Vì sao gọi là chủ nghĩa xã hội không tưởng

NGÂN HÀNG CÂU HỎI MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC VÀ CÁCH TRẢ LỜI CHO TỪNG CÂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.22 KB, 84 trang )

NGÂN HÀNG CÂU HỎI MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC VÀ
CÁCH TRẢ LỜI CHO TỪNG CÂU
I. CÂU HỎI LÝ THUYẾT
1) Trình bày quan niệm về chủ nghĩa xã hội ?
2) Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là gì ? Những điều kiện lịch sử khách quan dẫn đến sự ra
đời của các tư tưởng xã hội chủ nghĩa ?
3) Phân tích những tư tưởng cơ bản của ba nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đầu thế kỷ
XIX: Xanh Xi-mông, Phu-riê, Ô-Oen ?
4) Trình bày những đóng góp lịch sử của tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước khi xuất hiện
chủ nghĩa xã hội khoa học ?
5) Vì sao tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ này gọi là chủ nghĩa không tưởng ?
6) Vì sao nói chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán đầu thế kỷ XIX là một trong những
nguồn gốc lý luận trực tiếp cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học của C.Mác và
Ph.Ăngghen ?
7) Những điều kiện, tiền đề kinh tế, chính trị xã hội, văn hóa tư tưởng cho sự ra đời
của chủ nghĩa xã hội khoa học ?
8) Vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen trong việc phát triển chủ nghĩa xã hội từ không
tưởng đến khoa học ?
9) Làm rõ sự khác biệt giữa chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học ?
10) Trình bày khái niệm Chủ nghĩa xã hội khoa học ? Đối tượng và ý nghĩa nghiên cứu
của chủ nghĩa xã hội khoa học ?
11) Khái niệm giai cấp công nhân và những đặc điểm cơ bản của nó ? Những biểu hiện
mới của giai cấp công nhân hiện nay ?
12) Trình bày sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và những điều kiện khách quan quy
định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ?


13) Những nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình ?
Liên hệ với vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân Việt Nam ?
14) Trình bày mối quan hệ giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển giai cấp


công nhân ?
15) Phân tích đặc điểm và vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong cách mạng Việt
Nam ?
16) Phương hướng cơ bản để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ?
17) Trình bày khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa và tính tất yếu của cách mạng xã hội
chủ nghĩa ?
18) Trình bày mục tiêu và động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa ?
19) Những nội dung cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa ?
20) Những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về lý luận cách mạng không ngừng và
sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam trong điều kiện cách mạng Việt Nam ?
21) Tính tất yếu và các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ
nghĩa ?
22) Những đặc trưng cơ bản của các giai đoạn phát triển hình thái kinh tế xã hội cộng
sản chủ nghĩa ?
23) Xã hội xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng cơ bản nào ? Liên hệ với đặc trưng của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ?
24) Quan niệm, tính tất yếu và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ?
25) Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ?
26) Làm rõ luận điểm: con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ? Làm rõ nội dung bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa theo tinh thần của Đại hội lần
thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam ?


27) Trình bày khái niệm dân chủ và bản chất của dân chủ XHCN ? Làm rõ sự khác biệt
giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản ?
28) Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là gì ? Biểu hiện ở Việt Nam ? Những nguyên tắc
cần quán triệt trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay ?
29) Những nội dung cơ bản đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay ? Những
khuynh hướng cần đấu tranh khi thực hiện đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta ?

30) Trình bày phương hướng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam và mục tiêu tổng quát của 5 năm 2006 2010 ?
31) Cơ cấu xã hội giai cấp là gì ? Nêu những xu hướng biến đổi cơ bản của nó trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm của cơ cấu xã hội giai cấp Việt Nam trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ?
32) Vì sao trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thực hiện liên minh công
nông trí thức ?
33) Quá trình thực hiện liên minh công nông trí thức bao gồm những nội dung gì ?
34) Phân tích các khái niệm dân tộc và hai xu hướng khách quan trong sự phát triển của
dân tộc ?
35) Cương lĩnh về vấn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác Lênin bao gồm những nội dung gì
?
36) Cộng đồng các dân tộc Việt Nam có những đặc điểm gì? Trình bày chính sách dân tộc
của Đảng cộng sản Việt Nam.
37) Trình bày bản chất, nguồn gốc, và tính chất của tôn giáo. Nêu quan điểm của chủ
nghĩa Mác Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo ?
38) Vì sao trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tôn giáo vẫn tồn tại ?
39) Đảng ta đã vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin vào việc giải
quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam như thế nào ?
40) Trình bày khái niệm gia đình. Nêu vị trí và các chức năng cơ bản của gia đình ?


41) Phương hướng và giải pháp để xây dựng gia đình Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay ?
42) Nêu quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin về con người và con người xã hội
chủ nghĩa ?
43) Phân tích quan niệm về nguồn lực con người trong mối quan hệ với các nguồn lực
khác. Liên hệ với nguồn lực con người Việt Nam hiện nay ?
44) Những giải pháp cơ bản phát huy nguồn lực con người Việt Nam ?
45) Thế nào là nguồn nhân lực chất lượng cao ? Vì sao phải phát triển nguồn nhân lực

chất lượng cao ? Nêu những giải pháp để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ?

II. TRẢ LỜI CÂU HỎI LÝ THUYẾT
------------Câu 1: Trình bày quan niệm về chủ nghĩa xã hội ?
Chủ nghĩa xã hội bao gồm 5 nội dung cơ bản sau đây :
1) Chủ nghĩa xã hội là những nhu cầu và hoạt động thực tiễn của đa số nhân dân lao
động trong quá trình sản xuất ngày càng mang tính xã hội hóa ; đồng thời là quá trình thực thi
dân chủ của nhân dân với đúng nghĩa: quyền lực thuộc về nhân dân. Cả hai quá trình này đều
đã xuất hiện từ trước Công nguyên hàng trăm năm trong chế độ cộng đồng nguyên thủy ở Hy
Lạp và La Mã cổ đại khi đó, xã hội chưa có giai cấp và nhà nước.
2) Chủ nghĩa xã hội là phong trào đấu tranh thực tiễn của nhân dân lao động chống lại
chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất công và mọi tội ác nhằm giành lại dân chủ của nhân dân.
Điều này được thể hiện ở các cuộc khởi nghĩa của giai cấp nô lệ và nhân dân lao động chống lại
giai cấp chủ nô và nhà nước chủ nô trong chế độ chiếm hữu nô lệ. Mặc dù những cuộc khởi
nghĩa này đều thất bại, nhưng mục đích tính chất của nó đã thể hiện rõ tính chất xã hội chủ
nghĩa sơ khai.


