫn chưa thực sự đạt đến đỉnh như nó có thể đạt tới trong tương lai. Sự tăng trưởng ổn định trong mức bình quân 10-12%, ở một thị trường có dân số đông đứng thứ 13 thế giới. Bên cạnh đó, cũng là một yếu tố cho thấy ngành bánh kẹo đã đi vào chu kỳ kinh doanh phát triển, tốt hơn nhiều lĩnh vực kinh doanh khác.

Báo cáo của BMI về ngành thực phẩm và đồ uống Việt Nam cho biết, tốc độ tăng trưởng doanh số của ngành bánh kẹo (bao gồm cả socola) trong giai đoạn 2010 – 2014 ước đạt 8 – 10%. Và thực tế là mức tăng trưởng (10 – 12%) so với mức trung bình trong khu vực (3%) và trung bình của thế giới (1 – 1,5%), thực sự rất ổn. Hiện nay, mức tiêu thụ bánh kẹo bình quân của Việt Nam vẫn khá thấp (1,8 kg/người/năm) so với trung bình của thế giới là 2,8 kg/người/năm. Vậy thử đặt ngược một câu hỏi, nếu mức tiêu thụ trung bình của người Việt Nam tăng bằng mức trung bình về tiêu thụ của thế giới xét trên đầu người, tăng trưởng của ngành ở Việt Nam sẽ còn đạt tới đâu?

Trong một hội thảo về Quy hoạch phát triển ngành kỹ nghệ thực phẩm đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 do Bộ Công Thương tổ chức ngày đầu tháng 8, ông Vũ Quang Hùng – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược – Chính sách công nghiệp (Bộ Công Thương) đã cho rằng bánh kẹo sẽ là ngành phát triển nhất.

Ông Hùng dẫn các số liệu nghiên cứu để xác nhận tốc độ tăng trưởng của ngành kỹ nghệ thực phẩm thời gian qua tương đối tốt, giai đoạn 2006 – 2010 tăng trên 17%, trong đó sản xuất bánh kẹo tăng gần 35%, mỳ chính là 10% và mỳ ăn liền tăng xấp xỉ 10%. Giá trị sản xuất của ngành cũng có mức tăng khá, từ 6.000 tỷ đồng (2005) lên gần 17.000 tỷ đồng (2011).

Sự thay đổi cơ cấu của ngành kỹ nghệ thực phẩm nói chung, từ mỳ ăn liền chiếm tỉ trọng lớn (và nay đã có phần bão hòa), nhường chỗ cho bánh kẹo (chiếm 40% tỉ trọng ở năm 2011) cũng là cơ sở chứng minh cho sự tăng trưởng của bánh kẹo theo thời gian. Bánh kẹo đã thực sự bắt được nhịp quay của xu hướng tăng trưởng chi tiêu tiêu dùng đang được dự báo sẽ bùng nổ tại Việt Nam trong thời gian tới.

Luận văn Phân tích môi trường kinh doanh ngành sản xuất bánh kẹo 1 LỜI MỞ ĐẦU Trong xu hướng hội nhập hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế các nước và nền kinh tế khu vực và thế giới hiện nay, hoạt động kinh tế quốc tế trở nên vô cùng quan trọng, chúng đóng vai trò thúc đẩy nền kinh tế của các quốc gia cũng như nền kinh tế thế giới phát triển không ngừng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Để cùng hoà nhập vào xu thế đó, các doanh nghiệp phải hoàn toàn tự chú trọng sản xuất – kinh doanh, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Mặt khác, mỗi doanh nghiệp là một phần hệ kinh tế mở trong nền kinh tế quốc dân và từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp không chỉ chú trọng đến thực trạng và xu thế biến động của môi trường kinh doanh trong nước mà còn phải tính đến cả các tác động tích cực cũng như tiêu cực của môi trường kinh doanh khu vực và quốc tế. Môi trường kinh doanh ngày càng rộng, tính chất cạnh tranh và biến động của môi trường ngày càng mạnh mẽ, việc vạch hướng đi trong tương lai càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của các doanh nghiệp, các ngành kinh tế. Vì vậy việc phát triển doanh nghiệp cũng như phát triển ngành là công cụ định hướng và điều khiển các hoạt động của doanh nghiệp theo các mục tiêu phù hợp với tình hình hiện nay và do đó, nó đóng vai trò quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Với nhận thức nh- vậy, nhóm chúng em chọn ngành sản xuất bánh kẹo để phân tích môi trường vĩ mô và môi trường ngành để thấy được môi trường kinh doanh còng nh- chiến lược kinh doanh của ngành trong giai đoạn hiện nay. 2 I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÀNH SẢN XUẤT BÁNH KẸO VIỆT Nam. 1. Vai trò của ngành trong cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam hiện nay : Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi rõ rệt trên nhiều lĩnh vực. Với chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nền kinh tế của đất nước được mở rộng và phát triển không ngừng, với nhiều ngành nghề kinh doanh phong phú và đa dạng. Mỗi một ngành nghề có vai trò riêng của mình cùng đóng góp chung vào sự phát triển nền kinh tế đất nước. Ngành sản xuất bánh kẹo là một trong những ngành có vai trò quan trọng vào sự đóng góp chung đó. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, mức sống của nhân dân không ngừng cải thiện, nhu cầu của người dân ngày một phong phú và đa dạng. Để đáp ứng được yêu cầu đó ngành sản xuất bánh kẹo cần không ngừng nâng cao cải tién máy móc thiết bị sản xuất nhằm làm tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm (mẫu mã, bao bì…), ổn định thị trường. Đồng thời để cạnh tranh với các sản phẩm bánh kẹo nhập khẩu ngày càng nhiều trên thị trường. Mặt khác, sản phẩm bánh kẹo nhập ngoại ngày một gia tăng với chất lượng khá cao, mẫu mã bao bì đẹp đẽ tràn ngập trên thị trường. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo của Việt Nam cần không ngừng cải tiến công nghệ kỹ thuật nhằm làm tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó ngành sản xuất bánh kẹo góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống của người lao động và đồng thời làm tăng ngân sách cho nhà nước. 2. Thực trạng của ngành sản xuất bánh kẹo Việt Nam hiện nay. Chất lượng sản phẩm được quyết định bởi nhiều yếu tố kết hợp nh- : nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, trình độ tay nghề của công nhân trình độ tổ chức quản lý sản xuất… Sản phẩm của các doanh nghiệp trong những năm 80 và những năm trước đó, sản xuất theo quy định của cấp trên sản phẩm đã có uy tín trên thị 3 trường, được người tiêu dùng yêu thích bởi chất lượng của sản phẩm. Các doanh nghiệp sản xuất đã đạt được thành quả này trong cơ chế kinh tế cũ, vì thời gian này máy móc thiết bị của các doanh nghiệp còn mới, còn hoạt động tốt, nguyên vật liệu được bao cấp hết và chủ yếu là nguyên vật liệu nhập ngoại nên chất lượng tốt. Hơn nữa, thời kỳ này trên thị trường chưa có nhiều sản phẩm bánh kẹo ngoại nhập nên sản phẩm của các ngành được ưa chuộng và tiê thụ với khối lượng lớn. Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường vào cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90, do máy móc thiết bị xuống cấp, cơ chế lại chuyển đổi, các doanh nghiệp phải tự hạch toán kinh doanh, không còn tồn tại chế độ bao cấp như trước nữa, nguyên liệu không được cung cấp đầy đủ phục vụ cho quá trình sản xuất, nhất là các phụ gia quan trọng. Với tất cả những thay đổi trên các doanh nghiệp chưa thích nghi được với cơ chế thị trường, nên có sự trì trệ trong sản xuất và quản lý dẫn đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra không đảm bảo yêu cầu, ngày càng giảm sút. Mặt khác, các sản phẩm bánh kẹo nước ngoài đã bắt đầu xâm nhập vào thị trường Việt Nam. Đây là thách thức lớn cho ngành sản xuất bánh kẹo của Việt Nam hiện nay. Đứng trước tình hình đó, các doanh nghiệp đã kịp thời có những thay đổi để bắt kịp và hoà nhập với nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp đã đầu tư chú trọng rất nhiều vào sản xuất hàng công tác đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, để dần lấy lại uy tín của mình trên thị trường cạnh tranh. Các doanh nghiệp đã từng bước và sửa chữa nâng cấp máy móc, thiết bị hiện có, mua sắm thêm một số dây truyền công nghệ tiên tiến của các nước… mở rộng danh mục mặt hàng bằng sản phẩm mới, củng cố và mở rộng thị trường nguyên liệu đầu vào cho sản xuÊt bằng cách ký nhiều hợp đồng với bạn hàng để đảm bảo cung cấp đầy đủ, đúng loại nguyên liệu theo yêu cầu của sản xuất, củng cố và hoàn thiện hệ thống kiểm tra chất lượng sản phẩm. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã nghiên cứu, tiến tới các phương pháp sản xuất mới và đạt kết quả cao nhất. Cùng với nó, tiêu chuẩn chất lượng sản 4 phẩm cũng thay đổi cho phù hợp với điều kiện mới. Bên cạnh những thay đổi và cố gắng đó của các doanh nghiệp, thì vẫn còn những vấn đề tồn tại mà các doanh nghiệp không hoặc chưa kịp giải quyết như : thiết bị sản phẩm, phụ tùng thay thế chưa sẵn có, nguyên vật liệu cung ứng nhiều khi còn chậm, không đúng tiêu chuẩn chất lượng yêu cầu của sản xuất, trình độ công nhân còn nhiều hạn chế, tay nghề cao còn Ýt, chưa thực sự có ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp trong sản xuất . Những tồn tại đó ảnh hưởng không Ýt đến công tác đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp trong ngành. Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp đã đầu tư một lượng máy móc thiết bị khá hiện đại góp phần đáng kể trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm của ngành. Mỗi dây truyền sản xuất, ngoài những công nhân phân xưởng được bố trí còn có kỹ sư phụ trách về kỹ thuật nhằm đảm bảo cho dây truyền hoạt động liên tục và khắc phục những sự cố kỹ thuật ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Cán bộ kiểm tra chất lượng sản phẩm thường xuyên theo sát quá trình sản xuất, để nắm bắt tình hình chất lượng kịp thời, ngăn không cho sản phẩm kém chất lượng được xuất xưởng và đến tay người tiêu dùng. Các doanh nghiệp đã có nhiều nỗ lực trong công tác quản lý chất lượng sản phẩm còng nh- sù đầu tư những máy móc thiết bị hục vụ cho công tác này. - Chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp ngày càng được nâng cao nhưng chưa đạt đến mức tối ưu, sản phẩm sai háng vẫn còn nhiều : Nguyên nhân của vấn đề này là do trình độ tay nghề công nhân còn thấp và máy móc thiết bị cũ vẫn hoạt động bên cạnh những công nghệ dây truyền hiện đại, nên đôi khi gây ra sự ngừng trệ không đáng có… Để đạt được mục tiêu đến 2005. Không có sản phẩm sai lỗi, thì ngay từ bây giê các doanh nghiệp phải thực hiện chương trình làm đúng ngay từ đầu. Đièu đó đòi hỏi các cán bộ công nhân viên trong các doanh nghiệp phải tận tâm, tận lực hơn với quá trình sản xuất, thực hiện công tác kiểm tra sát sao tất cả các quá trình : Chọn người 5 cung ứng, kiểm tra nguyên vật liệu nhập kho, xuất kho sản xuất và kiểm tra sản phẩm… II. PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG KINH DOANH NGÀNH SẢN XUẤT BÁNH KẸO. 1. Môi trường vĩ mô 1.1. Điều kiện về kinh tế . Các nhân tố kinh tế có vai trò quan trọng hàng đầu và ảnh hưởng có tính quyết định đến hoạt động kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế ảnh hưởng mạnh nhất đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các ngành thường là trạng thái phát triển của nền kinh tế : tăng trưởng, ổn định hay suy thoái. Nền kinh tế nước ta đạt được sự tăng trưởng đáng kể trong những năm gần đây. Năm 2002 ở mức 7,0% thì đến năm 2003 tốc độ tăng trưởng tiếp tục tăng 7,24%. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong khu vực và cao thứ hai ở Châu Á sau Trung Quốc, thể hiện những bước đi đúng trong đường lối mở cửa nền kinh tế nước ta của Đảng và Chính phủ. Về tỷ giá hối đoái trong giai đoạn hiện nay đồng tiền Việt Nam liên tục bị mất giá đã tác động đến tình hình XNK như mua nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị… Đây là một cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tăng xuất khẩu. Lạm phát trong thời gian qua ở Việt Nam luôn giữ ở mức tương đối ổn định khoảng 0,3 – 0,5%/năm. Đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.2. Các yếu tố về chính trị, luật pháp. Pháp uật của mỗi quốc gia là nền tảng để tạo ra môi trường kinh doanh của nước đó. Nhân tố về chính trị và pháp luật có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của ngành. Sự thay đổi về chính trị và pháp luật có thể là cơ hội nguy cơ hoá cho các ngành, các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị 6 trường ngoài tuân thủ pháp luật trong nước còn phải tuân theo những quy định chung cuả cả nước với nhau, các hiệp ước quốc tế. Các doanh nghiệp muốn tồn tại phát triển thì phải nắm bắt được sự thay đổi của tất cả các yếu tố trên. Ở Việt Nam môi trường chính trị tương đối ổn định do đó nó là cơ hội tốt cho các ngành kinh tế, các doanh nghiệp kinh doanh và phát triển. Thể chế chính trị ổn định, đường lối chính trị mở rộng giúp các ngành kinh tế, các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi trong việc phát triển các mối quan hệ sản xuất kinh doanh với bên ngoài. Ngành sản xuất bánh kẹo cũng như các ngành khác độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh của mình, phát triển các mối liên doanh, liên kết lùa chọn đến công tác làm ăn, tăng khả năng cạnh tranh, có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu. Nền kinh tế Việt Nam hoạt động theo cơ chế thị trường dưới sự kiểm soát của Nhà nước, vì vậy giảm bớt được những rủi ro có thể xảy ra về mặt tài chính. Việc kiểm soát và điều chỉnh tỷ giá tạo thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh trong nước. Tuy nhiên cơ sở hạ tầng của ta còn thấp kém, hệ thống pháp luật lỏng lẻo, không hiệu quả dẫn đến tình trạng nhập lậu bánh kẹo, hàng kém chất lượng. 1.3. Điều kiện về kỹ thuật – công nghệ. Trong phạm vi môi trường kinh tế quốc dân, nhân tố kỹ thuật công nghệ cũng đóng vai trò ngày càng quan trọng, mang tính chất quyết định đối với khả năng cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay, sự phát triển nhanh chóng mọi lĩnh vực kỹ thuật – công nghệ đều tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của mọi doanh nghiệp có liên quan. Với trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại ở nước ta hiệu quả các hoạt động ứng dụng, chuyển giao công nghệ đã, đang và sẽ ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến hoạt động của nhiều doanh nghiệp. 