Trị mụn cóc bằng laser bao nhiêu tiền new south wales, úc
Mụn cóc là bệnh phổ biến, lành tính, tổn thương thượng bì do nhiễm papillomavirus ở người. Chúng có thể xuất hiện bất cứ nơi nào trên cơ thể với nhiều hình thái khác nhau. Chẩn đoán bằng khám lâm sàng. Mụn cóc thường tự giới hạn nhưng có thể được điều trị bằng các phương pháp phá huỷ (ví dụ, cắt bỏ, đốt laser, phẫu thuật lạnh, ni tơ lỏng) và các thuốc bôi hoặc tiêm. Show
Mụn cóc khá phổ biến trong dân số; chúng ảnh hưởng đến bệnh nhân ở mọi lứa tuổi nhưng phổ biến nhất ở trẻ em và ít gặp ở người cao tuổi. Căn nguyên của mụn cócMụn cóc gây ra bởi nhiễm virút papillomavirus ở người (HPV) Nhiễm vi rút gây u nhú ở người Vi rút u nhú ở người (HPV) gây ra mụn cóc. Một số loại gây ra mụn cóc da, và các loại khác gây ra mụn cóc sinh dục tăng hoặc phẳng (tổn thương da hoặc niêm mạc của bộ phận sinh dục). Nhiễm một... đọc thêm ; có hơn 100 loại HPV ( ). Chấn thương và da bị ẩm nhiều tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập qua da. Sự lây lan sau đó có thể xảy ra do tự nhiễm. Các yếu tố miễn dịch tại chỗ và toàn thân ảnh hưởng đến sự lây lan; những bệnh nhân suy giảm miễn dịch (đặc biệt là những người bị nhiễm HIV hoặc ghép thận) có nguy cơ phát triển các tổn thương lan tỏa rất khó điều trị. đề kháng với nhiễm HPV; miễn dịch tế bào giúp lui bệnh. Tài liệu tham khảo về nguyên nhân gây bệnh
Triệu chứng và dấu hiệu của mụn cócMụn cóc được đặt tên theo vị trí xuất hiện; các dạng khác nhau có liên quan đến các loại HPV khác nhau (đối với các biểu hiện bất thường, xem Bảng: ). Hầu hết các loại thường không có triệu chứng. Tuy nhiên, một số mụn cóc thường nhạy cảm, vì vậy những vùng bề mặt chịu trọng lực (ví dụ, dưới chân) có thể gây ra đau nhẹ. Bảng Mụn cóc thông thườngMụn cóc thông thường (verrucae vulgaris) do HPV loại 1, 2, 4, 7 và đôi khi là các loại khác ở những bệnh nhân bị ức chế miễn dịch (ví dụ: 75 đến 77). Chúng thường không có triệu chứng nhưng đôi khi gây đau nhẹ khi nằm ở bề mặt chịu trọng lượng (ví dụ dưới chân). Mụn cóc thông thường ranh giới rõ ràng, thô ráp, tròn hoặc bờ không đều, cứng, và màu xám nhạt, vàng, nâu, hoặc xám đen có đường kính từ 2 đến 10 mm. Chúng thường xuất hiện ở các vị trí bị chấn thương (ví dụ: ngón tay, khuỷu tay, đầu gối, khuôn mặt) nhưng có thể lây lan ra nơi khác. Các biến thể có hình dạng bất thường (ví dụ: dạng cắt cụt hoặc giống như một bắp cải) thường xuất hiện ở đầu và cổ, đặc biệt là vùng da đầu và râu. Mụn cóc dạng nhúNhững mụn cóc này dài, hẹp, giống như lá mày, thường nằm trên mí mắt, mặt, cổ, hoặc môi. Chúng thường không có triệu chứng. Dạng phân bố về hình thái này của mụn cơm thông thường là lành tính và dễ điều trị. Mụn cóc phẳngMụn cóc phẳng gây ra bởi các loại HPV 3 và 10 và thỉnh thoảng 26 tới 29 và 41, thường bóng, bằng phẳng, màu vàng nâu, hồng, hoặc màu xám, thường nằm ở mặt và dọc theo những vết xước; chúng phổ biến hơn ở trẻ em và thanh thiếu niên và dễ lây lan. Chúng thường không gây triệu chứng nhưng khó điều trị. Mụn cóc lòng bàn tay và bàn chânNhững mụn cóc này gây ra bởi HPV loại 1, 2 và 4 xuất hiện trên lòng bàn tay và lòng bàn chân; chúng được phẳng do bị đè ép và bao quanh bởi biểu mô sừng hóa. Chúng thường mềm và có thể gây khó chịu khi đứng hoặc đi bộ. Bệnh được chẩn đoán phân biệt với sừng và chai chân mắt cá và chai da Chai da và sừng da là tăng dày sừng tại một vị trí áp lực hoặc ma sát không liên tục. Chai da thường ở