Trình chiều hai xu hướng phát triển dân tộc nếu Ví dụ mình hóa

Vấn đề dân tộc luôn có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị – xã hội của mỗi quốc gia có một hay nhiều tộc người cả trong lịch sử và trong thế giới hiện đại. Nó ảnh hưởng đến sự ổn định, tồn tại và phát triển của nhà nước, thể chế chính trị ở quốc gia đó nếu không được giải quyết đúng đắn. Ở Việt Nam cũng vậy, là một đất nước đa dân tộc với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trên mọi miền của tổ quốc.

Các vấn đề về dân tộc luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng, dành sự quan tâm đúng mực với tầm quan trọng của nó, đặc biệt, trong thời kỳ hội nhập quốc tế thì vấn đề này càng được chú trọng. Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: “Cương lĩnh dân tộc của Lênin và sự vận dụng cương lĩnh này của Đảng và Nhà nước ta hiện nay”

Danh mục tài liệu tham khảo:

  • Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học.
  • Giáo trình Triết học Mác-Lênin.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc và cương lĩnh dân tộc của Lênin

Khái niệm dân tộc

Dân tộc là một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất.

Nghĩa thứ nhất, dân tộc chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung sinh hoạt khiinh tế, có ngôn ngữ riêng, có những nét đặc thù về văn hóa; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa, phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng đó. Với nghĩa này, dân tộc là bộ phận của quốc gia- Quốc gia có nhiều dân tộc. Ví dụ như dân tộc Kinh, dân tộc Tày, dân tộc Mường,…

Hiểu theo nghĩa thứ hai, dân tộc chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nân dân một nước, có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó, ví dụ: dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào, dân tộc Trung Hoa,…

cương lĩnh dân tộc của lênin và sự vận dụng cương lĩnh này của đảng và nhà nước ta hiện nay

Hai xu hướng phát triển khách quan của dân tộc và biểu hiện của chúng trong thời đại ngày nay

Hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc.

Xu hướng thứ nhất: xu hướng phân lập. Ở những quốc gia, khu vực tư bản chủ nghĩa gồm nhiều cộng đồng dân cư có nguồn gốc tộc người khác nhau làm ăn, sinh sống. Đến một thời kì nào đó, sự trưởng thành của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh đầy đủ về quyền sống của mình mà các cộng đồng dân cư đó muốn tách khỏi nhau để thành lập các dân tộc độc lập.

Bởi họ hiểu rằng, chỉ trong cộng đồng độc lập họ mới có quyền tự quyết định vận mệnh của mình, mà cao nhất là sự tự do lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc mình.

Xu hướng thứ hai: xu hướng liên kết. Các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội tư bản đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ giữa các quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.

Biểu hiện của hai xu hướng phát triển khách quan của dân tộc trong thời đại ngày nay.

Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc.

Ở các nước này, xu hướng thứ nhất biểu hiện trong sự nỗ lực của từng dân tộc để đi tới sự tự chủ và phồn vinh của dân tộc mình. Xu hướng thứ hai tạo nen sự thúc dẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích lại gần nhau hơn nữa, hòa hợp với nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia và đụng chạm đến tất cả các quan hệ dân tộc. Sự tự chủ, phồn vinh của từng dân tộc sẽ tạo điều kiện hco dân tộc đó có thêm những điều kiện vật chất và tinh thần để hợp tác chặt chẽ hơn với các dân tộc anh em. Sự xích lại gần nhau hơn của các dân tộc trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng sẽ tạo điều kiện cho từng dân tộc đi nhanh tới sự phát triển, phồn vinh.

Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan thể hiện rất nổi bật.

Thời đại ngày nay là thời đại các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy, xoá bỏ ách đô hộ của chủ nghĩa đế quốc và giành lấy sự tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình, bao gồm quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc, quyền bình đẳng với các dân tộc khác. Đây là một trong những mục tiêu chính trị chủ yếu của thời đại – mục tiêu độc lập dân tộc.

Xu hướng này biểu hiện trong phong trào giải phóng dân tộc thành sức mạnh chống chủ nghĩa đế quốc và chính sách thực dân dưới mọi hình thức; biểu hiện trong cuộc đấu tranh của các dân tộc nhỏ bé hiện còn đang là nạn nhân của sự kỳ thị dân tộc phân biệt chủng tộc, vẫn đang bị coi là đối tượng chính sách đồng hóa cưỡng bức ở nhiều nước tư bản.