7 Do sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ cho ra nhiều thành tựu mới áp dụng trong đời sống xã hội đem lại hiệu quả kinh tế cao. Chính nhờ việc áp dụng những thành tựu của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, đầu tư các máy móc, dây chuyền công nghệ mới hiện đại trên cơ sở cải tiến những thiết bị cũ, áp dụng phương thức sản xuất mới nên đã làm cho chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao, giá thành giảm, nâng cao khả năng cạnh tranh. Ngành đầu tư, đổi mới các dây chuyền sản xuất bánh Craker của Pháp, Ý, dây chuyền sản xuất Carame của Đức… Cùng với các công nghệ nấu kẹo của Đức, Hà Lan thay thế cho công nghệ cũ làm cho sản phẩm làm ra ngày một tốt hơn, đa dạng hơn về chủng loại mẫu mã, tham gia cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường. Việc sử dụng các phương tiện thông tin, xử lý thông tin nhanh đã giúp cho ngành đáp ứng nhanh được những thay đổi của môi trường và đạt hiệu quả cao. 1.4. Điều kiện về môi trường văn hoá - xã hội. Văn hoá xã hội ảnh hưởng một cách chậm chạp, song cũng rất sâu sắc đến hoạt động quản trị và kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Các vấn đề về phong tục tập quán, lối sống, trình độ dân trí, tôn giáo, tín ngưỡng… Có ảnh hưởng rất sâu sắc đến cơ cấu của cầu trên thị trường. Văn hoá xã hội còn tác động trực tiếp đến việc hình thành môi trường văn hoá doanh nghiệp. Phong tục, tập quán, lối sống, thị hiếu, thãi quen tiêu dùng của người dân có ảnh hưởng sâu sắc đến cơ cấu nhu cầu thị trường và từ đó ảnh hưởng dến hoạt động kinh doanh của ngành sản xuất bánh kẹo. Thị hiếu tiêu dùng bánh kẹo của người dân ở miền Bắc, miền Trung, miền Nam là khác nhau nên khả năng đáp ứng của ngành cũng khác nhau. Có đoạn thị trường ngành sản xuất bánh kẹo đáp ứng tốt nhưng có đoạn thị trường lại bị các đối thủ cạnh tranh lấn át. Do vậy ở những khu vực khác nhau ngành cần phải có các chính sách sản phẩm và tiêu thụ thích hợp cho từng khu vực. 1.5. Điều kiện tự nhiên. 8 Các nhân tố tự nhiên : bao gồm các nguồn lực tài nguyên, thiên nhiên, có thể khai thác, các điều kiện về địa lý như địa hình, đất đai, thời tiết, khí hậu… ở trong nước cũng như ở trong khu vực. Các điều kiện tự nhiên có thể ảnh hưởng đến hoạt động của từng loại doanh nghiệp khác nhau. Tài ngyên thiên nhiên tác động có tính chất quyết định đến hoạt động của các doanh nghiệp khai thác, điều kiện đất đai, thời tiết, khí hậu… tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp, các ngành, địa hình và sự phát triển cơ sở hạ tầng tác động đến việc lùa chọn địa điểm của mọi doanh nghiệp ; khí hậu, độ Èm, không khí tác động mạnh đến nhiều ngành sản xuất ; từ khâu thiết kế sản phẩm đến việc tạo ra các điều kiện cần thiết ở khu vực sản xuất và đến công tác lưu kho… Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng ở mức độ khác nhau, cường độ khác nhau đối với từng loại doanh nghiệp ở các địa điểm khác nhau và nó cũng tác động theo cả hai xu hướng : tích cực và tiêu cực. Sản phẩm bánh kẹo của toàn ngành sản xuất bánh kẹo chịu ảnh hưởng lớn của khí hậu nóng Èm. Do vậy, đã ảnh hưởng xấu đến chất lượng và năng suất lao động, khó khăn cho việc bảo quản và vận chuyển sản phẩm. Bên cạnh đó, thị trường của ngành là rộng lớn, phần đa các Công ty sản xuất bánh kẹo đều tập trung ở khu vực đông dân cư, sức mua lớn… rất thuận lợi cho việc giao dịch, mua bán, trao đổi và tăng khả năng cạnh tranh của ngành đối với các đối thủ cạnh tranh khác, nhưng ngược lại việc thâm nhập của ngành vào các thị trường ở xa như miền núi, vùng sâu vùng xa lại gặp nhiều khó khăn do các yếu tố địa lý, khoảng cách vận chuyển xa, thị hiếu tiêu dùng khác nhau. 1.6. Toàn cầu hoá. Trước đây cơ chế kinh tế của nước ta là cơ chế đóng, hoạt động của các đơn vị kinh tế Ýt chịu ảnh hưởng của môi trường quốc tế. Ngày nay xu tế khu vực hoá và quốc tế hoá nền kinh tế thế giới là xu hướng có tính khách quan. Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo hướng mở cửa và hội 9 nhập, nền kinh tế quốc dân nước ta trở thành một phân hệ mở cửa hệ thống lớn là khu vực và thế giới, hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp nước ta phụ thuộc vào môi trườn quốc tế mà trước hết là những thay đổi chinhs trị thế giới. Để hoà nhập vào xu hướng đó ngành sản xuất bánh kẹo nước ta luôn xây dùng cho mình một chiến lược cạnh tranh lành mạnh và thích hợp, để nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. 