3) Chủ nghĩa xã hội là những ước mơ, lý tưởng của nhân dân lao động về một chế độ xã
hội mà ở đó không còn áp bức, bóc lột, nhân dân làm chủ và có quyền lực để cùng nhau xây
dựng xã hội bình đẳng, văn minh, hạnh phúc cho mọi người.
4) Chủ nghĩa xã hội là những tư tưởng, lý luận, học thuyết về giải phóng con người, giải
phóng xã hội khỏi chế độ tư hữu, áp bức, bất công, nghèo nàn và lạc hậu, như chủ nghĩa xã hội
không tưởng trước Mác và chủ nghĩa xã hội khoa học do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập.
5) Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động
xây dựng trên thực tế về mọi mặt dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân.
Thực tế này chỉ có từ sau khi cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917 thành
công - đó chính là sự hình thành các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Câu 2: Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là gì? Những điều kiện lịch sử khách quan dẫn

đến sự ra đời của các tư tưởng xã hội chủ nghĩa?
1) Khái niệm tư tưởng xã hội chủ nghĩa:
Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm có nghĩa rộng hơn khái niệm tư tưởng xã hội chủ
nghĩa. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội bao hàm cả chủ nghĩa xã hội về tư tưởng và chủ nghĩa xã
hội hiện thực. Chủ nghĩa xã hội về tư tưởng tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, tiêu biểu là chủ
nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là một khái
niệm chỉ trào lưu tư tưởng văn hoá, phản ánh các nội dung cơ bản sau đây:
+ Sự phản kháng của quần chúng nhân dân lao động, những người bị áp bức, bóc lột
chống lại các giai cấp thống trị bóc lột nhằm xoá bỏ hoàn toàn áp bức, bóc lột, bất công, xoá bỏ
mọi sự khác biệt giàu, nghèo;
+ Những ước mơ, nguyện vọng của nhân dân lao động về một xã hội công bằng, bình
đẳng và về một cuộc sống hạnh phúc, không có giàu nghèo, bóc lột, bất công
+ Sự tìm tòi những mô hình, con đường và những bước đi để xây dựng được xã hội công
bằng, bình đẳng, văn minh, tạo ra những điều kiện đem lại cuộc sống hạnh phúc cho con người.
2) Những điều kiện lịch sử khách quan dẫn đến sự ra đời các tư tưởng xã hội chủ
nghĩa:


Những tư tưởng có tính chất xã hội chủ nghĩa nêu trên có một quá trình hình thành, phát
triển lâu dài, mang những nội dung, khuynh hướng khác nhau, do những điều kiện lịch sử cụ thể
của mỗi thời kỳ khác nhau quy định.
+ Nghiên cứu lịch sử có thể thấy, các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện từ
khi xã hội có chế độ tư hữu, có phân chia giai cấp, có đối kháng giai cấp và xuất hiện nạn áp
bức bóc lột giữa người và người. Nghĩa là, sự xuất hiện của chế độ tư hữu về ruộng đất và các
tư liệu sản xuất chính là nguồn gốc của sự phân chia xã hội thành giai cấp; thành kẻ giàu, người
nghèo, dẫn đến tình trạng bất bình đẳng, nạn áp bức bóc lột giữa người và người. Đây cũng
chính là điều kiện lịch sử cho các tư tưởng xã hội chủ nghĩa ra đời và tồn tại:
- Lần đầu tiên các tư tưởng có tính chất xã hội chủ nghĩa xuất hiện vào thời sơ kỳ của chế
độ chiếm hữu nô lệ, khi nhân dân lao động mất quyền dân chủ, họ đã đấu tranh đòi lại và mong
muốn, ước mơ về một xã hội dân chủ, công bằng, tiêu biểu là các cuộc đấu tranh của những

người nô lệ chống giai cấp chủ nô.
- Do vậy, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện suốt chiều dài của lịch sử loài người
khi xã hội còn tồn tại sự phân chia giai cấp, đấu tranh giai cấp, áp bức bóc lột và nó sẽ mất đi
chừng nào trong xã hội không còn những tình trạng nêu trên.
+ Các tư tưởng xã hội chủ nghĩa được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: Từ
phong trào hoạt động thực tiễn của nhân dân bị áp bức (cuộc khởi nghĩa của Spactaquýt,
Clêômen ở La Mã và Hy Lạp cổ đại); tư tưởng xã hội chủ nghĩa tiến dần từ những ước mơ, lý
tưởng xã hội chủ nghĩa sơ khai (thời cổ đại, trung đại những câu chuyện thần thoại thể hiện sự
nuối tiếc về quá khứ); phát triển thành các tác phẩm văn học, tiêu biểu như Hòn đảo Không
tưởng của T.Mo-rơ (thế kỷ XVI); Thành phố Mặt trời của Campanenla (thế kỷ XVII); đặc biệt
thể hiện dưới dạng lý luận, tiêu biểu như Cương lĩnh hành động của G.Ba-bớp (thế kỷ XVIII);
đặc sắc hơn là học thuyết xã hội chủ nghĩa, tiêu biểu như học thuyết về giai cấp của Xanh Ximông (đầu thế kỷ XIX) và học thuyết khoa học (Chủ nghĩa xã hội khoa học - giữa thế kỷ
XIX, do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập).
Như vậy, tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã có quá trình phát triển lâu dài, trải qua các giai
đoạn khác nhau. Tuy nhiên, tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác phát triển rực rỡ vào thời cận
đại (từ thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XIX), với các đại biểu tiêu biểu như: Tô-mát Mo-rơ (TK.XVI);


Campanenla (TK.XVII); G.Mê-liê, Mably, Ba-bớp (TK.XVIII); Xanh Xi-mông, Phu-riê, Ô-Oen
(đầu TK.XIX). Tư tưởng của các đại biểu này, nhất là của ba nhà tư tưởng đầu thế kỷ XIX đã
trở thành một trong những tiền đề lý luận cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học do
C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập.
+ Vào giữa thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển chủ nghĩa xã hội từ không
tưởng đến khoa học dựa trên những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá - tư tưởng chín muồi và
nó được các ông tiếp tục phát triển, bổ sung.
+ Đến thời đại của mình cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin tiếp tục phát triển và
bảo vệ lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học và đã phát triển nó ở dạng chủ nghĩa xã hội hiện thực
khi nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ra đời nhà nước Xô Viết năm 1917.
+ Ngày nay các Đảng cộng sản của các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong
đó có Đảng cộng sản Việt Nam đang tiếp tục phát triển và bảo vệ những nguyên lý của chủ

nghĩa xã hội khoa học; đồng thời hiện thực hoá những nguyên lý này vào thực tiễn nhằm xây
dựng thành công chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản trên thực tế.

Câu 3: Phân tích những tư tưởng cơ bản của ba nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng
đầu thế kỷ XIX: Xanh Xi-mông, Phu-riê, Ô-Oen
1) Xanh Xi-mông (1760 1825)
Ông xuất thân từ một gia đình quý tộc Pháp lâu đời, tham gia quân đội từ khi 17 tuổi.
Ông viết nhiều tác phẩm nổi tiếng như: Khảo luận khoa học; Những bức thư của một người ở
Giơnevơ gửi những người cùng thời; Quan điểm đối với chế độ sở hữu pháp luật; Đạo Cơ đốc
mới
Công lao của Xanh Xi-mông trước hết là ở chỗ thừa nhận sự phát triển của xã hội là một
quá trình tiến bộ không ngừng từ thấp tới cao. Theo ông, mỗi chế độ kinh tế xã hội đã tồn tại
và phát triển trong lịch sử đều là kết quả của quá trình phát triển tiến bộ và có tính chất tất yếu
của xã hội loài người. Chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời thay thế chế độ nguyên thuỷ dã man đã là
một bước tiến bộ. So với chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến về sau là một bước tiến lớn
thể hiện là nó đã cải biến thân phận người nô lệ trở thành người nông nô. Cách mạng tư sản ra


đời là động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ xã hội bằng việc thay thế các quan hệ sở hữu hà
khắc, phản động phong kiến bằng quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa tiến bộ hơn.
Một trong những nội dung nổi bật trong tư tưởng của Xanh Xi-mông là lý luận về giai
cấp và xung đột giai cấp. Theo ông, xã hội đương thời chia thành ba giai cấp: quý tộc, nhà tư
tưởng, nhà công nghiệp, trong đó, giai cấp nhà công nghiệp là giai cấp có trí tuệ hơn cả và có
khả năng quản lý đất nước.
Trong giai cấp nhà công nghiệp ông đã phân biệt thành hai nhóm: một bên là giai cấp ít ỏi
những người sở hữu; một bên khác đông đảo những người không có của. Ông nhận thấy cuộc
đấu tranh giữa những người không có của và những người sở hữu là điều không tránh khỏi. Vào
cuối đời, Xanh Xi-mông đã có ý niệm cho rằng, cơ sở của xã hội thuộc về giai cấp những
người công nhân làm lao động thủ công, do vậy, giải phóng giai cấp cần lao là mục đích cuối
cùng của ông.

