Top 100 mức độ ô nhiễm môi trường trên thế giới năm 2023

Đại dương đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi sự can thiệp của con người, ước tính trọng lượng rác thải nhựa sẽ vượt cá ở đại dương vào năm 2050.

Sinh vật biển đang phải chịu những thiệt hại không thể bù đắp được do ô nhiễm đại dương. Hàng triệu tấn chất thải không được quản lý tốt đổ ra đại dương mỗi năm. Kết quả là một cuộc khủng hoảng hành tinh với hơn 100 triệu sinh vật biển bị mất đi mỗi năm và hệ sinh thái đại dương bị phân hủy.

Dưới đây là những thống kê gây sốc về ô nhiễm môi trường biển.

Gần 1.000 loài động vật biển bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm đại dương và hiện chúng ta có hơn 500 địa điểm được ghi nhận là vùng chết, nơi sinh vật biển không thể tồn tại.

100 triệu động vật biển chết mỗi năm chỉ vì rác thải nhựa.

100.000 động vật biển chết vì vướng vào nhựa hàng năm [đây chỉ là thống kê với các sinh vật mà các nhà khoa học tìm thấy].

Rác thải nhựa ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống sinh vật biển. [Ảnh: iStock]

Hơn 270 loài được ghi nhận có thể đã bị tổn thương bởi các ngư cụ bị vứt bỏ và các loại nhựa thải bỏ gây ra.

Cứ 3 loài động vật biển có vú thì có 1 loài bị vướng vào rác, cá voi trơn Bắc Thái Bình Dương ăn 12-14.000 tấn nhựa mỗi năm.

Trong 10 năm qua, chúng ta sản xuất nhiều nhựa hơn thế kỷ trước. Từ nay tới năm 2025, lượng rác nhựa thải vào đại dương có thể lên tới 155 triệu tấn. Đến năm 2050, trọng lượng rác thải nhựa sẽ vượt cá ở đại dương vào năm 2050.

Địa điểm chứa rác lớn nhất hành tinh là “Bãi rác Khổng lồ của Thái Bình Dương”, có diện tích gấp đôi diện tích bề mặt của Texas.

300 triệu tấn nhựa được tạo ra hàng năm và khối lượng này tương đương với toàn bộ dân số loài người và 50% là nhựa sử dụng một lần.

Ước tính có 5.250 tỷ mảnh rác thải nhựa nằm trong các đại dương của chúng ta. 269.000 tấn trôi nổi, 4 tỷ sợi nhỏ trên mỗi km² nằm dưới bề mặt. Điều này tương tự đổ một xe rác toàn nhựa vào đại dương trong 1 phút.

Cứ sau nửa giây lại có nhiều loại nhựa bị vứt xuống biển.

60-90% rác thải trên biển là nhựa.

8,3 triệu tấn nhựa được thải ra biển hàng năm. Trong đó, 236.000 là vi nhựa mà các sinh vật biển nhầm với thức ăn.

Nhựa mất 500-1000 năm để phân hủy. Hiện tại 79% được chuyển đến các bãi chôn lấp hoặc đại dương, trong khi chỉ 9% được tái chế và 12% được đốt.

80% ô nhiễm môi trường biển toàn cầu đến từ phần nước mưa chảy qua đất canh tác nông nghiệp và chảy ra biển, nước thải không được xử lý và thuốc trừ sâu.

90% các mảnh vỡ đại dương trên toàn thế giới chỉ đến từ 10 con sông.

Một trong những nguồn lớn nhất gây ô nhiễm rác thải nhựa là những chai nhựa uống nước. Theo thống kê, khoảng 480 tỷ chai nhựa được bán trên toàn cầu năm 2016, tương đương với 1 triệu chai mỗi phút.

Mỗi năm có khoảng 5.000 tỷ túi ni lông được tiêu thụ trên toàn cầu.