2. Phân tích môi trường ngành. Môi trường ngành có ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành bại của doanh nghiệp. Việc phân tích môi trường ngành xác định nhiều cơ hội và thách thức trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng thành công của ngành. M.Porter đưa ra mô hình 5 áp lực cạnh tranh, chính mô hình này cho phép chúng ta tái hiện lại các lực lượng cạnh tranh trong ngành. Trong bất kỳ ngành nào còng nh- ngành sản xuất bánh kẹo đều chịu 5 áp lực cạnh tranh. Søc Ðp tõ c¸c ®èi thñ tiÒm Èn Søc Ðp tõ nhµ cung cÊp Ngµnh s¶n xuÊt b¸nh kÑo Søc Ðp tõ phÝa kh¸ch hµng Søc Ðp tõ c¸c s¶n phÈm thay thÕ 2.1. Sức Ðp từ các đối thủ tiềm Èn. Đảng và Nhà nước có chủ trương đường lối kinh tế đúng đắn, đẩy mạnh nội lực và hợp tác phát triển với các nước trong khu vực còng nh- trên thế giới. Nước ta đã chính thức nhập khối ASEAN, tiến tới gia nhập AFTA, 10 WTO là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế nói chung và ngành bánh kẹo nói riêng, nhưng đó cũng là những thách thức lớn cho tất cả các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt là sức Ðp từ các đối thủ tiềm Èn đã làm thay đổi sức cạnh tranh ngành. Tuy nhiên, để có thể xuất hiện trên thị trường thì các đối thủ tương lai còn phải vượt qua được rào cản gia nhập ngành kinh doanh này. + Thứ nhất, lợi thế kinh tế quy mô : Là những lợi thế về chi phí mà chỉ có các doanh nghiệp trong ngành có quy mô lớn có được khi các sản phẩm cộng dồn tăng lên thì chi phí để sản xuất ra một sản phẩm giảm. Đòi hỏi các doanh nghiệp gia nhập ngành phải đầu tư sản xuất với quy mô lớn, nếu không thì họ sẽ bất lợi về chi phí. Hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo của nước ta có quy mô tương đối lớn, nhiều loại sản phẩm tạo được uy tín với khách hàng trong nước và quốc tế. + Thứ hai, tiếp cận các kênh phân phối : Đây cũng là một rào cản nhập ngành đòi hỏi các đối thủ mới khi gia nhập cần tiếp cận được và có được kênh phân phối mới để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp đã tồn tại và phát triển. + Thứ ba : bí quyết về công nghệ kỹ thuật : Các doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường đã có sẵn trên thị trường thì phải tìm kiếm về doanh nghiệp đã tồn tại, phải nắm bắt công nghệ của họ. Công nghệ là một trở ngại lớn đối với các đối thủ muốn gia nhập thị trường bánh kẹo. 11 + Thứ tư : nhu cầu về vốn : Vốn là một trong những đầu vào quan trọng không thể thiếu được trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong thực tế có rất nhiều doanh nghiệp trong tổng số gần 6000 doanh nghiệp Nhà nước phải đóng cửa vì thiếu vốn hoạt động do hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bánh kẹo trong nhiều năm qua có hiệu quả , kết hợp với việc huy động vốn từ nhiều nguồn vốn nên các doanh nghiệp có tiềm lực về vốn khá mạnh. Chính đảm bảo được vốn sản xuất kinh doanh giúp cho quá trình sản xuất có hiệu quả. + Thứ năm : Sù khác biệt hóa về sản phẩm và các đặc trưng về thương hiệu đã tạo ra một rào cản bắt buộc các doanh nghiệp nhập ngành phải tốn nhiều chi phí để chinh phục khách hàng đối với các sản phẩm của các doanh nghiệp trong ngành. Do các doanh nghiệp đã tồn tại lâu trên thị trường, cho nên doanh nghiệp đã chiếm được cảm tình, lòng tin và sự trung thành của khách hàng. Lòng tin và sự trung thành của khách hàng càng cao thì càng gây khó khăn cho các đối thủ mới muốn gia nhập thị trường. + Thứ sáu : các chính sách của chính phủ : Chính phủ có thể hạn chế hoặc ngăn cản các doanh nghiệp thâm nhập vào ngành sản xuất bánh kẹo . Đối với lĩnh vực bánh kẹo, muốn gia nhập vào ngành cần phải được sự chấp thuận của Nhà nước. Ngày nay, theo xu thế hội nhập, mở cửa, các nước đều có xu hướng mở cửa thị trường bánh kẹo. Việt Nam còng không nằm ngoại lệ. Đảng và Nhà nước chủ trương từng bước cho phép các thành phần kinh tế tham gia thị trường bánh kẹo. Đây chính là cơ hội thuận lợi cho các đối thủ mới bước vào thị trường và là nguy cơ sẽ có thêm các đối thủ cạnh tranh đối với ngành. 2.2. Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành 12 Hiện nay ngành bánh kẹo nước ta đang phát triển mạnh, nhiều doanh nghiệp, công ty đã xuất hiện trên thị trường Việt Nam với chất lượng sản phẩm cao, mẫu mã đẹp, phù hợp với thị hiếu cũng như thu nhập của tiêu dùng như : công ty bánh kẹo Hải Châu, Tràng An, Biên Hoà…. Việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành xẩy ra rất quyết liệt. Mặt khác các doanh nghiệp còn đối mặt với sản phẩm bánh kẹo nhập ngoại vào nước ta. Do vậy để có thể đứng vững trên thị trường hiện nay, các công ty, doanh nghiệp không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, việc đầu tư mua sắm thiết bị mới là nhằm tăng năng suất chất lượng sản phẩm là rất cần thiết đối với các doanh nghiệp trong ngành. Đồng thời các doanh nghiệp phải chú trọng đào tạo bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kỹ năng tay nghề, và những kiến thức về quản lý chất lượng, bảo quản có ý nghĩa quyết định đến năng suất chất lượng, hiệu quả của doanh nghiệp. Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành là mạnh mẽ nhất, khi cạnh tranh giữa các doanh nghiệp mạnh mối đe doạ càng lớn và nã phụ thuộc vào các yếu tố sau: + Cấu trúc của ngành là phân tán, trong ngành có rất nhiều doanh nghiệp với quy mô vừa và nhỏ. Do đó rào cản gia nhập ngành cũng nhỏ, Ýt có sự liên kết giữa các doanh nghiệp cho nên có nhiều doanh nghiệp gia nhập và rút lui khỏi ngành. + Tốc độ tăng trưởng của thị trường : thị trường là một yếu tố quan trọng đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nếu nhu cầu của thị trường tăng cao thì mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sẽ không gay gắt, vì các doanh nghiệp có khả năng mở rộng thị trường hơn. Khi tốc độ tăng trưởng chậm lại thì các đối thủ sẽ cạnh tranh gay gắt để giành thị phần. Hiện nay thị trường bánh kẹo của nước ta đang ở giai đoạn tăng trưởng cùng với mức độ tăng trưởng của nền kinh tế, do vậy mức độ cạnh tranh chưa gay gắt. Tuy nhiên nếu tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế chậm lại do những 13 nguyên nhân nào đó thì nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm bánh kẹo sẽ giảm, điều đó dần đến mức độ cạnh tranh trên thị trường bánh kẹo sẽ mạnh hơn, vì các đối thủ phải cố giữ giành được thị trường. 2.3. Sự cạnh tranh giữa các sản phẩm thay thế Sản phẩm thay thế là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Kỹ thuật – công nghệ càng phát triển sẽ càng tạo ra khả năng tăng số loại sản phẩm thay thế. Càng nhiều 14 loại sản phẩm thay thế xuất hiện bao nhiêu sẽ càng tạo ra sức Ðp lớn đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bấy nhiêu. Sự tồn tại của các sản phẩm thay thế sẽ là sức Ðp rất lớn của các sản phẩm thay thế nó đã đặt ra một mức giá trần mà các doanh nghiệp có thể đặt ra cho sản phẩm của mình. Trong một ngành càng có nhiều sản phẩm thay thế thì sức Ðp giữa các sản phẩm thay thế càng lớn. Trong những năm gần đây đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng đa dạng và phong phó do vậy nhu cầu tiêu dùng của con người ngày càng cao. Để đáp ứng thị hiếu tiêu dùng của khách hàng trên thị trường đã xuất hiện nhiều sản phẩm mới. Đây là những sản phẩm thay thế có thể gây khó khăn cho sự phát triển của ngành. Để giảm sức Ðp của sản phẩm thay thế ngành sản xuất bánh kẹo cần có các giải pháp cụ thể như: phải luôn chú ý đến khâu đầu tư đổi mới kỹ thuậtcông nghệ, có các giải pháp đồng bộ nâng cao chất lượng sản phẩm để cạnh tranh với sản phẩm thay thế, luôn chú ý đến các giải pháp khác biệt hoá sản phẩm cũng như trong từng giai đoạn phát triển cụ thể phải biết tìm và rút về phân đoạn thị trường. Ngoài ra khi xem xét các sản phẩm thay thế ngành cần quan tâm đến số lượng các sản phẩm thay thế và giá của các sản phẩm thay thế. 2.4. Sức Ðp từ phía nhà cung cấp Các nhà cung cấp có vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành. Theo M.Porter, số lượng nhà cung cấp Ýt hay nhiều, tính chất thay thế của các yếu tố đầu vào khó hay dễ, tầm quan trọng của các yếu tố đầu vào cụ thể đến với hoạt động của doanh nghiệp, khả năng của các nhà cung cấp là những yếu tố tạo ra sức Ðp . Từ phía các nhà cung cấp tới hoạt động mua sắm và dự trữ còng nh- tuyển dụng lao động của từng doanh nghiệp. Đối với ngành sản xuất bánh kẹo của Việt Nam hiện nay. Hàng năm các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh một khối lượng lớn bánh kẹo, do 15 vậy có nhu cầu tiêu dùng cao về đường, sữa, bột gạo, bột mú, tinh dầu, Gluco, nha… trong đó thị trường trong nước mới chỉ cung cấp được nguyên liệu như : đường, bột gạo, bột mú, nha, …. Từ các nhà máy Lam Sơn, Quảng Ngãi, công ty Cái Lân, công ty sữa Việt Nam. Đây là nhà cung cấp thường xuyên nguyên vật liệu cho doanh nghiệp, đảm bảo chất lượng và giá cả hợp lý. Còn phần lớn các nguyên liệu khác phải nhập từ nước ngoài nh- : Singapo, Malaixia, Thái Lan, Hà Lan …. Và chịu sự biến động giá cả trên Thị trường thế giới. Tỷ giá hối đoái thường thay đổi đã gây ra nhiều khó khăn trong việc cung ứng nguyên vật liệu cho sản xuất, làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. Để