Xanh Xi-mông có thái độ phê phán đối với cách mạng tư sản Pháp vì nó chưa triệt để,
chưa đem lại quyền lợi cho giai cấp nghèo khổ nhất và đông đảo nhất, do đó theo ông cần phải
có một cuộc cách mạng mới. Ông phê phán gay gắt xã hội vô chính phủ công nghiệp Pháp và
cho rằng đó là xã hội lộn ngược nhau: người nghèo phải rộng lượng với người giàu; kẻ phạm
tội lớn nhất có quyền trừng phạt những lỗi lầm nhỏ nhất; kẻ không có năng lực, vô đạo đức lại
đi điều khiển và dạy đức hạnh cho nhân dân Ông mơ ước xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn
mà ở đó phân phối của cải phải có lợi cho đa số.
Tuy nhiên, khi thực hiện mơ ước xây dựng một xã hội mới tốt đẹp Xanh Xi-mông lại chủ
trương đi theo con đường hoà bình, vì vậy, tư tưởng của ông đã trở thành ảo tưởng, không
tưởng.
2) Sác-lơ Phu-riê (1772 1837)
Ông xuất thân từ một gia đình buôn bán nhỏ của nước Pháp, ông là người có khả năng
nhận thức đặc biệt, mặc dù thời nhỏ ông không được học ở trường nhiều. Ông viết nhiều tác
phẩm nổi tiếng như: Lý thuyết về sự thống nhất toàn thế giới; Thế giới kinh tế mới hay là
phương thức hành động xã hội chủ nghĩa hợp với tự nhiên.


Một trong những tư tưởng đặc sắc của Phuriê đó là phê phán và lên án xã hội tư sản một
cách sâu sắc, vì theo ông, đó là một trạng thái vô chính phủ của công nghiệp, trong đó sự
nghèo khổ sinh ra chính từ sự thừa thãi. Ông kịch liệt phê phán tình trạng cạnh tranh diễn ra
trong nền thương nghiệp tư bản chủ nghĩa mà hậu quả của nó là thị trường rối loạn và người lao
động bị bần cùng hoá. Phuriê phê phán đạo đức trong xã hội tư sản đương thời vì nó hạn chế,
bắt bẻ, phiền phức đối với người nghèo, trong khi đó nó lại là mặt nạ để cho người giàu che đậy
một âm mưu, hành động tội ác. Theo ông, trong xã hội tư sản, người nghèo chỉ bình đẳng trên
danh nghĩa, còn trên thực tế họ phải chịu đựng mọi bất bình đẳng và rơi vào cạm bẫy của người
giàu. Ông phê phán gay gắt hôn nhân tư sản vì thực tế nó là sự giao kèo buôn bán, hợp thức hoá
sự sa đoạ làm cho phụ nữ bị mất quyền. Phu-riê coi việc giải phóng phụ nữ là thước đo mức độ
tự do trong mọi xã hội.
Một trong những tư tưởng đặc sắc nhất của Phu-riê là quan niệm biện chứng về lịch sử.
Ông chia lịch sử xã hội loài người thành 4 giai đoạn: mông muội, dã man, gia trưởng và văn

minh. Ông cũng chia sự phát triển của mỗi chế độ xã hội thành bốn giai đoạn phát triển tương
ứng với bốn giai đoạn của cuộc đời con người: thơ ấu, thanh niên, trưởng thành và tuổi già.
Theo ông, nước Pháp, nước Anh lúc đó đang ở giai đoạn văn minh thứ ba và ngả sang giai đoạn
tuổi già. Ông hy vọng sau giai đoạn này xã hội sẽ bước vào một thời kỳ mới thời kỳ văn minh
của những bảo đảm xã hội, tiến lên giai đoạn xã hội hài hoà, trong đó có sự thống nhất giữa
lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể trên cơ sở tổ chức các hiệp hội làm ăn tập thể mà ông gọi là
phalănggiơ. Ông quan niệm trong xã hội hài hoà tất cả mọi năng lực của con người sẽ được
hoàn thiện, cá nhân con người sẽ được phát triển tới mức chưa từng thấy.
Tuy nhiên, con đường đạt tới xã hội hài hoà của Phu-riê là hoà bình, nhờ vào sự giúp đỡ
của những kẻ có quyền hành và tiền của. Ông phản đối bạo lực. Do vậy, ông không vượt qua
được những bậc tiền bối của mình khi tìm biện pháp xây dựng xã hội mới và tư tưởng của ông
chỉ dừng lại ở sách vở.
3) Rô-bớt Ô-Oen (1771 1858)
Ông sinh trong một gia đình thủ công ở thị trấn nhỏ (nước Anh). Tuổi thơ của ông khá
cực nhọc vì phải đi làm thuê, nhưng ông có chí khí vươn lên và trở thành người kinh doanh
thành đạt. Cuộc đời của ông gắn liền với sự chăm lo cho những người công nhân lao động cùng


khổ. Ông đã từng hai lần dành toàn bộ của cải của mình để thực nghiệm mô hình xã hội cộng
sản chủ nghĩa (tuy cả hai lần cuối cùng đều thất bại). Ông viết một số tác phẩm nổi tiếng như
Luật công xưởng; Những nhận xét về ảnh hưởng của hệ thống công nghiệp và nông nghiệp;
Quyển sách về thế giới đạo đức mới
Một trong những nội dung nổi bật trong tư tưởng của Ô-Oen là quan niệm của ông khi
bàn về bản chất con người. Theo ông bản chất con người được hình thành thông qua sự tác
động qua lại giữa con người với con người diễn ra ở môi trường bên ngoài, trong đó những tác
động có tính khách quan đến việc hình thành bản chất con người có ý nghĩa quan trọng nhất. Xã
hội tương lai dựa trên sự hiểu biết khoa học về các quy luật của bản chất con người sẽ là một xã
hội hài hoà, một xã hội thực sự là của con người.
Ô-Oen là một người có khuynh hướng duy vật và tiến bộ hơn so với những đại biểu
không tưởng cùng thời, khi cho rằng sự phát triển của lịch sử gắn liền với sự thay đổi trong các

phương thức sản xuất. Theo ông, lực lượng vật chất đang chín muồi trong lòng xã hội, cuối
cùng sẽ dẫn đến sự thay đổi xã hội và đây là nấc thang cần thiết, chuẩn bị dẫn đến cuộc cách
mạng vĩ đại và quan trọng. Ô-Oen lên án và phủ nhận sâu sắc chế độ tư hữu vì nó làm cho
người sở hữu tài sản trở thành ngu muội, ích kỷ và tính ích kỷ đó tỷ lệ thuận với số lượng tài
sản của họ; nó làm cho con người xa cách nhau, thù hằn, tàn sát, chém giết lẫn nhau bởi các
cuộc chiến tranh tàn khốc. Nó là nguyên nhân gây ra tất cả các tiêu cực và sự bất hợp lý trong
xã hội. Ô-Oen đi tới kết luận phải xoá bỏ chế độ tư hữu.
Để xây dựng xã hội mới theo Ô-Oen chỉ còn cách là thay chế độ tư hữu bằng chế độ công
hữu và xây dựng công xã là cơ sở của xã hội mới, ở đó mọi thành viên sẽ sống như một gia
đình. Nguyên tắc hoạt động của công xã là: lao động tập thể, cộng đồng sở hữu, bình đẳng về
nghĩa vụ và quyền lợi giữa tất cả các thành viên. Công xã sẽ đảm bảo cho mọi thành viên có
điều kiện để phát triển.
Tuy nhiên, về con đường và phương pháp đi tới xã hội mới, cũng giống như Xanh Ximông và Phu-riê, Rô-bớt Ô-Oen cũng cho rằng chỉ có thể bằng con đường hoà bình, bằng cách
tuyên truyền, giải thích những chân lý cơ bản thì mới có thể hoàn thành được cuộc cách mạng
vĩ đại. Ông trông chờ vào sự thức tỉnh của các chính phủ và ông chủ trương thuyết phục các
chính phủ từ bỏ con đường lầm lạc, tạo điều kiện thuận lợi để ông thực hiện cuộc cải cách của


mình. Chính vì vậy, tư tưởng tốt đẹp của ông đã rơi vào không tưởng khi đưa ra thực hiện trên
thực tế.
Với các giá trị nêu trên, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác, nhất là tư tưởng xã hội
chủ nghĩa đầu thế kỷ XIX của Xanh Xi-mông, Phu-riê và Ô-Oen được C.Mác và Ph.Ăngghen
thừa nhận là một trong ba nguồn gốc lý luận của học thuyết mà các ông xây dựng - học thuyết
Mác - Lênin và là tiền đề tư tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học

