Tô hoài nhận xét nam cao là người trí thức

Nam Cao là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của trào lưu hiện thực phê phán thời kỳ 1940-1945, là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945-1954.

Tô hoài nhận xét nam cao là người trí thức

Là người trí thức trung thực vô ngần[ Tô Hoài], Nam Cao thường day dứt, xấu hổ về những việc làm, những ý nghĩ mà ông nghĩ là tầm thường, hèn kém của mình, khao khát vươn tới tâm hồn trong sạch và ước mơ tới cảnh sống, những con người thật đẹp, mong được sống xứng đáng với danh hiệu  con người. Cuộc đấu tranh bản thân trung thực, âm thầm, quyết liệt trong suốt cuộc đời cầm bút đã được Nam Cao phản ảnh rất rõ trong những tác phẩm viết về người trí thức nghèo.

Nam Cao là người có tấm lòng nhân hậu và chan chứa yêu thương. Ông luôn có sự gắn bó sâu nặng ân tình với những con người nghèo khổ, bị áp bức, khinh miệt trong xã hội cũ. Theo quan niệm của Nam Cao không có tình thương…đồng loại thì không đáng gọi là người. Đó cũng là nguyên nhân đưa Nam Cao đến với nghệ thuật vị nhân sinh và tạo nên những tác phẩm thấm đượm tư tưởng nhân đạo sâu sắc.

Nam Cao luôn trăn trở suy tư về bản thân, cuộc sống, đồng loại đẻ từ những trải nghiệm mà khái quát lên những triết lí sâu xa, tâm huyết trong các hình tượng văn học.

Trong cả cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn  trăn trở về vấn đề sống và viết, ông là nhà văn có ý thức sâu sắc về quan điểm nghệ thuật của mình, những quan điểm góp phần hoàn thiện nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam nữa đầu thế kỷ XX.

Nam Cao phủ nhận văn chương lãng mạn và khẳng định văn chương hiện thực, nói cách khác, ông khẳng định khuynh hướng nghệ thuật vị nhân sinh. Nam Cao cho rằng: “Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than, người cầm bút không được chốn tránh sự thật, phải đứng trong lao khổ, mở hồn dón lấy tất cả những vang động của đời[ Giăng sáng-1942]

Nam Cao không tán thành loại sáng tác chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội, ông quan niệm tác phẩm có giá trị là tác phẩm không những phản ánh được chân thực hiện thực mà còn phải có giá trị nhân đạo sâu sắc, phải chứa đựng một cái gì vừa lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi, nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình, nó làm cho người gần người hơn [Đời thừa-1943]

Đánh giá cao văn chương, xem đó là một hình thái lao động cao quý, đầy trách nhiệm với xã hội nên Nam Cao cũng yêu cầu cao ở người cầm bút. Nam Cao cho rằng nhà văn cần phải lao động nghiêm túc, phải có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp. Ông coi sự cẩu thả trong nghề văn không chỉ là bất lương mà còn là đê tiện. Nam Cao cũng đặc biệt coi trọng sự tìm tòi, sáng tạo trong nghề văn: Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có [Đời thừa-1943]

Sau cách mạng thang Tám năm 1945, Nam Cao chủ chương sống đã rồi hãy viết, ông sẵn sàng hi sinh thứ nghệ thật cao siêu của mình để đặt lợi ích của dân tộc, của kháng chiến lên trên hết, onng cho rằng: “Góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một thứ nghệ thuật cao hơn [Ở rằng-1948] đó là nghệ thuật vì nhân dân, vì đất nước, vì con người. Trong các sáng tác của mình, Nam Cao thường hay đặt ra vấn ấn đề về đôi mắt, vấn đề về cách nhìn cuộc sống và con người. Nếu trước 1945, Nam Cao quan niệm nhà văn phải có đôi mắt của tình thương để nhìn rõ bản chất tốt đẹp của nhân dân lao động thì sau năm 1945, khi đã giác ngộ về vai trò cách mạng của quần chúng nhân dân, Nam Cao chi rằng phải nhìn người lao động bằng đôi mắt cảm phục để nhận ra vai trò, sức mạnh và khả năng cách mạng của họ.