nông hơn, bao phủ các vùng da rộng hơn và thường không có triệu chứng. Sừng da ở sâu hơn... đọc thêm bởi có điểm chảy máu khi loại bỏ bề mặt da. Mụn cóc thể khảmMục cóc thể khảm là những mảng được hình thành bởi sự kết hợp của vô số mụn cóc bàn chân nhỏ, mọc sít nhau. Giống như các mụn cóc thể khảm khác, chúng thường mềm. Mụn cóc quanh móngNhững mụn cóc này xuất hiện như là da dày lên, nứt, giống như súp lơ xung quanh móng. Chúng thường không có triệu chứng, nhưng khi mụn cóc lan rộng các vết nứt gây đau. Bệnh nhân thường bị mất lớp biểu bì và dễ bị tách móng Viêm quanh móng cấp tính Viêm quanh móng là nhiễm trùng mô quanh móng. Viêm quanh móng cấp tính gây ra đỏ, ấm, và đau dọc theo rìa móng. Chẩn đoán bằng xét nghiệm. Điều trị bằng kháng sinh chống tụ cầu vàng và thoát... đọc thêm . Mụn cóc quanh móng thường gặp ở những bệnh nhân cắn móng tay hoặc những người có nghề nghiệp mà tay bị ướt như thợ rửa bát và người làm nghề pha chế. Mụn cóc bộ phận sinh dụcMụn cóc sinh dục Nhiễm vi rút gây u nhú ở người Vi rút u nhú ở người (HPV) gây ra mụn cóc. Một số loại gây ra mụn cóc da, và các loại khác gây ra mụn cóc sinh dục tăng hoặc phẳng (tổn thương da hoặc niêm mạc của bộ phận sinh dục). Nhiễm một... đọc thêm có các biểu hiện từ sẩn phẳng đứng riêng rẽ, cho đến bề mặt bóng mịn như nhung, cho đến thô ráp ở các vùng hậu môn, quanh trực tràng, môi lớn, môi bé và dương vật. Nhiễm các loại HPV nguy cơ cao (đáng chú ý nhất là loại 16 và 18 nhưng cũng có loại 31, 33, 35 và 39) là nguyên nhân chính của ung thư cổ tử cung Ung thư Cổ tử cung Ung thư cổ tử cung thường do tế bào ung thư vảy gây ra bởi nhiễm virus papilloma người; ít gặp hơn, đó là ung thư biểu mô tuyến. Tân sinh cổ tử cung thì không có triệu chứng; triệu chứng đầu... đọc thêm . Những mụn cóc này thường không có triệu chứng. Mụn cóc ở hậu môn trực tràng thường ngứa. Ví dụ về mụn cóc sinh dục Genital Warts (Glans)This photo shows the typical rough, pedunculated appearance of genital warts on the glans. © Springer Science+Business Media Genital Warts (Coronal Sulcus)This photo shows pink and raised genital warts (arrows) at the coronal sulcus of the penis. © Springer Science+Business Media Genital Warts (Vulva)Genital warts on the vulva may be raised and light-colored with an irregular, rough surface. Image courtesy of Joe Millar via the Public Health Image Library of the Centers for Disease Control and Prevention. Chẩn đoán mụn cóc
Chẩn đoán mụn cóc dựa vào triệu chứng lâm sàng; sinh thiết hiếm khi cần thiết. Triệu chứng ban đầu của mụn cơm là mất đường da qua bề mặt của chúng và xuất hiện các chấm màu đen (khối huyết mao mạch) hoặc khi cạo mụn cơm thì chảy máu. Ngọc trai & cạm bẫy
Chẩn đoán phân biệt mụn cóc bao gồm:
xác định loại DNA của virus có ở một số trung tâm y tế nhưng nói chung không cần thiết. Tiên lượng về mụn cócNhiều mụn cóc có thể tự hồi phục (đặc biệt là mụn cóc thông thường); những thể khác ngay cả khi được điều trị vẫn tồn tại trong nhiều năm và tái phát tại cùng vị trí hoặc ở vị trí khác. Các yếu tố ảnh hưởng đến tái phát có liên quan đến tình trạng miễn dịch toàn thân của bệnh nhân cũng như các yếu tố tại chỗ. Bệnh nhân bị chấn thương tại chỗ (ví dụ như vận động viên, cơ khí, người giết mổ) có thể bị nhiễm HPV tái phát và khó điều trị. Nhiễm HPV sinh dục có nguy cơ ác tính, nhưng sự chuyển thành ác tính là hiếm gặp ở tổn thương da do HPV gây ra, ngoại trừ những bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Điều trị mụn cóc