Câu 4: Trình bày những đóng góp lịch sử của tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước khi
xuất hiện chủ nghĩa xã hội khoa học ?
1) Lên án, phê phán chủ nghĩa tư bản và các xã hội áp bức, bất công:
Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ này ở những mức độ khác nhau đã lên án, phê
phán chủ nghĩa tư bản một cách sâu sắc ngay từ khi nó mới ra đời và đã phần nào nói lên tiếng

nói của những người lao khổ, bênh vực họ trước tình trạng bị đối xử bất công, bị áp bức trong
xã hội. Xã hội tư bản từ khi ra đời đã có nhiều biến động, xung đột làm cho của cải bị khánh
kiệt (do phân hóa giàu nghèo), đạo đức bị suy đồi. Dưới con mắt quan sát của các nhà tư tưởng
xã hội chủ nghĩa lúc đó, chủ nghĩa tư bản được miêu tả với những hình ảnh rất đắtnhư: "cừu
ăn thịt người" của Tô-mát Mo-rơ (thế kỷ XVI); "bệnh dịch nguy hiểm" của Campanenla (thế kỷ
XVII); "bức tranh lộn ngược" của Xanh Xi-mông, "xã hội vô chính phủ công nghiệp" của Phuriê (thế kỷ XIX)... Do đó, theo các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa, xã hội tư bản cần phảI bị loại
bỏ và thay thế bằng xã hội khác tốt đẹp hơn.
2) Phác thảo mô hình xã hội mới tốt đẹp hơn so với xã hội đương thời:
Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ này đã nêu lên nhiều luận điểm có giá trị,
nhiều dự đoán tài tình về sự phát triển của xã hội, về một xã hội tương lai tốt đẹp hơn mà sau
này các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa một cách có phê phán và luận
chứng chúng trên cơ sở khoa học. Tiêu biểu là mô hình "Hòn đảo không tưởng" của Tô-mát
Mo-rơ (thế kỷ XVI); "Thành phố Mặt trời" của Campanenla (thế kỷ XVII) và mô hình "Công
xưởng Niulanác" của Ô-Oen (thế kỷ XIX). Trong các mô hình này cũng như trong tư tưởng của
một số nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa, một xã hội tương lai tốt đẹp đã được phác họa, ở đó có:


chế độ sở hữu chung (công cộng); phân phối công bằng (có lợi cho đa số); ai cũng phải lao
động và mọi dạng lao động được coi trọng như nhau; không có sự khác biệt giữa thành thị và
nông thôn; trẻ em được giáo dục miễn phí, phụ nữ được giải phóng; không có chiến tranh; nhà
nước sẽ đi tới tiêu vong...
Ph.Ăngghen cho rằng, mặc dù những phác họa của các nhà tư tưởng này còn đầy chất ảo
tưởng, nhưng đây là những dự đoán hết sức thiên tài, là những hạt ngọc lấp lánh mà sau này các
nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa có chọn lọc khi các ông xây dựng mô hình
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản tương lai.
3) Góp phần thức tỉnh quần chúng nhân dân lao động đấu tranh chống áp bức, bất
công và xây dựng xã hội mới tốt đẹp:
Trong một giai đoạn lịch sử tương đối dài, với những tư tưởng tiến bộ và bằng những
hoạt động của mình, các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác đã góp phần thức tỉnh tinh
thần đấu tranh của quần chúng lao khổ và thúc đẩy lịch sử tiến lên không chỉ về mặt lý luận mà

còn về cải tạo xã hội. Do đó, chủ nghĩa xã hội trước Mác có giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc.
Một số nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã hy sinh địa vị xuất thân, tiền bạc, thậm chí bằng cả
tính mạng nhằm thay đổi chế độ xã hội cũ, góp phần nhằm giải phóng quần chúng lao động và
đấu tranh giành quyền bình đẳng cho họ.
4) Là tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học:
Với các giá trị nêu trên, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác, nhất là tư tưởng xã hội
chủ nghĩa đầu thế kỷ XIX của Xanh Xi-mông, Phu-riê và Ô-Oen được C.Mác và Ph.Ăngghen
thừa nhận là một trong ba nguồn gốc lý luận của học thuyết mà các ông xây dựng - học thuyết
Mác - Lênin và là tiền đề tư tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Lênin đã viết: "Chủ nghĩa xã hội lý luận Đức sẽ không bao giờ quên rằng nó đứng trên
vai của Xanh Xi-mông, Phu-riê và Ô-Oen - mặc dù học thuyết của ba ông còn đầy tính chất ảo
tưởng và không tưởng- đã được liệt vào hàng những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của tất cả các thời
đại, và đã dự kiến một cách tài tình được rất nhiều chân lý mà ngày hôm nay chúng ta đem khoa
học ra chứng minh đều thấy là đúng"1.
11 V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1975, T.6, tr.33 (tiếng Việt)


Câu 5: Vì sao tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ này gọi là chủ nghĩa không tưởng?
Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ này gọi là chủ nghĩa xã hội không tưởng, bởi vì:
1) Chưa tìm ra được quy luật vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người và quy
luật vận động của chủ nghĩa tư bản
Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác phê phán chủ nghĩa tư bản đã gây ra tình
trạng bất công, nhưng họ chưa khám phá ra bản chất và quy luật vận động của xã hội tư bản;
không giải thích đúng được nguyên nhân chủ yếu dẫn tới cảnh bất công, nghèo đói... Tất cả tình
trạng đó là do chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa tạo ra (trừ Rô-bớt Ô-Oen).
2) Chưa chỉ ra được lực lượng xã hội nào có thể thay thế giai cấp tư sản trở thành chủ
thể của xã hội tương lai.
Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác chưa phát hiện được lực lượng xã hội đang
phát triển trong lòng xã hội tư bản, có lợi ích mâu thuẫn đối kháng với lợi ích của giai cấp tư
sản, có khả năng cải tạo xã hội bất công để xây dựng một xã hội mới không còn áp bức, bóc lột,

bất công, tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản - đó là giai cấp vô sản.
3) Chưa đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, nhân dân lao động nên chưa
tìm ra được con đường giải phóng quần chúng lao động, xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn
- Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác chưa ai tự đặt mình là người đại diện cho
quyền lợi của giai cấp vô sản và quần chúng lao động nghèo khổ và đấu tranh giải phóng họ.
Các nhà không tưởng luôn đứng trên lập trường của giai cấp, tầng lớp trên (quý tộc, tư sản),
đứng ngoài xã hội để mưu cầu giải phóng toàn xã hội. Họ không gắn học thuyết của mình với
phong trào đấu tranh của quần chúng.
- Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác đứng trên quan điểm duy tâm để cải tạo
xã hội. Họ muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp nhưng bằng con đường cải cách dần dần, bằng
giáo dục, bằng thực nghiệm, bằng cảm hoá giai cấp tư sản và tầng lớp trên của xã hội chứ
không phải bằng con đường đấu tranh giai cấp và cải biến cách mạng. Đó là "con đường cải
lương nửa vời" và không tưởng.
Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác không thể tự giải thoát mình khỏi vòng
không tưởng. Ngay cả những luận điểm đúng đắn nhất do các nhà không tưởng nêu ra cũng mới