Lượng rác thải nhựa do con người xả thải ra mỗi năm đủ để phủ kín 4 lần diện tích bề mặt Trái Đất, trong đó có khoảng 13 triệu tấn rác thải nhựa trôi nổi trên các đại dương.

Đến năm 2030 sẽ có thêm hơn 100 triệu tấn rác thải nhựa có khả năng gây ô nhiễm các hệ sinh thái toàn cầu.

Số lượng mảnh nhựa nhỏ tồn tại trong đại dương còn nhiều hơn cả số sao trong Dải Ngân hà.

Hơn 50% rùa biển đã nuốt nhựa vào bụng.

Một công dân Mỹ tiêu thụ trung bình 169 chai nhựa mỗi năm.

Tháng 6/2021, hãng đóng gói bao bì RAJA công bố nghiên cứu về những nước xả nhiều rác thải nhựa nhất ra biển trong năm 2020. Theo đó, Ấn Độ là nước đứng đầu bảng, xả ra 126.500 tấn rác thải nhựa. Lượng rác này tương đương với trọng lượng của 250.000 con cá heo mũi chai. Kế đến là Trung Quốc [70.700 tấn], Indonesia [56.300 tấn], Brazil [38.000 tấn].

Các đại diện khác của châu Á nằm trong danh sách Top 10 còn có Thái Lan [thứ 5, 22.800 tấn], Nhật Bản [thứ 9, 1.800 tấn]. Mỹ đứng thứ 10 với 703 tấn, bất chấp việc nước này hàng năm xả ra lượng rác thải nhựa nhiều gấp đôi Ấn Độ.

Ô nhiễm môi trường là vấn đề được toàn thế giới quan tâm vì tình trạng này không chỉ xảy ra ở một khu vực mà có mặt tại nhiều nước khác nhau, đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống của toàn nhân loại. Mặc dù vậy, trong số rất nhiều các cuộc gia bị ô nhiễm nặng nề lại có những nơi mà môi trường rất trong sạch, đời sống của người dân được đảm bảo mà tình trạng ô nhiễm không thể xâm lấn. Để đánh giá tình trạng môi trường [bao gồm ngư trường, khí thải carbon, rừng, chất lượng nước, cây cối, động vật, …] người ta sử dụng chỉ số EPI để đánh giá. EPI có tên đầy đủ là Environmental Performance Index. Các chỉ số EPI bắt đầu từ 0 đến 100 tương ứng với mức độ bảo vệ môi trường từ thấp nhất đến cao nhất. 

Dựa vào chỉ số này, người ta chọn ra được 10 quốc gia trên thế giới bảo vệ môi trường tốt nhất. Cụ thể như sau :

1. Iceland

Iceland là quốc gia đứng đầu trong top 10 quốc gia có môi trường sạch nhất trên thế giới với chỉ số EPI đạt 93.5. Với chỉ số này, khi đến đất nước này, người ta cảm nhận được nguồn khồn khí trong lành, nguồn nước trong sạch, không mùi, không chất độc hại, bởi vậy mà trẻ em, động vật có thể bơi lội thoải mái ở gần khu vực nhà máy sản xuất.
 

2. Thụy Sĩ

Thụy Sĩ là một quốc gia có nền công nghiệp tương đối phát triển. Chính vì vậy, chỉ số ô nhiễm không khí của nước này không được xếp ở thứ hạng đầu, tuy nhiên, các chỉ số về lâm nghiệp, nguồn nước, đa dạng sinh học, … lại đạt ở top đầu. Theo đánh giá chung, chỉ số EPI của Thủy Sĩ đạt 89,1. Đây là con số mà nhiều quốc gia khác cần phấn đấu rất nhiều để có thể đạt được
 

Thụy Sĩ là quốc gia có đa dạng sinh học và chỉ số lâm nghiệp cao

3. Costa Rica

Đây là quốc gia đứng thứ 3 trên thế giới về chỉ số EPI cao nhất [86.4]. Với chỉ số này, khi đến đất nước Costa Rica, du khách có thể cảm nhận được môi trường trong lành, nguồn tài nguyên phong phú, dồi dào mà không bị sự phát triển của nền kinh tế tác động quá nhiều.
 