Không có phương pháp nào là tuyệt đối trong điều trị mụn cóc. Cân nhắc điều trị mụn cóc khi ảnh hưởng thẩm mỹ, ở những vị trí ảnh hưởng chức năng, hoặc gây đau nhiều. Bệnh nhân cần được khuyến khích tuân thủ điều trị, bởi điều trị có thể đòi hỏi một thời gian dài và có thể không thành công. Ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch, các phương pháp điều trị thường ít hiệu quả. Cơ chế của chất kích thích bao gồm gây ra phản ứng miễn dịch đối với HPV. Các chất kích thích bao gồm axit salicylic (SCA), axit tricloroacetic, 5-fluorouracil, nhựa podophyllum, tretinoin và cantharidin. Kem imiquimod 5% tại chỗ làm các tế bào da tạo ra tại chỗ các cytokine có tác dụng kháng virus. Cidofovir tại chỗ, và liệu pháp miễn dịch tiếp xúc (ví dụ, axit squaric axit dibutyl este và kháng nguyên Candida) đã được sử dụng để điều trị mụn cóc. Mụn cóc ban đầu có thể được ngâm trong nước nóng ở nhiệt độ 113°F trong 30 phút ≥ 3 lần/tuần. Sau khi ngâm, các loại thuốc có thể thẩm thấu vào da tốt hơn. Kháng nguyên Candida cũng có thể được tiêm trực tiếp vào tổn thương. Các phương pháp điều trị uống bao gồm cimetidin (nghi ngờ về hiệu quả), isotretinoin, và kẽm. Cidofovir đường tĩnh mạch cũng có thể được sử dụng. Trong hầu hết các trường hợp, nên phối hợp các biện pháp để tăng hiệu quả điều trị. Riêng mụn cóc đơn độc kháng trị điều trị cần kháng virus trực tiếp bằng cách tiêm tĩnh mạch bleomycin và interferon alfa-2b. Những loại thuốc này có thể được sử dụng kết hợp với phương pháp phá huỷ (ví dụ như phẫu thuật lạnh, đốt plasma, nạo, cắt bỏ, laser) bởi vì mặc dù có thể loại bỏ được mụn cơm bằng phương pháp phá huỷ, virus vẫn có thể giữ lại trong các mô và gây tái phát. Thuốc tiêm chủ ý có thể được sử dụng để điều trị mụn cóc chịu lửa, nhiều mụn hoặc ở những vùng nhạy cảm ( ). Để điều trị mụn cóc sinh dục, xem thêm . Mụn cóc thông thườngỞ bệnh nhân suy giảm miễn dịch, mụn cóc thông thường thường giảm trong vòng 2 đến 4 năm, nhưng một số vẫn tồn tại trong nhiều năm. Có rất nhiều phương pháp điều trị. Phương pháp phá hủy tổn thương bao gồm đốt plasma, phẫu thuật lạnh với nitơ lỏng, và phẫu thuật laser. Các chế phẩm axit salicylic (SCA) cũng thường được sử dụng. Dựa vào vị trí và mức độ nghiêm trọng của bệnh mà lựa chọn phương pháp điều trị. Axit salicylic là thuốc bôi tại chỗ phổ biến nhất được sử dụng. SCA có dạng chất lỏng, thạch hoặc ngâm tẩm trong băng keo. Ví dụ, SCA lỏng 17% có thể được sử dụng trên ngón tay, và thạch SCA 40% có thể được sử dụng trên ngón chân. Bệnh nhân bôi SCA vào mụn cóc vào ban đêm và để trong 8 đến 48 giờ tùy thuộc vào vị trí. Cantharidin có thể được sử dụng đơn lẻ hoặc kết hợp (1%) với SCA (30%) và podophyllum (5%) trong collodion. Cantharidin đơn độc được rửa đi bằng xà phòng và nước sau 6 giờ; cantharidin với SCA hoặc podophyllum được rửa trong 2 giờ. Các chất được tiếp xúc với da lâu hơn, càng dễ phản ứng hình thành bọng nước. Phẫu thuật lạnh thường đau nhưng rất hiệu quả. Nạo bằng điện cực, phẫu thuật laser, hoặc cả hai đều có hiệu quả và được chỉ định đối với những tổn thương đơn độc nhưng có thể gây sẹo. Trong vòng 35 năm khoảng 1% bệnh nhân tái phát mụn cóc; do đó, phương pháp mà để lại sẹo nên tránh tối đa vì nhiều sẹo gây mất thẩm mỹ. Các vùng không quan trọng về mặt thẩm mỹ và mụn cơm kháng trị có thể cân nhắc phương pháp điều trị để lại sẹo. Mụn cóc dạng nhúĐiều trị mụn cóc dạng nhú là