chỉ là những dự đoán, chưa được luận chứng bởi một cơ sở khoa học và thực tiễn. Sự diệt vong
của xã hội cũ, sự ra đời của xã hội mới vẫn chỉ là những giấc mơ mang tính viển vông, những
mong muốn chủ quan của con người, chưa có điều kiện vật chất khách quan, do đó nó đều thất
bại khi đưa vào thực tế.
Tóm lại, Chủ nghĩa xã hội không tưởng là những lý luận, những học thuyết biểu hiện
dưới dạng chưa chín muồi nguyện vọng của quần chúng mong muốn xoá bỏ chế độ áp bức bóc
lột, tình trạng bất công trong xã hội, mong muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp, ở đó không còn
tình trạng đói khổ của những người lao động, mong có một xã hội tốt đẹp mà quan hệ giữa
người và người là quan hệ hữu ái, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Tuy nhiên, những mong muốn,
nguyện vọng, những dự án tốt đẹp đó không dựa vào điều kiện thực tiễn khách quan mà nảy
sinh từ đầu óc, từ những mong muốn chủ quan của một số người, vì vậy không thực hiện được
trong thực tế và nó trở thành ảo tưởng, không tưởng.
V.I.Lênin khẳng định: Chủ nghĩa xã hội không tưởng không thể vạch ra được một lối

thoát thực sự. Nó không giải thích được bản chất của chế độ nô lệ làm thuê trong chủ nghĩa tư
bản, cũng không phát hiện ra được những quy luật phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa và
cũng không tìm thấy được lực lượng xã hội có khả năng trở thành người sáng tạo xã hội mới1.

Câu 6: Vì sao nói chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán đầu thế kỷ XIX là một
trong những nguồn gốc lý luận trực tiếp cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học của
C.Mác và Ph.Ăngghen ?
Chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán đầu thế kỷ XIX là một trong những nguồn gốc lý
luận trực tiếp cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học của C.Mác và Ph,Ăngghen (cùng với
Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị cổ điển Anh đầu thế kỷ XIX) bởi vì chủ nghĩa xã hội
không tưởng phê phán thời kỳ này đã có những đóng góp to lớn về mặt lý luận, trở thành những
giá trị lý luận. Mặc dù còn nhiều ảo tưởng, nhưng đây là những tiền đề, cơ sở quan trọng để
C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng học thuyết khoa học của hai ông.
Những đóng góp (hay còn gọi là những giá trị) của chủ nghĩa xã hội không tưởng thời kỳ
này thể hiện:
11 V.I.Lênin, Toàn tập, NXB. Tiến bộ, M. 1974, T.23, tr.56 (Tiếng Việt)


1) Lên án, phê phán chủ nghĩa tư bản đầu thế kỷ XIX một cách khá toàn diện và sâu
sắc:
Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ này đã lên án, phê phán chủ nghĩa tư bản một
cách sâu sắc và toàn diện từ đó bênh vực những người lao động nghèo khổ trước tình trạng bị
đối xử bất công và bị áp bức trong xã hội. Dưới con mắt quan sát của các nhà tư tưởng xã hội
chủ nghĩa đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản hiện ra với đầy biến động do sự cạnh tranh vô
chính phủ dẫn đến các cuộc xung đột mà hậu quả là của cải xã hội bị khánh kiệt, đạo đức xã hội
bị băng hoại. Theo các ông, xã hội tư bản chủ nghĩa thực sự là một "bức tranh lộn ngược"
(Xanh Xi-mông), hay "xã hội vô chính phủ trong công nghiệp" (Phu-riê) (thế kỷ XIX). Không
những thế, các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ này còn lên án đạo đức tư sản và hôn nhân
tư sản và tổ chức Giáo hội (Xanh Xi-mông, Phu-riê). Riêng đối với Rô-bớt Ô-Oen, ông còn phê
phán sâu sắc chế độ tư hữu. Theo các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa dầu thế kỷ XIX, xã hội tư

bản cần phải loại bỏ và thay thế bằng một xã hội khác tốt đẹp hơn.
Việc phân tích, mổ xẻ phê phán xã hội tư bản chủ nghĩa của ba nhà tư tưởng xã hội chủ
nghĩa đầu thế kỷ XIX trở thành nguồn tư liệu quí giá giúp cho các nhà kinh điển của chủ nghĩa
xã hội khoa học kế thừa và phát triển trong quá trình xây dựng học thuyết cách mạng và khoa
học của mình. C.Mác viết: "Trong những trước tác xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa đó
cũng có những yếu tố phê phán. Những trước tác ấy đả kích tận cơ sở của xã hội đương thời. Do
đó, chúng đã cung cấp được, trong thời kỳ ấy, những tài liệu rất có giá trị để soi sáng ý thức của
công nhân".
2) Quan điểm xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn so với xã hội đương thời:
Khi nghiên cứu xã hội tư bản chủ nghĩa đầu thế kỷ XIX, các ông đã tiên đoán về sự sụp
đổ tất yếu của trật tự tư sản và khẳng định một xã hội mới công bằng hơn sẽ được thực hiện. Từ
đó các ông đã phác thảo ra những mô hình xã hội mới tốt đẹp hơn xã hội đương thời mà các ông
gọi là những Phalănggiơ (Phu-riê) hay mô hình công xưởng Niulanác (Rô-bớt Ô-Oen) ở đó có:
chế độ sở hữu chung (công cộng); thực hiện phân phối công bằng (có lợi cho đa số); ai cũng
phải lao động và mọi dạng lao động đều được coi trọng như nhau; không có sự khác biệt giữa
thành thị và nông thôn; trẻ em được giáo dục miễn phí, phụ nữ được giải phóng; không có
chiến tranh; nhà nước sẽ đi tới tiêu vong ; sự tiến bộ của công nghiệp, kỹ thuật và máy móc...


Ph.Ăngghen cho rằng, mặc dù những phác họa của các nhà tư tưởng này còn đầy chất ảo
tưởng, nhưng đây là những dự đoán hết sức thiên tài và là những hạt ngọc lấp lánh mà sau này
các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa có chọn lọc khi các ông xây dựng mô
hình chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản tương lai.
3) Góp phần thức tỉnh tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động chống
lại giai cấp thống trị bóc lột và xây dựng xã hội mới tốt đẹp:
Trong một giai đoạn lịch sử nhất định, với những tư tưởng tiến bộ và bằng những hoạt
động của mình, ba nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa đầu thế kỷ XIX đã góp phần thức tỉnh tinh
thần đấu tranh của quần chúng lao khổ chống lại giai cấp thống trị bóc lột. Các ông đã chấp
nhận những hy sinh mất mát to lớn về danh vọng, địa vị, tiền của để đấu tranh vì nhân loại cần
lao. Với những đóng góp to lớan của mình, các ông thực sự là những nhà cách mạng chân chính

của thế kỷ XIX.
Các tư tưởng xã hội chủ nghĩa đầu thế kỷ XIX còn thể hiện những giá trị nhân đạo, nhân
văn sâu sắc vượt ra khỏi giá trị nhân văn tư sản, bởi vì khi phê phán chủ nghĩa tư bản, các ông
đã đứng về phía nhân dân lao động, nói lên tiếng nói của những người lao khổ, bênh vực họ
trước tình trạng bị đối xử bất công. Do đó, chủ nghĩa nhân đạo đã bao trùm lên toàn bộ hệ thống
tư tưởng - lý luận của các ông.
Với những cống hiến nêu trên, học thuyết của các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa đầu thế
kỷ XIX (Xanh Xi-mông, Phu-riê và Ô-Oen) trở thành một trong ba nguồn gốc tư tưởng - lý
luận trực tiếp cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Với tất cả những cố gắng và những cống hiến to lớn của họ, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
đánh giá cao những tư tưởng của ba nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng thế kỷ XIX và đòi hỏi
hậu thế phải có thái độ trân trọng đối với những nhân tố tích cực của di sản văn hóa nhân loại,
từ đó biết kế thừa có chọn lọc, bổ sung và phát triển các giá trị truyền thống nhằm phục vụ cho
những yêu cầu phát triển của cuộc sống.