Môi trường trong lành của Costa Rica không bị ảnh hưởng bởi sự phát triển kinh tế

4. Thụy Điển

Chỉ số EPI của Thụy Điển đạt mức 86. Đây không phải là một con số nhỏ. Mặc dù ở đất nước này, khí hậu lạnh giá, băng tuyết phủ nhiều tháng trong năm nhưng với sự kiểm soát tốt từ nhà nước cùng ý thức tự giác của người dân, chỉ số bảo vệ môi trường vẫn ở mức đáng ngưỡng mộ.
 

Chỉ số bảo vệ môi trường tai Thủy Điển là con số mà nhiều quốc gia ao ước

5. Na uy

Na uy không chỉ có bầu không khí tuyệt vời, quanh cảnh xinh đẹp mà chỉ số bảo vệ môi trường cũng không hề nhỏ. Khi con số này đạt ở mức 81.1, đây thực sự là một đất nước đáng để du khách ở nhiều quốc gia đến thăm quan và tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên.
 

Sự trong lành và vẻ đẹp thiên nhiên của Na Uy

6. Maurice

Maurice là một quốc gia nằm trên một hòn đảo ở phía đông Madagascar trên Ấn Độ dương. Đây là quốc gia đứng đầu châu Âu về chỉ số EPI [80.6]. So với các nước trên thế giới, con số này không nổi bật hẳn nhưng với các nước trong khu vực thì đây lại là một thành tích đáng nể.

7. Pháp

Không chỉ là một quốc gia có nền kinh tế phát triển, quang cảnh đẹp mà Pháp còn có chỉ số bảo vệ môi trường đạt mức 78.2. Để có thể đạt được điều đó, quốc gia này chủ yếu phát triển lĩnh vực nhà máy điện hạt nhân, loại bỏ tối đa các vấn đề dẫn đến ô nhiễm môi trường.
 

Bên cạnh phát triển kinh tế, nước Pháp còn đề cao việc bảo vệ môi trường

8. Autralia

Xếp vị trí thứ 8 trong bảng xếp hạng những quốc gia sạch nhất trên thế giới đó là Autralia. Chỉ số EPI của quốc gia này đạt mức 78.1. Để có thể đạt được con số này, Autralia đã đưa ra những tiêu chí cụ thể về việc bảo vệ quần thể sinh vật và yêu cầu người dân phải thực hiện nghiên ngặt các tiêu chí này.
 

Đưa ra các chỉ tiêu bảo vệ quần thể sinh vật là một trong những chính sách của nước Úc để bảo vệ môi trường

9. Cuba

Không phải là một quốc gia rộng lớn, thu nhập GDP của người dân cũng không hề cao [8500 USD] nhưng Cuba lại có chỉ số EPI đạt mức 78.1. Rõ ràng, quốc gia này đã rất cố gắng trong việc bảo vệ môi trường, ngăn ngừa, giảm thiểu các vấn đề có thể xảy ra với không khí, nguồn nước, hệ sinh thái, … để mang đến một cuộc sống an toàn cho người dân của họ.
 

Cuộc sống an toàn và một cộng đồng luôn cố gắng bảo vệ môi trường tại Cuba

10. Columbia

Quốc gia cuối cùng trong danh sách 10 nước có chỉ số EPI cao nhất trên thế giới đó chính là Columbia. Chỉ số bảo vệ môi trường của nước này đạt 76.8. Nguyên nhân dẫn khiến Columbia có được con số đó là nhờ điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên phong phú. Bên cạnh đó, nguồn điện mà đất nước này sử dụng chủ yếu là từ nhà máy thủy điện, do đó lượng khí thải carbon ra môi trường được giảm thiểu đáng kể.

Sử dụng hầu hết là năng lượng điện từ thủy điện khiến lượng khí thải nhà kính tại Columbia giảm đáng kể

Trên đây là 10 quốc gia có chỉ số EPI cao nhất trên thế giới. Tại Việt Nam, chỉ số này chỉ đạt mức 58.5/100. Rõ ràng, chúng ta cần phải nâng cao hơn nữa ý thức tự giác của người dân cũng như việc đưa ra các quy định nghiêm ngặt để bảo vệ môi trường tốt hơn, chung tay vì một ngày mai tươi đẹp hơn!

>> Đọc thêm >> 5 công thức ăn kiêng giảm cân tuyệt vời từ rau quả

 
  • Dân số thế giới dự kiến sẽ tăng từ 7 tỷ ngày nay lên hơn 9 tỷ vào năm 2050. Dân số ngày càng tăng có khả năng làm tăng áp lực đối với tài nguyên thiên nhiên cung cấp năng lượng và thực phẩm.
  • GDP thế giới được dự kiến sẽ tăng gần gấp bốn lần vào năm 2050, mặc dù suy thoái gần đây.
  • Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình được dự đoán sẽ chậm dần trong những thập kỷ tới ở Trung Quốc và Ấn Độ.Mặc dù Châu Phi sẽ vẫn là lục địa nghèo nhất, nhưng dự kiến sẽ thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới từ năm 2030 đến 2050.
  • Hơn một phần tư dân số ở các nước OECD dự kiến sẽ trên 65 tuổi vào năm 2050 so với khoảng 15% hiện nay.Trung Quốc và Ấn Độ cũng có khả năng thấy sự lão hóa dân số đáng kể, với lực lượng lao động của Trung Quốc thực sự bị thu hẹp vào năm 2050.
  • Các thành phố có khả năng hấp thụ tổng tăng dân số thế giới từ năm 2010 đến 2050. Vào năm 2050, gần 70% dân số thế giới được dự đoán sẽ sống ở khu vực thành thị.

Đến năm 2050, không có chính sách mới ...

  • Một nền kinh tế thế giới lớn hơn gấp bốn lần so với ngày nay được dự đoán sẽ cần thêm 80% năng lượng trong năm 2050 mà không có hành động chính sách mới.
  • Hỗn hợp năng lượng toàn cầu vào năm 2050 sẽ không khác biệt đáng kể so với ngày nay, với tỷ lệ năng lượng hóa thạch ở mức khoảng 85%, năng lượng tái tạo bao gồm nhiên liệu sinh học chỉ hơn 10%và hạt nhân cân bằng.BRIIC được dự kiến trở thành người sử dụng năng lượng lớn, tăng sự phụ thuộc của họ vào nhiên liệu hóa thạch.
  • Để nuôi sống dân số ngày càng tăng với sự thay đổi sở thích chế độ ăn uống, đất nông nghiệp dự kiến sẽ mở rộng toàn cầu trong thập kỷ tới để phù hợp với sự gia tăng nhu cầu thực phẩm, nhưng với tỷ lệ giảm dần. & NBSP;Một sự gia tăng đáng kể trong cạnh tranh đối với vùng đất khan hiếm được dự kiến trong những thập kỷ tới.
 

Đến năm 2050, không có chính sách mới ...

  • Một nền kinh tế thế giới lớn hơn gấp bốn lần so với ngày nay được dự đoán sẽ cần thêm 80% năng lượng trong năm 2050 mà không có hành động chính sách mới.
  • Hỗn hợp năng lượng toàn cầu vào năm 2050 sẽ không khác biệt đáng kể so với ngày nay, với tỷ lệ năng lượng hóa thạch ở mức khoảng 85%, năng lượng tái tạo bao gồm nhiên liệu sinh học chỉ hơn 10%và hạt nhân cân bằng.BRIIC được dự kiến trở thành người sử dụng năng lượng lớn, tăng sự phụ thuộc của họ vào nhiên liệu hóa thạch.
  • Để nuôi sống dân số ngày càng tăng với sự thay đổi sở thích chế độ ăn uống, đất nông nghiệp dự kiến sẽ mở rộng toàn cầu trong thập kỷ tới để phù hợp với sự gia tăng nhu cầu thực phẩm, nhưng với tỷ lệ giảm dần. & NBSP;Một sự gia tăng đáng kể trong cạnh tranh đối với vùng đất khan hiếm được dự kiến trong những thập kỷ tới.


Khí thải nhà kính toàn cầu [GHG] dự kiến tăng 50%, chủ yếu là do sự tăng trưởng 70% trong khí thải CO2 liên quan đến năng lượng.

  • Nồng độ GHG trong khí quyển có thể đạt 685 phần triệu [ppm] tương đương CO2 vào năm 2050. Do đó, nhiệt độ trung bình toàn cầu được dự kiến là 3 độ Celsius đến 6 độ so với mức trước công nghiệp vào cuối thế kỷ,vượt quá mục tiêu đồng ý quốc tế là giới hạn nó ở mức 2 độ C.
  • Các hành động giảm thiểu GHG được các quốc gia cam kết trong Hội nghị biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc sẽ không đủ để ngăn chặn nhiệt độ trung bình toàn cầu từ & NBSP; vượt quá ngưỡng 2 độ Celsius, trừ khi giảm phát thải rất nhanh và tốn kém sau năm 2020.là phù hợp hơn với mức tăng 3 độ C,.
  • Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta hành động ...
  • Nó làm cho ý nghĩa môi trường và kinh tế.Triển vọng cho thấy rằng giá carbon toàn cầu đủ để giảm lượng khí thải GHG gần 70% vào năm 2050 so với kịch bản cơ bản và giới hạn nồng độ GHG ở mức 450 ppm sẽ làm chậm mức tăng trưởng kinh tế chỉ trung bình 0,2 điểm mỗi năm.Điều này sẽ có giá khoảng 5,5% GDP toàn cầu vào năm 2050. Điều này bên cạnh chi phí tiềm năng không hành động đối với biến đổi khí hậu, mà một số ước tính có thể lên tới 14% mức tiêu thụ trung bình trên đầu người.

Giá carbon có thể tăng doanh thu.Nếu các cam kết giảm phát thải mà các nước công nghiệp hóa chỉ ra trong các thỏa thuận Cancún sẽ được thực hiện thông qua thuế carbon hoặc các chương trình cap-andtrade với giấy phép bán đấu giá đầy đủ, doanh thu tài chính có thể lên tới 0,6% GDP của họ vào năm 2020, tức là hơn 250 USD 250 USDtỷ.

Hành động trì hoãn là tốn kém.Hành động bị trì hoãn hoặc chỉ có hành động vừa phải đến năm 2020 [chẳng hạn như thực hiện các cam kết Copenhagen/Cancún, hoặc chờ đợi các công nghệ tốt hơn để phát triển] sẽ tăng tốc độ và quy mô của những nỗ lực cần thiết sau năm 2020. Nó sẽ dẫn đến chi phí cao hơn 50% trong2050 so với hành động kịp thời và có khả năng gây ra rủi ro môi trường cao hơn.

  • Cải cách trợ cấp nhiên liệu hóa thạch.Hỗ trợ để sản xuất nhiên liệu hóa thạch và sử dụng lên tới từ 45-75 tỷ USD mỗi năm trong những năm gần đây ở các nước OECD.Các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi đã cung cấp hơn 400 tỷ USD trong các khoản trợ cấp tiêu dùng nhiên liệu hóa thạch trong năm 2010 theo ước tính IEA [IEA].
  • Trên toàn cầu, các khu vực rừng trưởng thành được dự đoán sẽ giảm 13%.
  • Áp lực chính thúc đẩy mất đa dạng sinh học bao gồm thay đổi sử dụng đất [ví dụ: nông nghiệp], mở rộng lâm nghiệp thương mại, phát triển cơ sở hạ tầng, xâm lấn của con người và phân mảnh môi trường sống tự nhiên, cũng như ô nhiễm và biến đổi khí hậu.
  • Nông nghiệp là nguyên nhân chính gây mất đa dạng sinh học, nhưng biến đổi khí hậu là trở thành động lực phát triển nhanh nhất của mất đa dạng sinh học đến năm 2050. Tiếp theo là lâm nghiệp thương mại và, ở mức độ thấp hơn, các vùng đất cung cấp năng lượng sinh học.
  • Khoảng một phần ba đa dạng sinh học nước ngọt toàn cầu đã bị mất, và tổn thất hơn nữa được dự kiến đến năm 2050.

Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta hành động? Trên toàn cầu, số lượng và quy mô của các khu vực được bảo vệ đã tăng lên và hiện chiếm gần 13% khu vực mặt đất toàn cầu.Tuy nhiên, đồng cỏ ôn đới, savannas, cây bụi và hệ sinh thái biển được thể hiện kém và chỉ có 7,2% biển lãnh thổ được chỉ định là khu vực được bảo vệ biển.
  • Globally, the number and size of protected areas have increased and now account for nearly 13% of the global terrestrial area. However, temperate grasslands, savannas, shrublands and marine ecosystems are poorly represented and only 7.2% of territorial seas are designated as Marine Protected Areas.
  • Áp dụng các biện pháp chính sách đầy tham vọng hơn để đạt được các kế hoạch, mục tiêu và chiến lược được quốc tế đồng ý, chẳng hạn như các mục tiêu khu vực được bảo vệ của AICHI là 17% khu vực nước trên mặt đất và nội địa của thế giới và 10% khu vực ven biển và biển vào năm 2020, đã đồng ý theo Công ước về sinh họcĐa dạng.Mô phỏng Outlook cho thấy rằng để đạt được mục tiêu trên mặt đất 17% theo cách cũng là đại diện về mặt sinh thái, thêm 9,8 triệu km2 đất sẽ cần được bảo vệ.
  • Tối đa hóa các hiệp lực chính sách và đồng lợi ích.Có một số lựa chọn giảm thiểu biến đổi khí hậu có thể được áp dụng để hướng tới mục tiêu được quốc tế đồng ý để hạn chế nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng lên 2 độ C.Một số người thân thiện với đa dạng sinh học hơn những người khác, và có thể liên quan đến sự đánh đổi quan trọng giữa chính sách khí hậu, sử dụng năng lượng sinh học và sử dụng đất và chính sách đa dạng sinh học.
    between climate policy, the use of bioenergy, and land use and biodiversity policies.
If climate mitigation options do not rely on expanding land use for biofuels, this would cut cumulative deforestation emissions by 12.7 GtC and contribute to 7% of the required emission reduction to 2050. At the same time, biodiversity would be protected through a reduction in the extent of cropland by some 1.2 million km2, and 1 million km2 less land for animal grazing by 2050 relative to the Baseline.
Đến năm 2050, nếu không có chính sách mới, nguồn nước ngọt sẽ bị căng thẳng hơn nữa, với 2,3 tỷ người hơn so với hiện nay [tổng cộng hơn 40% dân số toàn cầu] dự kiến sẽ sống trong các lưu vực sông bị căng thẳng nghiêm trọng, đặc biệt là ở Bắc và Nam Phi, và Nam và Trung Á.
  • Freshwater availability will be further strained, with 2.3 billion more people than today [in total over 40% of the global population] projected to be living in river basins under severe water stress, especially in North and South Africa, and South and Central Asia.
  • Nhu cầu nước toàn cầu được dự đoán sẽ tăng khoảng 55%, do nhu cầu ngày càng tăng từ sản xuất [+400%], sản xuất điện nhiệt [+140%] và sử dụng trong nước [+130%].Trước những nhu cầu cạnh tranh này, sẽ có rất ít phạm vi để mở rộng sử dụng nước tưới theo kịch bản này.Sự gia tăng chính của nhu cầu nước sẽ là ở các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển.
  • Số người có quyền truy cập vào nguồn nước được cải thiện [mặc dù không nhất thiết phải là nước an toàn cho tiêu dùng của con người] dự kiến sẽ tăng lên, chủ yếu trong Briics.Tuy nhiên, trên toàn cầu, hơn 240 triệu người dự kiến sẽ không có quyền truy cập như vậy vào năm 2050. Nhìn chung, mục tiêu phát triển thiên niên kỷ [MDG] của năm 2015, mức độ dân số năm 1990 mà không cần tiếp cận với nguồn nước được cải thiện dự kiến sẽ được đáp ứng, nhưngkhông phải ở một số khu vực chính [như châu Phi cận Sahara].
  • MDG cho vệ sinh sẽ không được đáp ứng vào năm 2015;Đến năm 2050, 1,4 tỷ người được dự đoán vẫn không được tiếp cận với vệ sinh cơ bản.
& nbsp;

Đến năm 2050, không có chính sách mới

  • Ô nhiễm không khí được thiết lập để trở thành nguyên nhân môi trường hàng đầu thế giới của tỷ lệ tử vong sớm, vượt qua nước bẩn và thiếu vệ sinh.Nồng độ ô nhiễm không khí ở một số thành phố, đặc biệt là ở châu Á, đã vượt xa các mức an toàn của Tổ chức Y tế Thế giới và chúng được dự kiến sẽ xấu đi đến năm 2050.
  • Số lượng tử vong sớm do tiếp xúc với vật chất hạt [PM] [dẫn đến suy hô hấp] được dự kiến sẽ tăng gấp đôi trên toàn thế giới, chỉ từ hơn 1 triệu ngày nay đến gần 3,6 triệu mỗi năm vào năm 2050, với hầu hết các trường hợp tử vong xảy ra ở Trung Quốc vàẤn Độ.
  • Số lượng tử vong sớm tuyệt đối từ việc tiếp xúc với ozone trên mặt đất là nhiều hơn gấp đôi trên toàn thế giới [từ 385 000 đến gần 800 000] trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến 2050.Nồng độ cũng như quy mô của dân số tiếp xúc có khả năng cao nhất.Hơn 40% số ca tử vong sớm liên kết với ozone thế giới vào năm 2050 dự kiến sẽ xảy ra ở Trung Quốc và Ấn Độ.Tuy nhiên, một khi được điều chỉnh theo quy mô dân số, các quốc gia OECD-với các dân số lão hóa và đô thị hóa-có khả năng có một trong những tỷ lệ tử vong sớm cao nhất từ ozone ở cấp độ đất, chỉ đứng sau Ấn Độ.
  • Sự gia tăng đáng kể lượng khí thải sulfur dioxide [SO2] và oxit nitơ [NOX] có khả năng xảy ra ở các nền kinh tế mới nổi quan trọng trong những thập kỷ tới.So với năm 2000, mức phát thải của SO2 được dự đoán là cao hơn 90% và NOx 50% cao hơn vào năm 2050.
  • Ngày nay, chỉ có 2% toàn cầu & NBSP;Dân số đô thị & NBSP;đang sống với nồng độ PM10 có thể chấp nhận được [tức là dưới hướng dẫn chất lượng không khí của WHO là 20 g/m3].Khoảng 70% dân số đô thị ở các quốc gia Briics và hàng & NBSP;được tiếp xúc với nồng độ trên tiêu chuẩn tạm thời cao nhất [trên 70 μg/m3].Vào năm 2050, & nbsp;Các dự án kịch bản cơ bản rằng tỷ lệ phần trăm người sống ở các thành phố có nồng độ trên mức cao nhất là mục tiêu 70μg/m3 sẽ còn cao hơn ở tất cả các khu vực.Điều này bất chấp sự cải thiện chất lượng không khí dự kiến đến năm 2050 ở các nước OECD và BRIIC, vì những cải tiến này dự kiến sẽ bị lu mờ bởi sự gia tăng dân số ở khu vực đô thị.
  • Gánh nặng của bệnh liên quan đến việc tiếp xúc với các hóa chất nguy hiểm là đáng kể trên toàn thế giới, nhưng nghiêm trọng hơn ở các quốc gia không thuộc OECD nơi các biện pháp an toàn hóa học vẫn không đủ.Tuy nhiên, các quốc gia không thuộc OECD được dự kiến sẽ làm tăng đáng kể việc sản xuất hóa chất, với các BRIIC đã vượt qua OECD trong doanh số toàn cầu vào năm 2050 dưới đường cơ sở.Trong khi các chính phủ OECD đang đạt được tiến bộ trong việc đánh giá sự tiếp xúc của con người với hóa chất, kiến thức về các tác động sức khỏe vẫn còn hạn chế.

_____________________________________

Liên hệ: & nbsp;  

Triển vọng môi trường OECD đến năm 2050 [OECD, 2012] đã được chuẩn bị bởi một nhóm chung từ OECD & NBSP;và Cơ quan Đánh giá Môi trường PBL Hà Lan. & NBSP;& Nbsp;Outlook bao gồm các chương về: phát triển kinh tế xã hội, biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học, nước, và sức khỏe và môi trường.

www.oecd.org/environment/outlookto2050

Quốc gia nào có ô nhiễm môi trường cao nhất?

Danh sách mười quốc gia ô nhiễm nhất thế giới vào năm 2021 là:..
Bangladesh - 76,9 Pha/m³.
Chad - 75,9 Pha/m³.
Pakistan - 66,8 Phag/m³.
Tajikistan - 59,4 Phag/m³.
Ấn Độ - 58.1 Phag/m³.
Ô -man - 53,9 Pha/m³.
Kyrgyzstan - 50,8 Phag/m³.
Bahrain - 49,8 Phag/m³.

Chất ô nhiễm số 1 trên thế giới là gì?

Phương pháp có năm loại ô nhiễm chính gây rắc rối cho hành tinh của chúng ta: không khí, nước, đất, ánh sáng và tiếng ồn.Trong số này, ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước và ô nhiễm đất gây ra mối đe dọa lớn nhất.Năm 2021, ô nhiễm không khí đã đóng góp tới 8,7 triệu ca tử vong trên toàn cầu.air pollution, water pollution, and soil pollution pose the biggest threat. In 2021, air pollution contributed to 8.7 million deaths globally.

Có nơi nào trên thế giới không có ô nhiễm không?

Trong những dịp, Edwards, ô nhiễm phát ra từ một khu vực nguồn có thể tìm đường trên toàn cầu hơn một lần.Vì vậy, dựa trên những gì chúng ta biết về dòng khí quyển và phân phối ô nhiễm, thật an toàn khi nói rằng không có nơi nào trên hành tinh được đảm bảo là không có ô nhiễm không khí.there are no places on the planet guaranteed to be fully free from air pollution.

10 quốc gia gây ô nhiễm nhất là gì?

10 người gây ô nhiễm hàng đầu..
Ấn Độ, với 2.654 triệu tấn CO2 ..
Nga, với 1.711 triệu tấn CO2 ..
Nhật Bản, 1.162 triệu tấn CO2 ..
Đức, 759 triệu tấn CO2 ..
Iran, 720 triệu tấn CO2 ..
Hàn Quốc, 659 triệu tấn CO2 ..
Ả Rập Saudi, 621 triệu tấn CO2 ..
Indonesia, 615 triệu tấn CO2 ..

Chủ Đề