khắc phục tình trạng này, các doanh nghiệp đã chủ động ký kết các hợp đồng cung ứng dài hạn với một số doanh nghiệp, nhà máy chuyên sản xuất và kinh doanh các loại nguyên vật liệu nhằm giảm bớt chi phí và bảo quản nguyên vật liệu, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo của Việt Nam phần lớn tập trung ở một số tỉnh và thành phố lớn, nơi tập trung đông dân cư. Trong khi đó các nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào lại phân tán, do đó sức Ðp của nhà cung cấp lên các doanh nghiệp là tương đối nhỏ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành. Để tránh bị Ðp giá các doanh nghiệp luôn luôn theo dõi, bám sát thị trường tìm nguồn hàng có chất lượng tốt. Doanh nghiệp cần năng động trong việc tìm nguồn cung cấp có chính sách thưởng cho các cá nhân, tổ chức nào tìm được nguồn cung cấp tốt, ổn định, giá rẻ. 2.5. Sức Ðp từ phía khách hàng Khách hàng của doanh nghiệp là những người có cầu về sản phẩm (dịch vụ) do doanh nghiệp cung cấp. Đối với mọi doanh nghiệp, khách hàng không chỉ là các khách hàng hiện tại mà phải tính đến các khách hàng tiềm Èn. Khách hàng là người tạo ra lợi nhuận, tạo ra sự thắng lợi của doanh nghiệp. 16 Căn cứ sản phẩm (dịch vụ) là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng có tính quyết định đến mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong một thời kỳ nhất định, số cần vừa tác động trực tiếp đến việc nghiên cứu quyết định cung của doanh nghiệp, lại vừa tác động đến mức độ và cường độ cạnh các doanh nghiệp cùng ngành, thị hiếu của khách hàng cũng như các yêu cầu cụ thể của khách hàng về chất lượng sản phẩm tính nhạy cảm của khách hàng về giá cả…đều tác động trực tiếp có tính quyết định đến việc thiết kế sản phẩm (DV). Doanh nghiệp đáp ứng đúng các yêu cầu khách hàng sẽ dành được thắng lợi trong kinh doanh ngược lại doanh nghiệp nào không hoặc chú ý đúng mức tới nhu cầu của khách hàng ắt sẽ thất bại. Khách hàng của các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo, hầu hết là các đại lý và các nhà bán buôn. Họ đều có quan hệ gắn bó mật thiết với doanh nghiệp, hoạt động trên cơ sở hoa hồng đại lý và được các doanh nghiệp thực hiện giá bán ưu đãi, cho nền lợi Ých của họ gắn liền với lợi Ých của doanh nghiệp. Đây là một thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc phát triển mở rộng thị trường, đẩy mạnh quá trình tiêu thụ hàng hoá. Các đại lý góp phần không nhỏ vào việc tạo lập uy tín, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong thời gian gần đây, trên thị trường ngày càng xuất hiện nhiều sản phẩm bánh kẹo nhập ngoại có chất lượng cao, giá cả rẻ, mẫu mã đã dạng đáp ứng được nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng. Đây là những cơ hội rất tốt cho khách hàng có thể lùa chọn những sản phẩm mà mình ưa thích trên thị trường. Đó là những sức Ðp từ phía khách hàng lên doanh nghiệp. Do vậy các doanh nghiệp của Việt Nam muốn thu hót được khách hàng, đồng thời có thế cạnh tranh với hàng ngoại thì doanh nghiệp phải xây dùng cho mìh một chiến lược sản xuất kinh doanh sao cho phù hợp với những đòi hỏi của khách hàng như : Giảm giá, chất lượng hàng hoá cao hơn với các dịch vụ tốt hơn. III. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH SẢN XUẤT BÁNH KẸO TRONG TƯƠNG LAI 17 1. Phương hướng phát triển của ngành đến năm 2005 1.1. Phương hướng chung của ngành Hiện nay ngành bánh kẹo nước ta đang phát triển nhanh với tốc độ 1015% mỗi năm. Có sản phẩm hàng nội đã được người tiêu dùng trong nước đánh giá cao không thua kém gì hàng ngoại. Chính những thuận lợi này đã giúp các nhà sản xuất bánh kẹo thêm tin tưởng vào sự phát triển trong tương lai, tiến tới “Người Việt Nam dùng bánh kẹo Việt Nam” đẩy lùi hàng nhập ngoại và đẩy mạnh xuất khẩu bánh kẹo Việt Nam ra nước ngoài. Theo dự đoán về thị trường bánh kẹo trong nước đến năm 2005 cho thấy Việt Nam có nhiều thuận lợi trong lĩnh vực phát triển sản xuất cụ thể là : Nguồn nguyên liệu phong phó : nước ta là nước nông nghiệp vùng nhiệt đới nên sản lượng hoa quả, các loại củ, bột, đường thuận lợi cho việc cung cấp nguyên liệu sản xuất bánh kẹo. Đảng và Nhà nước có chủ trương đường lối kinh tế đúng đắn, đẩy mạnh nội lực và hợp tác phát triển với các nước trong khu vực còng nh- trên thế giới. Nước ta đã chính thức nhập khối ASEAN là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế nói chung và ngành bánh kẹo nói riêng. Nhưng đó cũng là những thử thách lớn cho tất cả các doanh nghiệp Việt Nam. Dân số tăng nhanh