loại bỏ bằng dao, kéo, nạo hay nitơ lỏng. Nitơ lỏng nên được áp sao cho khoảng 2 mm vùng da xung quanh tổn thương mụn cóc biến thành màu trắng. Tổn thương da xảy ra khi da bị rã, thường mất từ 10 đến 20 giây. Nổi bọng nước có thể xảy ra từ 24 đến 48 giờ sau khi xử lý với nitơ lỏng. Cần cẩn thận khi điều trị các vị trí nhạy cảm về mặt thẩm mỹ, như mặt và cổ, vì sau khi điều trị bằng ni tơ lỏng thường gây sự mất màu hoặc tăng sắc tố da. Những bệnh nhân da có màu sắc đậm có thể bị mất sắc tố vĩnh viễn. Mụn cóc phẳngĐiều trị mụn cóc phẳng rất khó khăn và thường kéo dài hơn so với mụn cóc thông thường, phù hợp với các phương pháp điều trị, tuy nhiên các vùng quan trọng về thẩm mỹ thì các phương pháp phá huỷ ít được sử dụng. Điều trị bậc một thông thường là bôi tretinoin hàng ngày (axit retinoic 0,05% kem). Nếu lột da không đủ để loại bỏ mụn cóc, một chất kích thích khác (ví dụ, 5% benzoyl peroxide) hoặc 5% kem SCA có thể được áp dụng tuần tự với tretinoin. Kem Imiquimod 5% có thể được sử dụng đơn lẻ hoặc kết hợp với thuốc tại chỗ hoặc các biện pháp phá huỷ. Kem 5-fluorouracil (kem 1% hoặc 5%) cũng có thể được sử dụng. Mụn cóc bàn tayĐiều trị mụn cóc bàn tay là quá trình bào mạnh với miếng dán SCA 40% ở vùng tổn thương trong vài ngày. Mụn cóc vỡ vụn sau khi lau với gạc ẩm và mềm, sau đó bị phá hủy bằng cách đóng băng hoặc sử dụng chất ăn mòn (ví dụ, 30 đến 70% axit trichloroacetic). Các phương pháp điều trị phá hủy khác (ví dụ, laser CO2, laser màu xung, axit khác) thường có hiệu quả. Mụn cóc quanh móngLiệu pháp kết hợp giữa nitơ lỏng và kem imiquimod 5%, tretinoin, hoặc SCA có hiệu quả và thường an toàn hơn so với nitơ lỏng đơn thuần hoặc cautery. Sử dụng nitơ lỏng và đốt điện để điều trị mụn cóc quanh móng và quanh ngón tay nên được thực hiện cẩn thận vì liều điều trị quá mạnh có thể gây biến dạng móng tay vĩnh viễn và hiếm hơn là tổn thương thần kinh. Ngọc trai & cạm bẫy
Mụn cóc kháng trịTrong điều trị mụn cóc kháng trị, một số phương pháp được sử dụng từ lâu tuy nhiên tác dụng phụ chưa được biết đầy đủ. Mụn cóc bàn tay kháng trị và mụn quanh móng có thể điều trị hiệu quả bằng tiêm tại chỗ một lượng nhỏ 0,1% dung dịch bleomycin pha với nước muối. Tuy nhiên, hội chứng Raynaud Hội chứng Raynaud Hội chứng Raynaud là sự co thắt mạch của bàn tay khi gặp lạnh hoặc stress tâm lý, gây khó chịu và thay đổi màu sắc (nhợt, xanh, ban đỏ hoặc kết hợp) ở một hay nhiều ngón tay. Thỉnh thoảng, các... đọc thêm hoặc tổn thương mạch máu có thể xuất hiện ở vị trí tiêm, đặc biệt khi tiêm thuốc đầu ngón, vì vậy cần thận trọng. Kháng nguyên Candida trong tổn thương cũng đã được báo cáo là có hiệu quả vừa phải đối với mụn cóc khó chữa. Mụn cóc kháng trị hoặc mụn cóc sinh dục điều trị bằng interferon, đặc biệt là interferon alfa, được tiêm tại chỗ (3 lần/tuần trong 3 đến 5 tuần) hoặc tĩnh mạch. Mụn cóc lan tỏa có thể điều trị hiệu quả bằng isotretinoin đường uống hoặc acitretin. Mụn cóc kháng trị ở trẻ em có thể điều trị hiệu quả bằng vắc xin HPV 9 giá tuy nhiên phương pháp này chưa được chứng minh ( ). Tài liệu tham khảo về điều trị
Phòng ngừa mụn cócCác vắc-xin HPV Vắc-xin Human Papillomavirus (HPV) Bệnh nhiễm trùng do Human papillomavirus (HPV) là bệnh lây truyền qua đường tình dục phổ biến nhất. HPV có thể gây ra mụn cóc trên da, mụn cóc sinh dục, hoặc một số loại ung thư nhất định, tùy... đọc thêm bảo vệ chống lại một số loại HPV gây ra mụn nhọt và ung thư. Những điểm chính
|