Sáng tác của Nam Cao tập trung vào hai đề tài chính:

-ĐỀ tài người tri thức nghèo: Nam Cao phản ánh chân thực tấn bi kịch tinh thần của những người tri thức nghèo trong xã hội cũ qua đó đặt ra những vấn đề mang tính xã hội lớn lao. Đó là tấn bi kịch của những con người có ý thưc sau sắc về giá trị sự sống, về nhân phẩm, có hoài bão, có tâm huyết và tài năng, muốn  nâng cao giá trị cuộc sống của mình bằng một sự nghiệp tinh thần cao quý nhưng lại bị gánh nặng cơm áo và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho phải chết mòn, phải sống kiếp đời thừa. Những tác phẩm đó có giá trị phê phán sâu sắc với xã hội phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn, thể hiện sự tự đấu tranh của người trí thức nghèo trung thực khao khát vươn tới một lẽ sống lớn, một cuộc sống đẹp đẽ, có ích và có ý nghĩa, xứng đán với cuộc sống con người.

Tác phẩm: Đời thừa, Giăng sáng, Sống mòn…

Đề tài người nông dân: Viết về đề tài này, Nam Cao phản ánh chân thực bức tranh nông thôn Việt Nam nghèo đói, xác xơ trong chế độ thực dân nửa phong kiến. Ông thường chú ý tới những con người thấp cổ bé họng, những số phận bi thảm, những con người hiền lành nhẫn nhục, bị chà đạp tàn nhẫn. Nam Cao đặc biệt đi sâu vào tình cảnh và số phận những người nông dân bị đẩy vào con đường lưu manh hóa. Nam Cao một mặt lên án xã hội tàn bạo đã chà đạp và hủy diệt nhân hình, nhân tính của những người nông dân nghèo khổ, đồng thời cũng phát hiện, khẳng dịnh nhaanphaarm và bản chất lương thiện của họ. Nam Cao không chỉ phản ánh nỗi khổ cùng cực của người nông dân nghèo mà còn bênh vực quyền sống, thể hiện bản chất đẹp đẽ, cao quý trong tâm hồn họ.

Tác phẩm: Chí Phèo, Lão Hạc, Một bữa no…

Dù viết về đề tài nào, sáng tác của Nam Cao cũng chứa đựng một nội dung triết học sâu sắc, có khả năng khái quát những quy luật chung của đời sống như vật chất và ý thức; môi trường, hoàn cảnh và tính cách con người, Nam Cao luôn trăn trể về vấn đề nhân phẩm, về giá trị sự sống, về tình trạng chết mòn đời sống tinh thần, luôn đau đớn, phẫn uất trước tình trạng xã hội phi nhân đạo đầy đọa, làm nhục con người, đẩy con người tới sự tha hóa…

Nam Cao sớm đi theo cách mạng và là nhà văn có ý thức tự rèn luyện và cải tạo mình tỏng thực tế kháng chiến. Ông trở thành cây bút văn xuôi tiêu biểu của văn học thời kháng chiến chống Pháp, chuyện ngắn đôi mắt là một thành công xuất săc của văn xuôi thời kì này, trong đó, Nam Cao đã thể hiện tuyên ngôn nghệ thuật của những người trí thức đi theo cách mạng, kiên quyết từ bỏ cách nhìn cũ, lối sông cũ, trở thành những người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa.

Tác phẩm: Nhật ký ở rừng [1948], Đôi mắt[1948], Tập kí sự Chuyện biên giới [1950]

Nam Cao đặc biệt quan tâm đến đời sống con người, luôn đi sâu khám phá con người bên trong con người [Batkhtin], tìm hiểu thế giới nội tâm của con người. Nam Caon là nhà văn có biệt tài phân tích, diễn tả tâm lý nhân vật trong những trạng thái, những quá trình tâm lý phức tạp. Theo dòng tâm lí của nhân vật, mạch tự sự của tác phẩm Nam Cao thường đảo lộn trật tự thời gian, không gian, tạo nên kiểu kết cấu tâm lí vừa phóng túng, linh hoạt, vừa nhất quán, chặt chẽ. Cũng do am hiểu tâm lí nhân vật nên Nam Cao đã tạo được những đoạn đối thoại, đọc thoại nội tâm rất chân thật, sinh động.

Truyện của Nam Cao luôn co tính triết lí sâu sắc, những triết lí không khô khan mà xuất phát từ cuộc sống thực và từ tâm tư đầy đau đớn, dằn vặt của chính nhà văn. Do dó, tác phẩm của Nam Cao không chỉ phản ánh những nội dung xã hội mà còn thể hiện những thông điệp tư tưởng được nhà văn gửi gắm qua hình tượng nhân vật hoặc qua suy ngẫm, triết lí hà văn phát biểu ngay trong dòng trần thuật.