Ngược lại, trong thời đại ngày nay, còn có xu hướng các dân tộc muốn xích lại gần nhau để trở lại hợp nhất thành một quốc gia thông nhất theo nguyên trạng đã được hình thành trong lịch sử. Xu hướng đó tạo nên sức hút các dân tộc vào các liên minh được hình thành trên những cơ sở lợi ích nhất định.

Có những lợi ích mang tính khu vực – dựa trên yếu tố gần nhau về địa lý, giống nhau về môi trường thiên nhiên, tương đồng nhau về một số giá trị văn hóa, trùng hợp nhau về lịch sử và hiện tại trong cuộc đấu tranh chống một kẻ thù chung nào đó.

Lợi ích toàn cầu có tác dụng sâu xa gắn bó loài người trong một quá trình vận động thống nhất: các dân tộc, quốc gia trê thế giới còn đang ở những trình độ phát triển khác nhau, cần sự giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.

Nội dung Cương lĩnh dân tộc của Lênin.

Dựa trên thực tiễn tình hình các dân tộc trên thế giới, mối quan hệ dân tộc trên thế giới và dựa trên thực tiễn tình hình dân tộc ở nước Nga lúc bấy giờ, Lenin đã nêu ra Cương lĩnh dân tộc bao gồm các nguyên tắc để giải quyết vấn đề dân tộc theo cả góc độ mối quan hệ giữa các dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc cũng như theo cả góc độ mối quan hệ dân tộc quốc tế.

Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.

Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc dù lớn hay nhỏ (kể cả các bộ tộc và chủng tộc) không phân biệt trình độ cao thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau, không dân tộc nào có đặc quyền đặc lợi và đi áp bức các dân tộc khác.

Trong quốc gia có nhiều dân tộc, pháp luật phải bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc.

Trên phạm vi giữa các quốc gia, dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, gắn với cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế mới, chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển với các nước chậm phát triển.

Các dân tộc có quyền tự quyết.

Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình, quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự do phân lập thành cộng đồng quốc gia dân tộc độc lập và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.

Liên hiệp giai cấp công nhân giữa tất cả các dân tộc lại.

Đây là tư tưởng cơ bản và quan trọng trong cương lĩnh dân tộc của Lênin, nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp, nó đảm bảo cho dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.

Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết nhân dân lao động trong các dân tộc để chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dụng liên hiệp giai cấp công nhân giữa tất cả các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể.

Sự vận dụng cương lĩnh dân tộc của Lênin của Đảng và nhà nước ta hiện nay.

Thực tiễn vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay.

Các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay.

Việt Nam – tổ quốc của nhiều dân tộc. Các dân tộc cùng là con cháu của Lạc Long Quân – Âu Cơ, nở ra từ trăm trứng, nửa theo mẹ lên núi, nửa theo cha xuống biển, cùng mở mang xây dựng non sông “Tam sơn, tứ hải, nhất phần điền”, với rừng núi trùng điệp, đồng bằng sải cánh cò bay và biển Đông bốn mùa sóng vỗ; bờ cõi liền một dải từ chỏm Lũng Cú (Bắc) đến xóm Rạch Tàu (Nam), từ đỉnh Trường Sơn (Tây) đến quần đảo Trường Sa (Đông).

Hiện nay, trên dải đất hình chứ S có 54 dân tộc anh em, đó là: Chứt, Kinh, Mường, Thổ, Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày, Thái, Ba na, Brâu, Bru-Vân kiều, Chơ-ro, Co, Cơ-ho, Cơ-tu, Gié-triêng, Hrê, Kháng, Khmer, Khơ mú, Mạ, Mảng, M’Nông, Ơ-đu, Rơ-măm, Tà-ôi, Xinh-mun, Xơ-đăng, Xtiêng, Dao, Mông, Pà thẻn, Cờ lao, La Chí, La ha, Pu péo, Chăm, Chu-ru, Ê đê, Gia-rai, Ra-glai, Hoa, Ngái, Sán dìu, Cống, Hà nhì, La hủ, Lô lô, Phù lá, Si la.

Mặc dù tiếng nói của các dân tộc thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau, song do các dân tộc sống rất xen kẽ với nhau nên một dân tộc thường biết tiếng các dân tộc có quan hệ hàng ngày, và dù sống xen kẽ với nhau, giao lưu văn hoá với nhau, nhưng các dân tộc vẫn lưu giữ được bản sắc văn hoá riêng của dân tộc mình.

Ở đây cái đa dạng của văn hoá dân tộc được thống nhất trong quy luật chung – quy luật phát triển đi lên của đất nước, như cái riêng thống nhất trong cái chung của cặp phạm trù triết học.

Mối quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta và với các dân tộc trên thế giới.

Mối quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta.

Đặc điểm nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở Việt Nam là có truyền thống đoàn kết gắn bó từ lâu đời trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Do đặc điểm lịch sử của cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên khắc nghiệt và chống giặc ngoại xâm, các dân tộc ở Việt Nam, thiểu số cũng như đa số tuy trình độ kinh tế, văn hoá, xã hội, phong tục tập quán, lối sống…khác nhau, nhưng đều có chung truyền thống đoàn kết thống nhất, tương thân tương ái, đồng cam cộng khổ trong công cuộc dựng nước và giữ nước.

Do đó, bên cạnh những giá trị mang bản sắc văn hoá tộc người của các dân tộc thiểu số còn có chung nhiều giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc – quốc gia Việt Nam, đó là truyền thống yêu nước, yêu lao động, là ý thức tình cảm về quê hương Tổ quốc chung.

Hiện nay, do nhiều quyên nhân nên vẫn còn sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc. Từ sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, các miền dẫn tới tình trạng chênh lệch lớn trong sinh hoạt kinh tế như trình độ tổ chức sản xuất, phương thức canh tác, trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật… dẫn đến năng xuất, sản lượng và hiệu quả kinh tế nói chung cũng chênh lệch.

Về văn hoá, trình độ văn hoá, trình độ dân trí nói chung, giữa các vùng miền, giữa các dân tộc còn chênh lệch lớn. Phong tục tập quán, luật tục, tâm lý, lối sống của các tộc người….bên cạnh những yếu tố tích cực, còn lưu giữ nhiều yếu tố tiêu cực, lạc hậu ở các mức độ khác nhau.

Về xã hội, quản lý xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội nhằm ổn định đời sống, việc làm thực hiện các chính sách xã hội, chống tệ nạn xã hội v.v…cũng biểu hiện rõ nét sự không đồng đều, thậm chí chênh lệch rất lớn trong các tộc người thiểu số với đa số cũng như giữa các tộc người thiểu số với nhau.

Trình chiều hai xu hướng phát triển dân tộc nếu Ví dụ mình hóa
Cương lĩnh dân tộc của Lênin và sự vận dụng cương lĩnh này của Đảng và Nhà nước ta hiện nay

Mối quan hệ với các dân tộc trên thế giới.

Ở Việt Nam do nhiều nguyên nhân, có khoảng 40 dân tộc có mối quan hệ xuyên quốc gia với mức độ khác nhau, chủ yếu là các dân tộc có chung đường biên giới với nước ta. Một số công trình đã chỉ ra, nhiều dân tộc sinh sống trên đất nước ta có nguồn gốc từ Trung Quốc tới cư trú ở Việt Nam vào những thời kỳ lịch sử khác nhau.

Nguyễn Chí Huyên (Chủ biên, 2000, tr. 62-234) cho biết, có khoảng trên 20 dân tộc thuộc các nhóm ngôn ngữ Tày – Thái, Hmông – Dao, Tạng – Miến sinh sống tại các tỉnh biên giới phía Bắc có quan hệ lịch sử với đồng tộc ở bên kia đường biên. Việc giao lưu văn hóa, đi lại giữa cá dân tộc cũng diễn ra khá phổ biến.

Đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay – sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt Cương lĩnh dân tộc của Lênin.

Nước ta có 54 dân tộc anh em cùng chung sống từ ngàn đời nay. Đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tồn tại và phát triển là quy luật và truyền thống quý báu của đồng bào ta. Đảng cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi công tác dân tộc là nhiệm vụ chiến lược của Đảng.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống văn hóa, xã hội cho các vùng dân tộc thiểu số.

Đây là một vấn đề vô cùng quan trọng, bởi ngày nay sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc. Để có thể thu hẹp khoảng cách giữa các dân tộc thì việc cần làm là đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cho các vùng dân tộc thiểu số. Từ đó, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các vùng dân tộc thiểu số.

Đi đôi với việc phát huy tiềm lực kinh tế của các vùng dân tộc thì cần chú trọng bảo vệ môi trường thiên nhiên, ổn định đời sống của đồng bào, phát huy mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó giữa các đồng bào tại chỗ và đồng bào từ nơi khác đến, chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi.

Đảng và Nhà nước thực hiện một chiến lược kinh tế chung, trong đó ưu tiên đúng mức cho sự phát triển kinh tế ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn lạc hậu. Thực hiện được điều đó vừa đáp ứng được yêu cầu khai thác tiềm năng to lớn của các đồng bào dân tộc thiểu số, vừa đáp ứng yêu cầu xóa bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các dân tộc các vùng để các dân tộc thực sự bình đẳng và hòa hợp với nhau.

Tôn trọng sự bình đẳng lẫn nhau giữa các dân tộc.

Nước ta có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, rất nhiều dân tộc có ngôn ngữ riêng, có những nét văn hóa, phong tục riêng của họ. Vì vậy, cùng với việc xoá bỏ ranh giới giữa các dân tộc thì cũng cần phải tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, tập quán tín ngưỡng của họ; giúp các dân tộc giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của mình.

Các chính sách pháp luật của nhà nước ta cũng thể hiện rõ vấn đề này khi tạo điều kiện cho các dân tộc được quyền tự do sử dụng ngôn ngữ của mình trong tất cả các lĩnh vực đời sống, các phạm vi giao tiếp. Đồng thời khuyến khích đưa vắn hóa truyền thống vào giảng dạy ở các trường học để các truyền thống văn hóa tốt đẹp không bị mai một. Dành nhiều quyền hơn cho các đối tượng thuộc dân tộc thiểu số, khuyến khích cán bộ đến các vùng sâu, vùng xa làm việc và công tác.

Quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ cho mỗi dân tộc.

Bác Hồ từng chỉ rõ, văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Muốn đưa đồng bào dân tộc thiểu số còn đang sống ở những vùng khó khăn, dân trí hạn chế phát triển về kinh tế xã hội thì nhất thiết phải nâng cao dân trí, bồi dưỡng văn hóa, mở rộng sự giao lưu, hiểu biết của đồng bào. Muốn thực hiện được điều này thì cần phải có những con người đi tiên phong, hướng dẫn cho bà con, những người đó không ai khác chính là các cán bộ, bởi cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức thì mới có thể lãnh đạo được nhân dân.

Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cũng cần quan tâm đến đời sống của các cán bộ nơi vùng sâu, vùng xa, vùng các dân tộc thiểu số, tạo điểu kiện để thu hút cán bộ đến làm việc.

Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn vùng đồng bào dân tộc.

Mặt trái của kinh tế nhiều thành phần gắn với thị trường, mở cửa, hội nhập dẫn đến khá nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội vùng đồng bào dân tộc, khiến chúng ta không thể xem thường.

Tệ buôn lậu, nhất là vùng giáp biên, cửa khẩu còn khá phức tạp, làm ảnh hưởng đến cuộc sống, sinh họat của đồng bào. Các tệ nạn nghiện hút, đào vàng, phá rừng, đất đai canh tác, nguồn nước… là những bức xúc ở nhiều vùng dân tộc, gây bất ổn với đời sống đồng bào. Tệ tham ô, tham nhũng, lãng phí ở một số cán bộ làm mất lòng tin của nhân dân.

Những hiện tượng tiêu cực như vậy xảy ra ngay trong địa phương, nơi sinh sống hàng ngày khiến cho lòng tin, tình đoàn kết, yêu thương giúp đỡ nhau trở thành hình thức, mất đi những giá trị thiêng liêng của chiến lược công tác dân tộc. Trong khi đó, bọn xấu, các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng những sở hở, yếu kém của ta; lợi dụng những vấn đề lịch sử, tôn giáo để chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, gây hiềm khích giữa các dân tộc.

Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của các dân tộc.

Đất nước ta đã trải qua 4000 năm lịch sử với biết bao biến cố, thăng trầm, và có đến hơn một nửa thời gian đó chúng ta phải đấu tranh với giặc ngoại xâm từ các nước phong kiến phương Bắc đến các nước đế quốc, thực dân phương Tây.

Cũng trong chính thời gian ấy, dân tộc ta đã thể hiện được sức mạnh kiên cường, bất khuất cùng với đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân cả nước để đánh thắng những đế chế hùng mạnh và sừng sỏ nhất thời bấy giờ. Tinh thần đoàn kết đó phải được giữ gìn và phát huy mọi lúc, mọi nơi, làm thành sức mạnh đưa đất nước vượt qua những khó khăn đi lên Chủ nghĩa xã hội.

Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Cương lĩnh dân tộc của lênin và sự vận dụng cương lĩnh này của đảng và nhà nước ta hiện nay. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn luật qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.

Trân trọng./.