theo số liệu của Tổng cục thống kê dự đoán : Đến 2005 dân số nước ta sẽ có khoảng 86 triệu người, mức sinh hoạt liphít chiếm 12%, Glucô chiếm 7% (theo số liệu của Bộ y tế). Nhu cầu bánh kẹo là rất cần thiết để bổ trợ cho phần ăn hàng ngày của người dân. Nh- vậy theo dự đoán bình quân tiêu thụ bánh kẹo là 3kg/ người đến 2003 nước ta có nhu cầu sản xuất khoảng 260.000 – 300.000 tấn/ năm. Dự đoán tổng doanh thu thị trường là 8.000 tỷ, tỷ lệ xuất khẩu là 10 – 20% qua đó chiến lược ngành bánh kẹo đến năm 2005 được đặt ra là : -Đảm bảo sản xuất và cung cấp đầy đủ số lượng, chủng loại chất lượng và giá cả phù hợp theo nhu cầu của người tiêu dùng, hạn chế tới mức tối đa 18 bánh nhập ngoại và tiến tới xuất khẩu sang thị trường Đông Âu và các nước trong khu vực. - Đổi mới công nghệ thiết bị, tiến tới cơ giới hoá tự động hoá khâu gói kẹo đóng gói sản phẩm, đồng bộ hoá các dây truyền sản xuất kẹo cứng, kẹo mềm, sôcôla, cao su, bánh bíscults…hoàn chỉnh các phương tiện vận chuyển (các hệ thống vận chuyển bằng băng truyền giữa các khâu sản xuất từ thành phẩm đến nhập kho). - Đảm bảo tự túc phần nguyên vật liệu đường Glucôza, cố gắng tự túc sản xuất sữa, dầu thực vật, tinh dầu để sản xuất bánh kẹo…không nhập khẩu bột mì, sử dụng bột mì được xay nghiền trong nước, tự tách sản xuất, In trong nước mật số phụ liệu chính như giấy, nhôm, giấy sáp, băng dán bao bì, nhãn tói hộp sắt… - Đa dạng hoá sản phẩm : sản xuất các sản phẩm bánh kẹo có đường, không đường, có chất béo hoặc không và các sản phẩm nâng cao thể lực. Số lượng bánh kẹo đến năm 2005 là đạt 300.000 tấn/ năm trong cả nước. Tổng số vốn đầu tư phát triển ngành bánh kẹo dự tính từ nay tới 2005 là 440 tỷ đồng Việt Nam (tương đương với gần 33.846.000 USD). 1.2. Phương hướng phát triển của ngành bánh kẹo Việt Nam trong những năm tới Tăng cường đầu tư trang thiết bị hiện đại nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm và mẫu mã của các sản phẩm truyền thống, sản xuất và hoàn thiện các sản phẩm mới có chất lượng cao, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường để liên tục cho ra những sản phẩm mới có chất lượng cao phù hợp với thị hiếu cũng như thu nhập của người tiêu dùng. Đa dạng hoá sản phẩm và bao bì đẹp để phục vụ được tất cả các đối tượng tiêu dùng với các mục đích sử dụng khác nhau. Nhiều doanh nghiệp đã chú ý đến việc sản xuất loại kẹo bánh Ýt béo, Ýt đường có vitamin các loại vi chất (sắt, cao su….) hay sản xuất các loại sản phẩm thay thế một phần thức ăn trong khẩu phần hàng ngày của người dân (các loại bánh mặn, bánh ngọt). 19 Nghiên cứu dùng nguyên liệu sản xuất tron nước thay thế hàng nhập ngoại nhằm làm giảm giá thành. - Ổn định và nâng cao hiệu quả kinh doanh tại thị trường cũ và mở rộng thị trường mới, nhất là thị trường Việt Nam và thị trường xuất khẩu. - Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ công nhân viên. - Hiện nay các doanh nghiệp đang thực hiện và duy trì tiêu chuẩn chất lượng xí nghiệp tiến tới đạt tiêu chuẩn chất lượng của ngành. Mục tiêu trong những năm tới chất lượng bánh kẹo của các doanh nghiệp phải đạt tiêu chuẩn quốc gia để có khả năng cạnh tranh giành thị trường với sản phẩm có chất lượng cao của các đối thủ nhập từ nước ngoài…Ngành sản xuất bánh kẹo dự tính phấn đấu những năm tiếp theo sẽ xây dựng thành công hệ thống chất lượng quốc tế tại các doanh nghiệp. Sản phẩm của ngành phải đảm bảo chất lượng cạnh tranh với sản phẩm ngoại nhập tăng nhanh khối lượng hàng hoá xuất khẩu sang các nước trong khu vực và thế giới. 2. Các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tăng khả năng cạnh tranh của ngành sản xuất bánh kẹo của nước ta hiện nay. 2.1. Đổi mới nhận thức về chất lượng và quản lý chất lượng từ đó áp dụng một hệ thống chất lượng phù hợp với ngành. Ngành sản xuất bánh kẹo mới chỉ đề cập đến chất lượng một cách đơn thuần là chất lượng các sản phẩm vật chất cụ thể như nguyên vật liệu hay sản phẩm cuối cùng, còn lại hoạt động mang tính chất hỗ trợ cho hoạt động sản xuất thì không được coi là có chất lượng. Nói đến chất lượng là người ta nghĩ ngay đến chất lượng sản phẩm cuối cùng mà không hiểu được chất lượng là chất lượng của cả quá trình từ thiết kế, sản xuất tiêu thụ và dịch vụ sau bán…Chất lượng ở đây như một mục tiêu được áp đặt từ trên xuống, từ ngoài vào bất kỳ công nhân phải thực hiện mà quyên rằng chất lượng được tạo dựng từ sự tự giác từ tinh thần trách nhiệm của mọi người tham gia vào quá trình. Do nhận thức chưa đầy đủ về chất lượng làm cho công tác quản trị chất lượng 20