Nam Cao đặc biệt quan tâm đên đời sống thần của con người, luôn đi sâu khám phá con người bên trong con người. Nam Cao là nhà văn có biệt tài phân tích, diễn tả tâm lí của nhân vật, mạch tự sự của tác phẩm Nam Cao thường đảo lộn trật tự thời gian, không gian, tạo nên kiểu kết cấu tâm lí vừa phóng túng, linh hoạt, vừa nhất quán chặt chẽ. Cũng do am hiểu tâm lí nhân vật nên Nam Cao đã tạo được những đoạn đốii thoại, độc thoại nội tâm rất chân thật, sinh động.

Truyện của Nam Cao luôn có tính triết lí sâu sắc, những triết lí không khô khan mà xuất phát từ cuộc sống thực và từ tâm tư đầy đau đớn, dặt vặt của chính nhà văn. Do đó, tác phẩm của Nam Cao không chỉ phản ánh những nội dung xã hội mà còn phản ánh những thông điệp tư tưởng được nhà văn gửi gắm qua hình tượng nhân vật hoặc qua những suy ngẫm, triết lý nhà văn phát biểu ngay trong dòng trần thuật.

Nam Cao có những đóng góp lớn với sự phát triển phong phú của ngôn ngữ văn xuôi Việt Nam. Ngôn ngữ của Nam Cao sống động, uyển chuyển, gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân.

Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, cũng là một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Ông đã xây dựng những hình tượng nghệ thuật bất hủ, có những thành tựu suất xắc trong nghệ thuật miêu tả tâm lí, nghệ thuật kết cấu tác phẩm, trong ngôn ngữ, giọng điệu… Nam Cao đã có những đóng góp quan trọng vào việc hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trên quá trình hiện đại hóa ở nửa đầu thế kỉ XX.

VÀI NÉT VỀ TIỂU SỬ VÀ CON NGƯỜI

Nam Cao [1917 – 1951] tên khai sinh là Trần Hữu Trí, sinh trong một gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân [nay là xã Hoà Hậu, huyện Lí Nhân], tỉnh Hà Nam. Học hết bậc Thành chung, Nam Cao vào Sài Gòn kiếm sống và bắt đầu sáng tác. Sau hơn ba năm, vì ốm đau, ông phải trở về quê. Sau đó, ông dạy học ở một trường tư thục ở ngoại ô Hà Nội. Nhưng cuộc đời “giáo khổ trường tư” đó cũng không yên: quân Nhật vào Đông Dương, trường đóng cửa, ông phải sống chật vật, lay lắt bằng nghề viết văn và làm gia sư. Đầu năm 1943, ông tham gia nhóm Văn hoá cứu quốc ở Hà Nội. Bị địch khủng bố gắt gao, ông phải lánh về quê rồi tham gia khởi nghĩa [tháng 8 – 1945] ở phủ Lí Nhân. Năm 1946, với tư cách là phóng viên mặt trận, ông có mặt trong đoàn quân Nam tiến vào đến Nam Trung Bộ. Mùa thu năm 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác báo chí, tuyên truyền phục vụ kháng chiến; năm 1950, ông tham gia chiến dịch Biên giới. Tháng 11 – 1951, trên đường vào công tác ở vùng địch hậu Liên khu III, ông bị giặc Pháp phục kích và sát hại. Con người Nam Cao nhìn bề ngoài có vẻ lạnh lùng, vụng về, ít nói [ông tự giễu mình là có “cái mặt không chơi được”], nhưng đời sống nội tâm lại rất phong phú, luôn luôn sôi sục, có khi căng thẳng. Bình sinh, Nam Cao thường day dứt, hối hận, lấy làm xấu hổ về những việc làm, những ý nghĩ mà ông tự thấy là tầm thường của mình Người trí thức “trung thực vô ngần” [lời Tô Hoài] ấy luôn nghiêm khắc đấu tranh với chính mình để thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ nhen, khao khát vươn tới “tâm hồn trong sạch và mơ ước tới cảnh sống, những con người thật đẹp”. Giá trị to lớn của sáng tác Nam Cao, nhất là những tác phẩm viết về người trí thức nghèo, gắn liền với cuộc đấu tranh bản thân trung thực, âm thầm mà quyết liệt trong suốt cuộc đời cầm bút của ông.

Nam Cao là người có tấm lòng thật đôn hậu, chan chứa yêu thương. Ông gắn bó sâu nặng, giàu ân tình với quê hương và những người nghèo khổ bị áp bức, khinh miệt trong xã hội cũ. Ông quan niệm, không có tình thương đồng loại thì không đáng gọi là người [Đời thừa]. Đó chính là một trong những lí do dẫn Nam Cao đến với con đường nghệ thuật hiện thực “vị nhân sinh” và tạo nên những tác phẩm thấm đượm tư tưởng nhân đạo sâu sắc.

Cuộc đời lao động sáng tạo nghệ thuật vì lí tưởng nhân đạo và sự hi sinh anh dũng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc của Nam Cao mãi mãi là tấm gương cao đẹp của một nhà văn chân chính. Năm 1996, Nam Cao đã được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

SỰ NGHIỆP VĂN HỌC

1. Quan điểm nghệ thuật

Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề “sống và viết”, rất có ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình. Có thể nói, đến Nam Cao, chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1945 mới thực sự tự giác đầy đủ về những nguyên tắc sáng tác của nó.

Khi mới cầm bút, Nam Cao chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương thời. Nhưng ông đã dần nhận ra thứ văn chương đó rất xa lạ với đời sống lầm than của nhân dân lao động và ông đã đoạn tuyệt với nó để tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa. Trong Giăng sáng [1942], ông phê phán thứ văn chương thi vị hoá cuộc sống đen tối, bất công, coi đó là thứ “ánh trăng lừa dối”; đồng thời yêu cầu nghệ thuật phải gắn bó với đời sống, nhìn thẳng vào sự thật “tàn nhẫn”, phải nói lên nỗi khốn khổ, cùng quẫn của nhân dân, vì họ mà lên tiếng.


Trong truyện ngắn Đời thừa [1943], Nam Cao không tán thành loại sáng tác “chỉ tả được cái bề..ngoài của xã hội” và khẳng định: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn”. Như vậy, trong quan niệm của Nam Cao, tư tương nhân đạo là một yêu cầu tất yếu đối với “một tác phẩm hay”, “một tác phẩm thật giá trị”. Nam Cao ý thức sâu sắc và đòi hỏi rất cao sự tìm tòi sáng tạo trong nghề văn: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có” [Đời thừa]. Ông đòi hỏi nhà văn phải có lương tâm, có nhân cách xứng đáng với nghề nghiệp của mình và cho rằng sự cẩu thả trong văn chương chẳng những là bất lương” mà còn là “đê tiện”.

Sau Cách mạng, Nam Cao tích cực tham gia kháng chiến, sẵn sàng hi sinh thứ “nghệ thuật cao siêu của mình với ý nghĩ: lợi ích của dân tộc là trên hết. Tuy ấp ủ hoài bão sáng tác nhưng ông vẫn tận tuy trong mọi công tác phục vụ kháng chiến với quan niệm “sống đã rồi hãy viết”, “góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn” [Nhật kí ở rừng, 1948].

2. Các đề tài chính

Sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tập trung vào hai đề tài chính: người trí thức nghèo và người nông dân nghèo.

Ở đề tài người trí thức, đáng chú ý là các truyện ngắn Giăng sáng, Đời thừa, Những truyện không muốn viết, Mua nhà, Truyện tình, Quên điều độ, Cười, Nước mắt,... và tiểu thuyết Sống mòn. Trong những tác phẩm này, Nam Cao đã miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội cũ, những “giáo khổ trường tư”, những nhà văn nghèo, những viên chức nhỏ, qua đó, đặt ra những vấn đề có tầm triết luận sâu sắc, có ý nghĩa to lớn, vượt khỏi phạm vi của đề tài. Họ là những trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm, có hoài bão, có tâm huyết và tài năng, muốn xây dựng một sự nghiệp tinh thần cao quý, nhưng lại bị gánh nặng áo cơm và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho “chết mòn”, phải sống như “một kẻ vô ích, một người thừa”. Tập trung miêu tả và phân tích tình trạng “sống mòn” hay “chết mòn” cửa con người, Nam Cao đã phê phán sâu sắc xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời, thể hiện niềm khao khát một lẽ sống lớn, khao khát một cuộc sống sâu sắc, có ích và thực sự có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người.

Không chỉ thành công trong sáng tác viết về trí thức, Nam Cao còn là cây bút xuất sắc về đề tài người nông dân. ông để lại chừng hai chục truyện ngắn viết về cuộc sống tối tăm, số phận bi thảm của người nông dân; tiêu biểu là các tác phẩm: Chí Phèo, Lão Hạc, Dì Hảo, Lang Rận, Một bữa no, Một đám cưới, Mua danh, Điếu văn, Trẻ con không được ăn thịt chó, Tư cách mõ, Nửa đêm; trong đó, Chí Phèo xứng đáng là một kiệt tác. Viết về đề tài này, Nam Cao đã dựng lên một bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam nghèo đói, xơ xác trên con đường phá sản, bần cùng, hết sức thê thảm vào những năm 1940 – 1945. Ông thường chú ý tới những con người thấp cổ bé họng, những số phận bi thảm. Họ càng hiền lành, càng nhẫn nhục thì càng bị chà đạp tàn nhẫn, phũ phàng. Ông đặc biệt đi sâu vào tình cảnh và số phận những con người bị đày đoạ vào cảnh nghèo đói, cùng đường, bị hắt hụi, lăng nhục một cách tàn nhẫn, bất công [Chí Phèo, Một bữa no, Tư cách mõ, Lang Rận, Nửa đêm,...]. Viết về hiện tượng người nông dân bị đẩy vào tình trạng tha hoá, lưu manh hoá, Nam Cao đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đã huỷ hoại nhân tính của những con người bản chất vốn hiền lành. Nhà văn không hề bôi nhọ người nông dân mà trái lại, đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện và khẳng định nhân phẩm và bản chất lương thiện của họ, ngay cả khi họ bị xã hội vùi dập, cướp mất cả nhân hình, nhân tính.

Có thể nói, dù viết về người nông dân hay về người trí thức, vượt lên trên ý nghĩa cụ thể của đề tài, sáng tác của Nam Cao luôn chứa đựng một nội dung triết học sâu sắc, có khả năng khái quát những quy luật chung của đời sống như vật chất và ý thức, hoàn cảnh và con người, môi trường và tính cách,... Nam Cao luôn trăn trở về vấn đề nhân phẩm, về thái độ khinh trọng đối với con người, luôn day dứt tới mức đau đớn trước tình trạng xã hội vô nhân đạo đã đày đoạ con người trong sự nghèo đói, vùi dập những ước mơ, làm chết mòn đời sống tinh thần và lẽ sống cao đẹp của họ; đồng thời cũng đau đớn vô hạn trước tình trạng con người bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí bị huỷ hoại cả nhân tính.

Sau Cách mạng, Nam Cao là cây bút tiêu biểu của văn học giai đoạn kháng chiến chống Pháp [1945 – 1954]. Nhật kí ở rừng [1948], truyện ngắn Đôi mắt [1948], tập kí sự Chuyện biên giới [1950] là những tác phẩm có giá trị của văn xuôi thời kì đầu kháng chiến.

3. Phong cách nghệ thuật

Trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nam Cao là nhà văn có phong cách độc đáo. Nam Cao đặc biệt quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn có hứng thú khám phá “con người trong con người” dù viết về người nông dân hay người trí thức. Ông quan niệm: “Sống tức là cảm giác và tư tưởng. Sống cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ: có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động. Bản tính cốt yếu của sự sống chính là cảm giác và tư tưởng. Cảm giác càng mạnh, càng linh diệu, tư tưởng càng dồi dào càng sâu sắc thì sự sống càng cao” [Sống mòn]. Như vậy, Nam Cao luôn đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý tới hoạt động bên trong của con người, coi đó là nguyên nhân của những hành động bên ngoài.

Với một quan niệm về con người như thế, Nam Cao có khuynh hướng tìm vào nội tâm, đi sâu vào thế giới tinh thần của con người. Ông là nhà văn có biệt tài diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật. Tâm lí nhân vật trở thành trung tâm chú ý, là đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao. Ông tỏ ra đặc biệt sắc sảo trong việc phân tích và diễn tả những trạng thái, những quá trình tâm lí phức tạp, những hiện tượng lưỡng tính dở say dở tỉnh, dở khóc dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện với ác, giữa hiền với dữ, giữa con người với con vật,... Do am hiểu tâm lí nhân vật nên Nam Cao đã tạo được những đoạn đối thoại, độc thoại nội tâm rất chân thật, sinh động. Mặt khác, cũng do yêu cầu miêu tả tâm lí mạch tự sự trong tác phẩm của ông thường đảo lộn thời gian và không gian, tạo nên kiểu kết cấu tâm lí vừa phóng túng, linh hoạt vừa nhất quán, chặt chẽ. Ngòi bút Nam Cao cũng thường viết về cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh mà nhà văn gọi là khung truyện không muốn viết’? Từ những sự việc quen thuộc, thậm chí tầm thường trong đời sống hằng ngày, tác phẩm của Nam Cao đã đặt ra những vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn, thể hiện triết lí sâu sắc về con người, về cuộc sống và nghệ thuật. Nam Cao là nhà văn có giọng điệu riêng: buồn thương chua chát; dưng dưng lạnh lùng mà đầy thương cảm, đằm thắm yêu thương,...

Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Sáng tác của ông đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Thời gian càng lùi xa, tác phẩm của Nam Cao càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trên quá trình hiện đại hoá ở nửa đầu thế kỉ XX.

Chủ Đề