Câu 7: Những điều kiện, tiền đề kinh tế, chính trị xã hội, văn hóa tư tưởng cho
sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học?


Chủ nghĩa xã hội khoa học do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập vào giữa những năm 40
của thế kỷ XIX dựa trên những điều kiện khách quan sau đây:
1) Điều kiện kinh tế:
+ Đến gần giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở một số nước châu Âu đã đạt được những
bước tiến rất quan trọng. Cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ làm cho cuộc cách mạng công nghiệp ở nước Anh về
cơ bản đã hoàn thành và bắt đầu phát triển sang một số nước khác (Pháp, Đức).
+ Cách mạng công nghiệp phát triển đã tạo ra một lực lượng sản xuất mới, đó là nền đại
công nghiệp. Nó thúc đẩy nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ cả về năng suất lao
động, kinh nghiệm quản lý và kinh tế thị trường. Nhờ đó, chỉ trong vòng một trăm năm, từ khi
xuất hiện, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra khối lượng của cải khổng lồ bằng cả quãng thời gian trước

đó loài người tích luỹ được (C.Mác). Đây chính là điều kiện vật chất, kinh tế quan trọng thúc
đẩy xã hội loài người phát triển lên nấc thang cao hơn chủ nghĩa tư bản. Mặt khác, lực lượng
sản xuất (đại công nghiệp) không ngừng phát triển và ngày càng có tính chất xã hội hoá cao dẫn
tới mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất. Để giải quyết mâu thuẫn này cần phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ (tư bản
chủ nghĩa), bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: Đại công nghiệp ra đời đã phá sập ngay dưới chân giai cấp
tư sản cái nền tảng mà nó đã dựng nên là chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
2) Điều kiện chính trị xã hội:
+ Cách mạng công nghiệp cũng đồng thời tạo ra một lực lượng xã hội mới, đó là giai cấp
vô sản (giai cấp công nhân). Giai cấp vô sản từ khi ra đời đã bị giai cấp tư sản bóc lột nặng nề
và bị bần cùng nên đã dẫn tới mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản ngày càng trở
lên gay gắt, biểu hiện thành những biến động chính trị lớn (Phong trào Hiến chương ở nước
Anh: 1838 - 1848; phong trào đấu tranh của công nhân dệt thành phố Lyông (Pháp): 1831 1834; phong trào đấu tranh của công nhân dệt thành phố Xilêdi (Đức): 1844). Sự xuất hiện các
phong trào công nhân đã cho C.Mác và Ph.Ăngghen có cơ sở thực tiễn khẳng định: giai cấp vô
sản đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, có khả năng trở thành lực lượng xã hội quan
trọng, có vai trò cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên, các phong trào nêu trên


đều thất bại mà nguyên nhân chủ yếu của nó, sau này được C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ là do
chưa có một lý luận cách mạng dẫn đường, chưa chỉ ra được mục tiêu của cuộc đấu tranh, chưa
có con đường, biện pháp đấu tranh đúng đắn.
Nghiên cứu thực tiễn phong trào đấu tranh và nhất là sự thất bại của nó, CMác và
Ph.Ăngghen nhận thấy rằng, muốn cho phong trào công nhân giành được thắng lợi phải có lý
luận cách mạng soi đường. Vì vậy, hai ông đã tập trung nghiên cứu xây dựng học thuyết cho
phong trào công nhân, đó là lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học.
3) Tiền đề tư tưởng - lý luận:
+ Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ
thuật. Tiêu biểu là các phát minh lớn trên lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội
- Trên lĩnh vực khoa học tự nhiên: thời kỳ này đã xuất hiện Định luật bảo toàn và chuyển

hoá năng lượng; học thuyết tế bào và học thuyết tiến hoá. Sự ra đời của những phát minh này đã
giúp cho C.Mác và Ph.Ăngghen có cơ sở khoa học để vận dụng, nghiên cứu các hiện tượng xảy
ra trong lĩnh vực xã hội và quy luật vận động của xã hội. Trên cơ sở đó, hai ông xây dựng học
thuyết duy vật lịch sử của mình.
+ Trên lĩnh vực khoa học xã hội: thời kỳ này các lĩnh vực triết học, kinh tế chính trị học
và tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã phát triển rực rỡ. Tiêu biểu là Triết học cổ điển Đức với hai nhà
triết học nổi tiếng là Hêghen và Phoi-ơ-bắc; Kinh tế chính trị học cổ điển Anh với hai nhà tư
tưởng là A.Xmith và D.Ricácđô ; đặc biệt là lý luận chủ nghĩa xã hội không tưởng của Xanh Ximông, Phu-riê, Ô-Oen với những giá trị to lớn mà nó đã đạt được.
Như vậy, gắn liền với sự xuất hiện ở mức độ đầy đủ những tiền đề kinh tế - xã hội, chủ
nghĩa xã hội khoa học còn dựa trên sự chín muồi của các tiền đề văn hoá - tư tưởng. Đó là kết
quả của sự kế thừa những tinh hoa của trí tuệ loài người, phát triển qua các thời đại mà đầu thế
kỷ XIX đã đạt tới đỉnh cao.
Tóm lại: Sự xuất hiện những tiền đề nêu trên đã tạo ra những điều kiện kinh tế, chính trị
xã hội, văn hoá,- tư tưởng khách quan ở mức độ đầy đủ để chủ nghĩa xã hội thực sự trở thành
khoa học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng và được đánh dấu bằng sự ra đời của tác phẩm
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản tháng 2 năm 1848.


CMác và Ph.Ăngghen coi những điều kiện nêu trên là mảnh đất hiện thực, cơ sở hiện
thực để hai ông xây dựng học thuyết của mình.

Câu 8: Vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen trong việc phát triển chủ nghĩa xã hội từ
không tưởng đến khoa học ?
- C.Mác (1818 - 1883) và Ph.Ăngghen (1820 - 1895) là hai nhà triết học vĩ đại của nhân
loại, là lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân quốc tế, đã cống hiến toàn bộ cuộc đời của mình
cho sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và những người lao động bị áp bức trên toàn thế
giới. Hai ông đã xây dựng học thuyết khoa học, cách mạng cho giai cấp công nhân - học thuyết
chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Trong quá trình xây dựng học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, ở C.Mác, Ph.Ăngghen
đã có quá trình chuyển biến mạnh về lập trường, quan điểm: từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ

nghĩa duy vật; từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường xã hội chủ nghĩa (hai ông vốn
là học trò của Hêghen và xuất thân từ tầng lớp trên).
- Với sự uyên bác về trí tuệ, lòng nhiệt tình và trung thành với phong trào công nhân, hai
ông đã gặp nhau ở Paris vào năm 1841 và bắt đầu có những hoạt động chung cả về lý luận và
thực tiễn. Hai ông nhận thức đúng được quy luật phát triển của xã hội loài người, nhất là quy
luật vận động của chủ nghĩa tư bản; đồng thời hai ông đã phát hiện ra một lực lượng xã hội có
thể chuyển xã hội sang một giai đoạn mới. Vì vậy, hai ông đã làm một cuộc cách mạng vĩ đại
trong lịch sử loài người, trong quá trình ấy C.Mác và Ph.Ăngghen đã có những phát hiện lớn,
đóng góp đặc biệt quan trọng cho quá trình phát triển của xã hội loài người nói chung, quá trình
giải phóng quần chúng nhân dân lao động khỏi mọi áp bức bóc lột, bất công. Đó là:
1) Học thuyết duy vật lịch sử:
- CMác và Ph.Ăngghen cho rằng: "tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội", do đó, muốn
đi tìm nguyên nhân cơ bản của sự vận động và phát triển xã hội phải đi tìm nó trong lòng xã hội.
- C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ rằng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội loài người. Khi quan hệ sản xuất không phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản


xuất, đòi hỏi phải phá vỡ quan hệ sản xuất hiện tại và xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp
hơn. Sự phá vỡ này đã dẫn tới sự thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế
- xã hội khác phù hợp và tiến bộ hơn.
- Hai ông, đồng thời cũng chỉ rõ: mâu thuẫn cơ bản trong xã hội có giai cấp là mâu thuẫn
giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp là động lực để thúc đẩy xã hội phát triển.
Trong chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân gay gắt tất yếu sẽ
dẫn tới cuộc đấu tranh giai cấp và giai cấp nào đại diện cho phương thức sản xuất mới sẽ đóng
vai trò thống trị trong xã hội. Đó chính là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
2) Học thuyết giá trị thặng dư:
Vận dụng một cách sáng tạo những quan điểm duy vật về lịch sử vào việc phân tích nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi tới kết luận: việc giai cấp tư sản chiếm
đoạt phần lao động không được trả công của người vô sản làm thuê là hình thức cơ bản của

phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và của sự bóc lột công nhân do phương thức ấy đẻ ra.
Dù cho nhà tư bản có mua sức lao động của công nhân đúng với giá trị của nó chăng nữa thì
trên thực tế, nhà tư bản vẫn thu được nhiều giá trị hơn so với số tiền mà họ đã bỏ ra để mua sức
lao động của công nhân. Tổng số tiền này rút cuộc biến thành tư bản ngày càng lớn lên và thuộc
quyền sở hữu của nhà tư bản.
- Nhờ những phát kiến khoa học trọng đại này, CMác và Ph.Ăngghen có căn cứ vững
chắc để khẳng định rằng: mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa ngày càng phát triển được biểu hiện trong đời sống xã hội thành mâu thuẫn không thể
điều hoà giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Mâu thuẫn này nhất định sẽ dẫn đến kết cục
là lực lượng sản xuất do giai cấp công nhân là người đại biểu phải phá vỡ quan hệ sản xuất do
giai cấp tư sản bảo vệ. Giai cấp công nhân là lực lượng cách mạng được lịch sử giao phó sứ
mệnh là thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Làm sáng
tỏ sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là phát hiện lớn thứ ba của C.Mác và
Ph.Ăngghen.
Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học được C.Mác và Ph.Ăngghen trải nghiệm qua quá
trình hoạt động lý luận và thực tiễn, được phản ánh qua hàng loạt các tác phẩm của hai ông từ
1843 đến 1848 (Phê phán triết học pháp quyền Hêghen Lời nói đầu; Hệ tư tưởng Đức, Luận


cương về Phoi-ơ-bắc, Những nguyên lý cộng sản) và được đánh dấu bằng tác phẩm "Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản" 2/1848.

Câu 9: Làm rõ sự khác biệt giữa chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội
khoa học ?
Chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học là hai trong số các loại hình
tư tưởng xã hội chủ nghĩa của nhân loại. Tuy nhiên, hai loại hình tư tưởng xã hội chủ nghĩa này
có những điểm khác biệt căn bản về trình độ phát triển, được thể hiện cụ thể ở những điểm cơ
bản sau đây :
1) Chủ nghĩa xã hội không tưởng là tên gọi dòng tư tưởng xã hội chủ nghĩa của nhân loại
trước khi có sự ra đời của học thuyết Mác; nó bao gồm những lý luận, những học thuyết biểu

hiện dưới dạng chưa chín muồi nguyện vọng của quần chúng mong muốn xoá bỏ chế độ áp bức
bóc lột, tình trạng bất công trong xã hội, mong muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp, ở đó không
còn tình trạng đói khổ của những người lao động, mong có một xã hội tốt đẹp mà quan hệ giữa
người và người là quan hệ hữu ái, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Tuy nhiên, những mong muốn,
nguyện vọng, những dự án tốt đẹp đó không dựa vào điều kiện thực tiễn khách quan mà nảy
sinh từ đầu óc, từ những mong muốn chủ quan của một số người, vì vậy không thực hiện được
trong thực tế và nó trở thành ảo tưởng, không tưởng.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học gắn liền với tên tuổi của C.Mác và Ph.Ăngghen và là một
trong ba bộ phận hợp thành của chủ nghĩa Mác Lênin. Học thuyết xã hội chủ nghĩa do C.Mác
và Ph.Ăngghen sáng lập được gọi là khoa học bởi vì đó là một hệ thống lý luận được luận giải
một cách khoa học trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn lịch sử xã hội loài người,
từ đó tìm ra những cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn của tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Tính khoa
học thể hiện tập trung ở việc tìm ra những quy luật, tính quy luật của quá trình cách mạng xã
hội chủ nghĩa, giải phóng con người, giải phóng xã hội, từ đó loại trừ được những yếu tố không
tưởng và khắc phục được những hạn chế của các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng
trước đó.
2) Một số khác biệt cụ thể :


- Chủ nghĩa xã hội không tưởng chưa tìm ra được quy luật vận động, phát triển của lịch
sử xã hội loài người. Trong khi đó, chủ nghĩa xã hội khoa học do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng
lập đã chỉ rõ quy luật vận động của lịch sử xã hội loài người là trải qua 5 hình thái kinh tế - xã
hội kế tiếp nhau từ thấp đến cao với học thuyết chủ nghĩa duy vật lịch sử. (Xem câu 7)
- Chủ nghĩa xã hội không tưởng trước Mác phê phán gay gắt chủ nghĩa tư bản đã gây ra
tình trạng bất công, bất bình đẳng xã hội nhưng lại chưa khám phá ra bản chất và quy luật vận
động của xã hội tư bản. Trong khi đó, với sự ra đời của học thuyết giá trị thặng dư (xem câu 7),
chủ nghĩa xã hội khoa học do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập đã vạch trần những bí mật của
chủ nghĩa tư bản, nói cách khác, đã chỉ rõ quy luật vận động và phát triển của chủ nghĩa tư
bản.
- Mặc dù một số nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng đã chỉ ra nguồn gốc của dẫn

tới những bất bình đẳng xã hội - đó là do chế độ tư hữu tạo ra (chẳng hạn Tô-mát Mo-rơ ; Rôbớt Ô-Oen) song họ lại chưa giải thích được nguồn gốc ra đời của chế độ tư hữu, cũng như
không giải thích được chế độ tư hữu sẽ bị tiêu diệt trong những điều kiện nào.
Trong khi đó, trên cơ sở phân tích một cách khoa học lịch sử phát triển của xã hội loài
người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra nguồn gốc của chế độ tư hữu gắn liền với sự phát triển
sản xuất của loài người (xem tác phẩm : "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
Nhà nước" C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, tập 21, từ tr.41 265).
- Mặc dù chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán gay gắt chủ nghĩa tư bản và đòi phải
xóa bỏ chủ nghĩa tư bản (đặc biệt là tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng phê phán thế kỷ
XIX), song các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng cũng chưa chỉ ra được lực lượng xã
hội nào có thể thay thế giai cấp tư sản trở thành chủ thể của xã hội tương lai.
Trong khi đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện ra lực lượng xã hội đang phát triển
trong lòng xã hội tư bản, có lợi ích mâu thuẫn đối kháng với lợi ích của giai cấp tư sản, có khả
năng cải tạo xã hội bất công để xây dựng một xã hội mới không còn áp bức, bóc lột, bất công,
tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản - đó chính là giai cấp vô sản với sứ mệnh lịch sử là đấu tranh để
tiến tới xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và mọi chế độ áp bức, bóc lột để xây dựng xã hội mới tốt đẹp xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.


- Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng đứng trên quan điểm duy tâm để cải tạo
xã hội. Họ muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp nhưng bằng con đường hòa bình, cải cách dần
dần, bằng giáo dục, bằng thực nghiệm, bằng cảm hoá giai cấp tư sản và tầng lớp trên của xã hội
chứ không phải bằng con đường đấu tranh giai cấp và cải biến cách mạng. Đó là "con đường cải
lương nửa vời" và không tưởng. Do vậy, họ không thể tự giải thoát mình khỏi vòng không
tưởng. Ngay cả những luận điểm đúng đắn nhất của chủ nghĩa xã hội không tưởng nêu ra cũng
mới chỉ là những dự đoán, chưa được luận chứng bởi một cơ sở khoa học và thực tiễn. Sự diệt
vong của xã hội cũ, sự ra đời của xã hội mới vẫn chỉ là những giấc mơ mang tính viển vông,
những mong muốn chủ quan của con người, chưa có điều kiện vật chất khách quan, do đó nó
đều thất bại khi đưa vào thực tế.
V.I.Lênin khẳng định: Chủ nghĩa xã hội không tưởng không thể vạch ra được một lối
thoát thực sự. Nó không giải thích được bản chất của chế độ nô lệ làm thuê trong chủ nghĩa tư
bản, cũng không phát hiện ra được những quy luật phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa và

cũng không tìm thấy được lực lượng xã hội có khả năng trở thành người sáng tạo xã hội mới1.
Trong khi đó, với hệ thống học thuyết khoa học của mình, trong đó có chủ nghĩa xã hội
khoa học, C.Mác và Ph.Ăngghen, sau này là V.I.Lênin đã chỉ rõ con đường hiện thực dựa vào
khoa học để thủ tiêu tình trạng người bóc lột người và đưa ra một tổ chức xã hội mới - xã hội xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

Câu 10: Trình bày khái niệm Chủ nghĩa xã hội khoa học? Đối tượng và ý nghĩa
nghiên cứu của chủ nghĩa xã hội khoa học ?
1) Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học:
- Chủ nghĩa xã hội khoa học là một bộ phận tư tưởng - lý luận nằm trong lịch sử tư tưởng
xã hội chủ nghĩa và văn minh nhân loại, là kết quả của sự kế thừa và phát triển các kho tàng tư
tưởng văn minh nhân loại trên nhiều lĩnh vực (văn học, lịch sử, triết học, kinh tế học, chính trị
học, xã hội học, dân tộc học, tôn giáo học; các khoa học tự nhiên v.v).

11 V.I.Lênin, Toàn tập, NXB. Tiến bộ, M. 1974, T.23, tr.56 (Tiếng Việt)


Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba phận hợp thành của chủ nghĩa Mác Lênin
(Triết học Mác Lênin, Kinh tế chính trị học Mác - Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học). Với
tư cách là hệ thống lý luận chính trị xã hội của chủ nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa
học là khoa học phản ánh và nghiên cứu cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, là cơ
sở định ra đường lối chính sách trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học là những quy luật chính trị xã hội khách quan
trong quá trình đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, là những quy luật cải tạo và xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
2) Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa xã hội khoa học:
Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những qui luật và tính qui luật chính trị - xã hội
của quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản;
nghiên cứu con đường, biện pháp để thực hiện thắng lợi vai trò sứ lệnh lịch sử của giai cấp công
nhân; đồng thời nghiên cứu vai trò chủ quan của giai cấp này trong quá trình vận dụng những

quy luật khách quan để hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình nhằm giải phóng con
người, giải phóng xã hội khỏi chế độ tư hữu, áp bức bóc lột, bất công và nghèo nàn lạc hậu.
Những phạm trù cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học bao gồm: sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân gắn liền với Đảng Cộng sản; cách mạng xã hội chủ nghĩa; hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa; chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa;
liên minh công -nông - trí thức; dân tộc; tôn giáo; gia đình; con người trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội gắn với lịch sử và thực tiễn mỗi nước, gắn với đặc điểm, xu thế, nội
dung và tính chất của thời đại hiện nay.
3) Ý nghĩa của việc nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học:
- Nghiên cứu môn chủ nghĩa xã hội khoa học giúp chúng ta thấy được tính khoa học, cách
mạng của chủ nghĩa Mác Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng. Nó khoa học
bởi vì nó đã tìm ra con đường để giải phóng xã hội loài người khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công
bằng việc khẳng định: giai cấp công nhân phải giành lấy chính quyền, sử dụng chính quyền đó
để tổ chức xây dựng một xã hội tương lai ấm no, hạnh phúc cho nhân dân lao động, và rằng, xã
hội tương lai đó chỉ có thể tồn tại được trên một nền sản xuất đại công nghiệp.


- Nghiên cứu môn chủ nghĩa xã hội khoa học giúp cho chúng ta tin tưởng vào thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Hiện nay, những
biến động sâu sắc của thế giới nói chung và của hệ thống xã hội chủ nghĩa nói riêng đã khiến
cho không ít người hoang mang, dao động, hoài nghi vào tính khoa học, cách mạng của chủ
nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học, đòi xét lại chủ nghĩa Mác Lênin Do đó, việc
nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ củng cố niềm tin vào tính khoa học và cách mạng của
học thuyết này. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu sụp đổ không có nghĩa là chủ nghĩa xã
hội sụp đổ; mặt khác chủ nghĩa xã hội ở các nước nêu trên sụp đổ không phải do chủ nghĩa Mác
Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học đã lỗi thời, không tưởng như một số người nêu ra, mà chính
là do việc vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cách mạng của
các nước này đã vi phạm những sai lầm nghiêm trọng (duy ý chí, đốt cháy giai đoạn, nóng
vội) cũng như âm mưu phá hoại của một số kẻ phản bội và cơ hội. Do vậy, nghiên cứu chủ
nghĩa xã hội khoa học càng giúp cho chúng ta thấy được những khiếm khuyết, thiếu sót để có

thể tránh được trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học giúp cho chúng ta có căn cứ để khẳng định con
đường cách mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân ta lựa
chọn là đúng đắn và tất yếu sẽ đi tới thắng lợi. Đó là con đường duy nhất có cơ sở thực tiễn,
khách quan và phù hợp về cả lý luận và thực tiễn để Đảng và nhân dân ta lựa chọn nếu nhân dân
Việt Nam mong muốn xây dựng một xã hội không còn áp bức, bất công, có cuộc sống tự do,
hạnh phúc. Nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ giúp cho chúng ta lựa chọn những bước
đi, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện khách quan của Việt Nam và có
như vậy mới giành được thắng lợi. Nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học một cách nghiêm túc,
sẽ có lập trường chính trị và nhận thức khoa học vững vàng để vừa góp phần xây dựng, bảo vệ
tổ quốc, vừa chủ động chống lại mọi âm mưu của kẻ thù và những tiêu cực của xã hội.

Câu 11: Khái niệm giai cấp công nhân và những đặc điểm cơ bản của nó ? Những
biểu hiện mới của giai cấp công nhân hiện nay ?
1) Khái niệm giai cấp công nhân: