Vì sao khổng tử chủ trương sử dụng đạo đức để làm đường lối trị nước

Mục lục

Tên gọi

Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu [孔丘], tự Trọng Ni [仲尼].[5] Cách gọi "Khổng Tử" hay "Khổng Phu Tử" đều mang nghĩa là "thầy giáo Khổng", là một cách gọi tôn trọng. Khi dịch sách Trung Hoa sang ngôn ngữ Tây phương, các tu sĩ dòng Tên đã chuyển âm Kǒng fūzǐ [Khổng Phu Tử] thành Confucius.[6]

Thụy hiệu: Bao thành tuyên Ni công [褒成宣尼公; năm 1 triều Hán Bình Đế], Văn Tuyên vương [文宣王; năm 739 triều Đường Huyền Tông], Đại thánh Văn Tuyên vương [大聖文宣王, năm 1008 triều Tống Chân Tông], Chí thánh tiên sư [至聖先師; năm 1560 triều Minh Thế Tông], Đại thành chí thánh Văn Tuyên vương Thánh sư [大成至聖文宣王聖師; năm 1645 triều Thanh Thế Tổ].[7]

Dòng dõi

Theo ghi chép trong gia phả họ Khổng, Khổng Tử thuộc dòng dõi quý tộc nước Tống, là hậu duệ của các quân chủ nhà Thương.[8][9][10][11] Đầu thời nhà Chu, Chu công theo lệnh Chu Thành vương đã ban cho con trai cả của Đế Ất là Vi Tử Khải vùng đất Thương Khâu, lập ra nước Tống.[12] Sau khi Vi Tử Khải qua đời, em trai là Vi Trọng lên ngối ngôi. Vi Trọng chính là tổ tiên 14 đời của Khổng Tử.[13]

Tổ tiên 6 đời của Khổng Tử vốn tên Tử Gia [姓嘉], tự Khổng Phụ [孔父], sử sách thường gọi là Khổng Phụ Gia [孔父嘉], là hậu duệ đời thứ 6 của Tử Cung, vị quân chủ thứ 5 của nước Tống.[14] Khổng Phụ vốn là đại phu nước Tống thời Xuân Thu, từng làm đến chức Đại tư mã dưới triều Tống Thương công, được ban thái ấp ở Lật ấp.[15] Cung đình xảy ra nội loạn, Khổng Phụ bị Thái tể Hoa Đốc giết chết,[a] con trai lánh đến nước lỗ.[17] Về sau, cha Khổng Tử là Thúc Lương Hột [hay Khổng Hột[zh; en]] định cư tại Tưu ấp [nay là thành phố Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông], nhậm chức Đại phu Tưu ấp.[18]

Người vợ cả đầu tiên của Thúc Lương Hột là Thi thị [施氏], sinh cho Hột 9 người con gái. Vì quá mong con trai mà Thúc Lương Hột đã nạp một người thiếp và sinh được người con trai tên Mạnh Bì [孟皮], nhưng người con trai này lại có tật ở chân.[19] Đến năm Thúc Lương Hột đã qua tuổi 70 thì cưới vợ lần thứ 3, Nhan thị lúc này mới 18 tuổi. Vì cuộc hôn nhân này không hợp hợp với lẽ thường mà bị người đời xưng là "dã hợp".[20] Về sau, Nhan thị sinh ra Khổng Tử. Theo Sử ký, Thúc Lương Hột và Nhan thị nhờ đến Ni Khâu mà sinh được Khổng Tử, vì vậy đã đặt tên con trai là Khâu, lấy tự là Ni.[b][21]

Xem thêm

  • Văn miếu
  • Khổng Thánh miếu
  • Khổng Tử gia ngữ
  • Học viện Khổng Tử
  • Phê Lâm phê Khổng vận động

Chú thích

Ghi chú

  1. ^ Nhiều câu chuyện ghi chép rằng Hoa Đốc ao ước vợ Khổng Phụ xinh đẹp, giết Khổng Phụ rồi cướp vợ.[16]
  2. ^ "Trọng" trong "Trọng Ni", tên tự đầy đủ của Khổng Tử, mang nghĩa thứ bậc trong gia đình, ý chỉ người con trai thứ.

Tham khảo

  1. ^ Hugan, Yong [2013]. Confucius: A Guide for the Perplexed. A&C Black. tr.3. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2017.
  2. ^ Creel 1949, 25Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFCreel1949 [trợ giúp]
  3. ^ “The Life and Significance of Confucius”. www.sjsu.edu. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2021.
  4. ^ “Confucianism”. World History Encyclopedia. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2020.
  5. ^ Hunter [2017], tr.50.Lỗi sfnp: không có mục tiêu: CITEREFHunter2017 [trợ giúp]
  6. ^ Nivison [1999], tr.752.Lỗi sfnp: không có mục tiêu: CITEREFNivison1999 [trợ giúp]
  7. ^ Đức Khổng tử, vietsciences.free.fr
  8. ^ Legge [1887], tr.259.
  9. ^ Yao [1997], tr.29.Lỗi sfnp: không có mục tiêu: CITEREFYao1997 [trợ giúp]
  10. ^ Yao [2000], tr.23.Lỗi sfnp: không có mục tiêu: CITEREFYao2000 [trợ giúp]
  11. ^ Rainey [2010], tr.66.Lỗi sfnp: không có mục tiêu: CITEREFRainey2010 [trợ giúp]
  12. ^ Cơ Truyện Đông, Uông Thừa Hưng & Dương Tuệ Mẫn [2015], tr.204.Lỗi sfnp: không có mục tiêu: CITEREFCơ_Truyện_ĐôngUông_Thừa_HưngDương_Tuệ_Mẫn2015 [trợ giúp]
  13. ^ Trương Tông Huấn & Lý Cảnh Minh [2003], tr.19.Lỗi sfnp: không có mục tiêu: CITEREFTrương_Tông_HuấnLý_Cảnh_Minh2003 [trợ giúp]
  14. ^ Đạm Bạc [2006], tr.360.Lỗi sfnp: không có mục tiêu: CITEREFĐạm_Bạc2006 [trợ giúp]
  15. ^ Lý Vĩnh Điền [2020], tr.117.Lỗi sfnp: không có mục tiêu: CITEREFLý_Vĩnh_Điền2020 [trợ giúp]
  16. ^ Lưu Hướng [1996], tr.357.Lỗi sfnp: không có mục tiêu: CITEREFLưu_Hướng1996 [trợ giúp]
  17. ^ Trương Tông Huấn & Lý Cảnh Minh [2003], tr.26.Lỗi sfnp: không có mục tiêu: CITEREFTrương_Tông_HuấnLý_Cảnh_Minh2003 [trợ giúp]
  18. ^ Lý Vĩnh Điền [2020], tr.118.Lỗi sfnp: không có mục tiêu: CITEREFLý_Vĩnh_Điền2020 [trợ giúp]
  19. ^ Trương Hoa [1997], tr.294.Lỗi sfnp: không có mục tiêu: CITEREFTrương_Hoa1997 [trợ giúp]
  20. ^ Vu Vĩnh Xương & Dương Hòe [2015], tr.20.Lỗi sfnp: không có mục tiêu: CITEREFVu_Vĩnh_XươngDương_Hòe2015 [trợ giúp]
  21. ^ Quốc Quang Hồng [2015], tr.25.Lỗi sfnp: không có mục tiêu: CITEREFQuốc_Quang_Hồng2015 [trợ giúp]

Khổng Tử - Ông là ai?

Chụp lại hình ảnh,

Tư tưởng của Khổng Tử đang được Trung Quốc cổ vũ

Khổng Tử [tên chữ là Trung Ni] sinh ở Ấp Trâu, nước Lỗ vào năm 551 trước Công Nguyên, thời Xuân Thu và mất năm 479 cũng tại nước Lỗ, thọ 73 tuổi. Khổng Tử mồ côi cha từ năm 2 tuổi.

Hồi nhỏ ông rất chăm học và thích chơi trò tế lễ [!], ông là người đầu tiên ở Trung Hoa đã mở trường dạy tư và năm 30 tuổi đã có hàng trăm học trò, tiếng tăm của ông lừng lẫy khắp các nước chư hầu thời đó.

Chu du thiên hạ

Năm ông 51 tuổi, vua nước Lỗ là Định Công đã vời ông ra làm quan và phong cho chức Trung-Đô-Tể tức chức quan nắm quyền cai trị "Thủ đô" nước Lỗ, một năm sau ông được thăng lên chức Tư Không [Công chánh] rồi kiêm luôn chức Đại-Tư-Khấu [như bộ trưởng tư pháp]. Trong thời gian này, Khổng Tử có phò vua Lỗ đi "Hội nghị" để bàn về giao hảo giữa vua Lỗ và vua Tề ở Hiệp Cốc và vua Tề đã thất bại trong âm mưu định hại vua Lỗ [đánh úp] nhờ có sự tài ba sáng suất của Khổng Tử.

Khổng Tử sau đó lên đến chức Tướng Quốc [tức Thủ Tướng] nước Lỗ. Ông sửa sang chính trị và làm cho nước Lỗ trở nên cường thịnh trong 72 nước chư hầu thời đó. Để hại nước Lỗ vua Tề là Tề Cảnh Công đã đem "tặng" vua Lỗ một đoàn nữ nhạc với 80 vũ nữ đẹp như tiên nữ chốn Bông Lai. Từ đó vua Lỗ mải mê với các người đẹp mà bỏ bê chính sự. Khổng tử can ngăn vua không được ông đã bỏ Lỗ cùng học trò đi chu du thiên hạ, lúc đó ông đã 56 tuổi, 13 năm đi thuyết giáo qua hàng chục nước chư hầu, nhưng không được vua nào trọng dụng, có lúc lâm vào cảnh đói rét nên cuồi cùng Khổng Tử trở lại về nước Lỗ, lúc đó ông đã 68 tuổi[!].

Trong truyện Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu nước ta có đoạn viết: "Thương là thương Đức Thánh nhân, Khi nơi Tống Vệ, lúc Trần lúc Khuông..."

Chính là nói về đoạn đời long đong ấy của Khổng Tử. Thánh nhân ở đây chính là Khổng Tử. Ngay từ thời đó cũng như các thế hệ sau này đều phong Khổng Tử là bậc thánh nhân vì đức độ và tài năng học thức uyên bác của ông.

Năm năm cuối đời, Khổng Tử dành để san định [biên soạn] trước thuật 6 bộ sách nổi tiếng sau này đó là: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Nhạc, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu: Ông nói ta chỉ thuật lại mà thôi, chớ ta có tác tạo gì được. Ta tin tưởng và hâm mộ đạo đức của người xưa ... [theo sách Truyện Đức Khổng Tử của Đoàn Trung Còn. NXB VHTT 1996].

Tư tưởng

Không biết bao nhiêu bút mực đã đổ ra 25 thế kỷ qua để nghiên cứu về Khổng giáo, về tư tưởng của Khổng Tử. Cũng có học giả như học giả Pháp Etiemble, trong cuốn Confucius 1966 thì cho rằng nghiên cứu Khổng Tử chỉ nên dựa vào sách Luận - ngữ là bộ sách ghi lại những lời đối đáp của Khổng Tử với học trò, các sách khác không đáng tin cậy. Nhưng gì thì gì, loài người tiến bộ vẫn phải ghi nhận Khổng Tử là nhà giáo dục lớn nhất của mọi thời đại ngay thời bấy giờ ông có tới 3000 học trò và rất nhiều người trong số đó đã thành đạt. Về chính trị Khổng Tử chủ trương Đức trị.

Chụp lại hình ảnh,

Việt Nam nói sẽ cho mở Học viện Khổng Tử

Ông là người đầu tiên nói nhiều nhất đến tư cách của người cai trị [tức người quân tử], ông chủ trương vua sáng tôi hiền, vua ra vua, tôi ra tôi. Nhưng Khổng Từ là người không thích cách mạng, ông không tán thành bạo lực cách mạng để thay đổi thời thế, cho dù thời thế của bọn hôn quân bạo chúa! Đó là tính chất bảo thủ trong tư tưởng chính trị của Khổng Tử."Khổng Tử bỏ qua vấn đề pháp luật và thiết chế, từ chối mọi cải cách" [Nguyễn Khắc Viện]. Chính vì vậy mà từ đời Hán sau này trở đi Khổng Tử được các triều vua tôn lên hàng Đại Thánh, là ông Thánh của các ông Thánh là "vạn thế sư biểu" [ông thầy tiêu biểu của muôn đời] để lợi dụng học thuyết của ông, duy trì chế độ phong kiến bảo thủ trì trệ ở Trung Hoa cho mãi đến đầu thế kỷ 20!

Có thể nói trong lịch sử nhân loại, chưa có triết gia nào mà triết thuyết của người ấy lại được thiên hạ lợi dụng tâng bốc đến mây xanh hoặc phê phán đến không tiếc lời như học thuyết của Khổng Tử[!] Những kẻ muốn duy trì trật tự hiện tại thì tôn vinh Khổng Tử những kẻ muốn thay đổi trật tự hiện tại thì phê phán Khổng Tử. Đến nay có rất nhiều trường đại học ở Phương Tây mở khoa Khổng học để tiếp tục nghiên cứu về Khổng Tử. Đạo đức cao cả và lối sống chừng mực của Khổng Tử vẫn cần cho thế giới Phương Tây đang sống xa hoa và hủy hoại môi trường!

Hiện nay mộ Khổng Tử vẫn còn ở huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông Trung Quốc. Khổng Tử miếu hiện có khuôn viên đến 133.000m2, chủ thể của Khổng Tử miếu là Đại Thánh điện, nơi các vị Hoàng đế Trung Hoa đến thờ cúng Khổng Tử. Khổng tử miếu được xây từ đời nhà Tống đến thời Ung Chính thì được trùng tu lớn.

Ông còn một người cháu 77 đời là Khổng Đức thành sanh năm 1919 ở Bắc Kinh[?] Khổng Đức Thành đã từng qua Mĩ du học và năm 1946, đã lấy vợ. Có lẽ đến nay ông đã có con cháu để nối dòng thánh tộc!

Hồ Chí Minh nghĩ gì về Khổng Tử?

Nguồn hình ảnh, Getty

Chụp lại hình ảnh,

Cố lãnh đạo Việt Nam nói Khổng Tử có thể bị coi là "phản cách mạng"

Học viện Khổng Tử đã xuất hiện ở Việt Nam vào cuối năm 2014 giữa lúc một số trường đại học phương Tây quyết định chia tay với các trung tâm Khổng Tử vì lo ngại họ bị chính quyền Trung Quốc can thiệp thái quá.

Ông Nguyễn Đình Luận, Hiệu trưởng Đại học Hà Nội, nơi Học viện Khổng Tử được thành lập, nói học viện sẽ "thúc đẩy việc nghiên cứu, giảng dạy tiếng Trung Quốc, góp phần củng cố và phát triển quan hệ Việt - Trung", theo truyền thông trong nước.

Học viện được khai trương hồi cuối năm 2014 với sự tham gia của hai Ủy viên Bộ Chính Trị từ Việt Nam và Trung Quốc, các ông Nguyễn Thiện Nhân và Du Chính Thanh.

Trong quá trình tìm hiểu về các quan niệm về dân chủ ở Việt Nam cho Ngày Dân chủ của BBC vào 20/1, tôi tình cờ đọc về những nhận định của người sáng lập ra Việt Nam hiện đại, ông Hồ Chí Minh, về Khổng Tử cũng như Mạnh Tử, học trò của ông.

Các nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh nằm trong cuốn 'Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh' do Nhà xuất bản chính trị quốc gia đưa ra vào năm 2008.

05[99]/2016

Mục lục

  • 0.Dẫn nhập
  • 1.Những giá trị của học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại
  • 2.Ý nghĩa đương đại từ thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại
  • 3.Tài liệu tham khảo

Vấn đề "Đức trị" và "Pháp trị" trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

PGS.TS Nguyễn Xuân Trung

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta luôn quan tâm, chú trọng đến vấn đề xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”. Từ đây, tư duy lý luận của Đảng về Nhà nước pháp quyền đã được hoàn thiện thêm một bước. Những định hướng sâu sắc và toàn diện cùng những yêu cầu then chốt về vấn đề xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tạo cơ sở cho toàn bộ quá trình xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới. Bởi vậy, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần nhận thức và quán triệt một cách đầy đủ, sâu sắc tư tưởng nhân văn và cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, nhất là trong việc phát huy mối quan hệ biện chứng, thống nhất giữa “Đức trị” và “Pháp trị” Hồ Chí Minh, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền - tư tưởng nhân văn, ưu việt và tiến bộ

Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền được gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ đã hình thành từ thời cổ đại với những đại diện tiêu biểu là Xôcrat, Arixtốt, Xixêrôn và được các nhà tư tưởng chính trị và pháp lý tư bản như Giôn Lốccơ, Môngtexkiơ, I.Kant hay Hêghen tiếp tục hoàn thiện và phát triển. Đến nay, các học giả, các nhà nghiên cứu đều có chung một nhận định: Nhà nước pháp quyền không phải một kiểu nhà nước, mà là một cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Đó là nhà nước mà phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do pháp luật quy định và thừa nhận tính tối cao của pháp luật; bao hàm việc xác định rõ quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội, nhất là việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của con người.

Bằng thực tiễn nghiên cứu, trải nghiệm các phong trào cách mạng và quá trình hình thành, phát triển của nhiều nhà nước trên thế giới, trên nền tảng văn hóa truyền thống cùng lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản to lớn về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là sự vận dụng sáng tạo học thuyết về nhà nước của các nhà kinh điển Mác -Lênin; là tư tưởng về Nhà nước pháp quyền mang đậm dấu ấn cá nhân với tính chất nhân văn, ưu việt và tiến bộ hơn hẳn so với các nhà lý luận đi trước.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền có thể gói gọn trong 4 nội dung chủ yếu là:

Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền phải là nhà nước dân chủ, của dân, do dân và vì dân. Theo Hồ Chí Minh, vấn đề cơ bản của nhà nước là quyền lực thuộc về ai và phục vụ quyền lợi của ai. Vì thế, Người khẳng định trong Nhà nước pháp quyền, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Người cho rằng: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra”, “tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều thuộc về nhân dân”[1]. Quan điểm này được hình thành trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất dân chủ trong nhà nước và chủ thể quyền lực nhà nước phải thuộc về đa số; chỉ có nhà nước mà quyền lực thuộc về nhân dân thì nhà nước mới có thể quản lý được xã hội phù hợp với quy luật, phục vụ lợi ích nhân dân. Người căn dặn: “Chúng ta hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”[2]. Đó là một quan điểm thấm đẫm tinh thần nhân văn, nhân đạo của Hồ Chí Minh.

Thứ hai, Nhà nước pháp quyền phải là một nhà nước tôn trọng pháp luật, được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Thực tế, Hồ Chí Minh không dùng khái niệm “Nhà nước pháp quyền” mà gọi đó là “nhà nước kiểu mới” với nhận thức rất đầy đủ và nghiêm túc vai trò quan trọng của pháp luật trong quản lý, điều hành xã hội. Đó là một xã hội mà người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm, đồng thời có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Đây là quan niệm tiến bộ, rất phù hợp với xu thế phát triển đi lên của nhân loại và thời đại.

Thứ ba, Nhà nước pháp quyền kiểu mới phải là nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả; phải khắc phục được những căn bệnh cố hữu của các nhà nước kiểu cũ. Hồ Chí Minh quan niệm một nhà nước vững mạnh, có hiệu lực phải là một Nhà nước pháp quyền “mạnh mẽ và sáng suốt”. Người chỉ rõ: Nhà nước đó phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân, phải làm cho mọi người dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Để đạt được mục tiêu đó, bên cạnh việc xây dựng một thiết chế của nhà nước dân chủ, một trong những mối quan tâm của Người là đào tạo và bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ chính quyền đúng với bản chất của Nhà nước, với những tiêu chuẩn chặt chẽ, thấm nhuần tinh thần “nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đày tớ trung thành của nhân dân”[3]. Quan điểm này được kế thừa trên nền tảng tư tưởng Mác - Lênin về xây dựng bộ máy nhà nước chất lượng kiểu mẫu thật sự, song tỏ ra ưu việt hơn ở chỗ nó được cải biến phù hợp với con người, với phẩm chất và truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Bốn là, Nhà nước pháp quyền Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi. Hồ Chí Minh khẳng định bản chất giai cấp công nhân và nhấn mạnh tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc của Nhà nước kiểu mới là nền tảng để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ, đó là do tính chất Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân. Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội”[4]. Đây là sự kế thừa có phát triển nguyên tắc xây dựng nhà nước của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhà nước phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mọi hoạt động của nhà nước đều nhằm phục vụ lợi ích tối cao của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, Nhà nước phải phát huy dân chủ, phải làm cho việc thực hành dân chủ là công việc thường xuyên, tự giác trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội vì “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”[5].

Những quan điểm về Nhà nước pháp quyền, nhà nước kiểu mới của Hồ Chí Minh đến nay về cơ bản còn nguyên giá trị và là phương pháp luận quan trọng mà chúng ta cần nghiêm túc quán triệt để vận dụng sáng tạo, phù hợp vào điều kiện cụ thể của đất nước nhằm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

2. “Đức trị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là gốc rễ của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền

Xét về nguồn gốc, Đức trị là học thuyết chính trị do Khổng Tử [551- 479 tr.CN] khởi xướng, có nghĩa “Chính trị là đạo đức”. Các nhà Đức trị cho rằng: chính trị là sự tiếp tục của đạo đức và chủ trương đưa đạo đức trở thành đường lối chính trị. Đức trị là học thuyết của người quân tử, hàm ý người quân tử phải hội đủ Đức và Đạo, trong đó, Đạo là tu thân - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ; Đức là nhân - lễ - nghĩa - trí - tín.

Sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, thấm nhuần tư tưởng Nho giáo lấy “dân vi bang bản” [tức coi dân là gốc nước], “dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” [tức dân là quý nhất, thứ nhì là xã tắc, cuối cùng mới đến vua], Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong học thuyết “Đức trị” những yếu tố tích cực và tiếp nhận với tinh thần rộng mở, không định kiến, không cố chấp. Đồng thời, Người vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin để mở rộng và nâng tầm ý nghĩa của quan điểm “Đức trị” cho phù hợp với những yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam.

“Đức trị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền là một nhà nước: do Đảng chân chính và cách mạng lãnh đạo, một đảng là đạo đức, là văn minh, “Ngoài lợi ích của nhân dân và của giai cấp công nhân, Đảng ta không có lợi ích nào khác”[6]. Đồng thời, là nhà nước có những con người thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. “Đức trị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn mang hàm ý “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”; đồng thời ra sức nêu gương, tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên, cho nhân dân, để hình thành con người mới, phù hợp với xã hội mới.

Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước được thiết lập theo nguyên tắc “mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân”, đưa nhân dân lao động trở thành người chủ của xã hội. Ngay khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[7] nên “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”[8]. Đây là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng Việt Nam của Hồ Chủ tịch.

Thực tiễn cho thấy, nền chính trị mà Hồ Chí Minh xây dựng là một nền chính trị đạo đức. Đạo đức cao nhất mà Người đưa ra là “đạo đức cách mạng”. Mục tiêu mà suốt đời Người đeo đuổi, phấn đấu là: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[9]. Người cho rằng đạo đức là để phục vụ cho xã hội, cho nhân dân, cho sự nghiệp giải phóng loài người. Như vậy, tư tưởng đạo đức và tư tưởng về chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh không tách rời nhau mà thống nhất với nhau. Các phạm trù của học thuyết “Đức trị” đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và phát triển, thấm đượm bản chất giai cấp, tính nhân dân và tính chiến đấu để trở thành những phạm trù “Đạo đức cách mạng”. Nội dung của “Đạo đức cách mạng” Hồ Chí Minh có sự khác biệt về chất so với đạo đức phong kiến. Người khẳng định: “…Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người. Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”[10].

Người nêu rõ: “Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”[11]. Trong bài nói chuyện với Lớp bổ túc cán bộ quân sự Trung ương tổ chức tháng 10/1947, Người căn dặn: “Muốn có đạo đức cách mạng phải có 5 điều sau đây: Trí - Tín - Nhân - Dũng - Liêm”[12]. “Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục khoét dân, thì gọi là LIÊM, chữ liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp. Cũng như ngày xưa trung là trung với vua. Hiếu là hiếu với cha mẹ mình thôi. Ngày nay, nước ta là Dân chủ Cộng hoà, chữ LIÊM có nghĩa rộng hơn; là mọi người đều phải LIÊM. Cũng như trung là trung với Tổ quốc, hiếu là hiếu với Nhân dân”[13]. Người nhiều lần đề cập tới yêu cầu của người cán bộ, đảng viên là: “Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững đạo đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính. Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân. Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không”[14].

Như vậy, các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ “Đức trị”, song đã được Người vận dụng, sáng tạo, bổ sung phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của đất nước và con người Việt Nam. So với lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Hồ Chí Minh về “đạo đức cách mạng”, về “Đức trị” thể hiện tư duy độc lập, sáng tạo, có sự kế thừa và phát triển trên tinh thần khoa học nhưng thấm đẫm tinh thần nhân văn, dân tộc.

Trong suốt cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh luôn kiên trì với hai nguyên tắc: Nói đi đôi với làm và gương mẫu nêu gương. Cùng với việc từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hoàn thiện về cả ba mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp, Người suốt đời phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức và kiên trì giáo dục cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý trong tổ chức bộ máy nhà nước. Người căn dặn: “Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai”[15]. Nhờ có đạo đức cách mạng làm nền tảng mà người cán bộ của Đảng mới hoàn thành được sứ mệnh vẻ vang, làm tròn bổn phận với Tổ quốc, với nhân dân: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”[16].

Bản thân Hồ Chí Minh chính là tấm gương điển hình mẫu mực của nền chính trị đạo đức. Chính bởi tầm vóc, tư tưởng và trí tuệ Hồ Chí Minh đã thuyết phục được các sĩ phu yêu nước cũ điển hình như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại và đông đảo trí thức tân học tin tưởng và đi theo sự lãnh đạo của Đảng. Nếu như “đạo đức cách mạng” là yêu cầu cơ bản, là cái gốc của người cán bộ thì “Đức trị” là gốc rễ, nền tảng vững chắc nhất để xây dựng một nhà nước dân chủ, pháp quyền, vững vàng đi lên chủ nghĩa xã hội. “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người”[17].

Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, Hồ Chí Minh đã rất thành công khi xây dựng một nền chính trị - đạo đức kiểu mới cho nhà nước dân chủ. Trên nền tảng Chủ nghĩa Mác - Lênin, với lập trường thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng đã trang bị cơ sở khoa học cho những giá trị nhân đạo, nhân văn của “Đức trị” trở thành hiện thực trong đời sống xã hội. Đây là yếu tố quan trọng góp phần làm nên chiến thắng của hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, góp phần tích cực trong cuộc chiến đấu chống lại áp bức, bóc lột và giải phóng loài người.

3. Pháp trị là chuẩn mực để xây dựng Nhà nước pháp quyền

Khái niệm “Pháp trị” theo tư tưởng của Hàn Phi Tử [281 - 233 TCN], một triết gia Trung Quốc cổ đại có ý nghĩa dùng pháp luật để cai trị, pháp luật được coi là công cụ của nhà nước, và nhà nước đứng trên pháp luật. Trên cơ sở kế thừa tư tưởng pháp quyền phương Tây, kết hợp vận dụng và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, “Pháp trị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với Nhà nước pháp quyền có ý nghĩa là pháp luật cai trị, nghĩa là không ai có thể đứng trên pháp luật, kể cả nhà nước.

Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh là nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Người cho rằng, việc nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật thể hiện tính dân chủ, tiến bộ và là sự tồn tại phổ biến của xã hội hiện đại.

Năm 1919, trong Yêu sách của nhân dân An Nam do Hồ Chí Minh đại diện gửi tới Hội nghị Véc-xây có 8 điều thì 4 điều yêu cầu về vấn đề pháp quyền. Trên báo L'Humanité, ngày 2/8/1919, Người viết: “Báo L'Humanité ngày 18/6 mới đây đã đăng văn bản thỉnh cầu của những người An Nam gửi Hội nghị hoà bình đòi ân xá cho tất cả các tù chính trị người bản xứ, đòi cải cách pháp chế ở Đông Dương bằng ban hành những bảo đảm cho người bản xứ cũng như cho người Âu, đòi tự do báo chí, tự do hội họp và lập hội, tự do dạy học, đòi thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ pháp luật”[18].

Sau đó, Yêu sách của nhân dân An Nam được Người chuyển thành “Việt Nam yêu cầu ca” với nội dung như sau:

“Một xin tha kẻ đồng bào,

Vì chưng chính trị mắc vào tù giam.

Hai xin phép luật sửa sang,

Người Tây người Việt hai phương cùng đồng.

Những toà đặc biệt bất công,

Dám xin bỏ dứt rộng dung dân lành.

Bảy xin hiến pháp ban hành,

Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”[19].

Như vậy, việc xây dựng nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật là tư tưởng rất đặc sắc của Hồ Chí Minh, được hình thành từ rất sớm, phản ánh nội dung cốt lõi của Nhà nước dân chủ mới và là nguyên tắc xuyên suốt trong hoạt động quản lý nhà nước của Người.

Cách mạng Tháng Tám thành công, dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã xóa bỏ chính quyền phong kiến và thực dân; xóa bỏ tư tưởng Đức trị của phong kiến và Pháp trị của chủ nghĩa thực dân, để thay vào đó là “đạo đức cách mạng” và pháp luật của chế độ dân chủ nhân dân.

Trên tinh thần “thượng tôn luật pháp”, chỉ một ngày sau khi giành được độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 3/9/1945, Hồ Chí Minh đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần phải thực hiện ngay, trong đó có nhiệm vụ phải tiến hành Tổng tuyển cử: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu”[20].

Mặc dù đất nước trong tình cảnh đối diện với muôn vàn khó khăn do thù trong, giặc ngoài gây ra, song cuộc tổng tuyển cử đã được tiến hành chỉ bốn tháng sau ngày độc lập. Ðây là một cuộc phổ thông đầu phiếu được tổ chức nhanh nhất, diễn ra sớm nhất, đưa nhân dân lao động lên nắm chính quyền. Cuộc tổng tuyển cử là bước đầu tiên cho quá trình xây dựng một nhà nước hợp pháp, hợp hiến, thể hiện tư duy nhạy bén, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh đồng thời dành nhiều tâm huyết để xây dựng pháp luật. Tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá I, tháng 10/1946, Quốc hội đã thảo luận và thông qua bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam: Hiến pháp năm 1946. Phát biểu tại Phiên họp bế mạc Kỳ họp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Hơn 10 ngày nay, các đại biểu đã khó nhọc làm việc. Quốc hội đã thu được một kết quả làm vẻ vang cho đất nước là đã thảo luận xong bản Hiến pháp. Sau khi nước nhà mới tự do được 14 tháng, đã làm thành được bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà. Bản Hiến pháp đó còn là một vết tích lịch sử, Hiến pháp đầu tiên trong cõi Á Đông này nữa… Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp. Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc”[21].

Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều quy định trong Hiến pháp năm 1946 đã không còn phù hợp, Hồ Chí Minh chủ trương sửa đổi và ban hành Hiến pháp mới - Hiến pháp năm 1959, bởi lẽ khi điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì pháp luật cũng phải thay đổi để bảo đảm khả năng điều chỉnh hợp lý các quan hệ xã hội đã phát sinh và định hình.

Ngoài hai bản Hiến pháp 1946 và 1959, trong 24 năm trên cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây dựng 16 đạo luật và trên 1.300 văn bản dưới luật, trong đó có 243 sắc lệnh quy định về tổ chức nhà nước, góp phần hình thành một thể chế bộ máy nhà nước có nhiều nhân tố cơ bản của một Nhà nước pháp quyền. Đây là những con số ấn tượng thể hiện sự quan tâm, coi trọng pháp luật cũng như nêu cao tinh thần “Pháp trị” trong xây dựng Nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh. Người yêu cầu: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, phải nghiêm minh và phát huy hiệu lực thực tế. Nhà nước sử dụng pháp luật để quản lý xã hội. Song pháp luật của ta đã có sự thay đổi về chất, mang bản chất của giai cấp công nhân, là một loại hình pháp luật kiểu mới, pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Báo cáo tại hội nghị chính trị đặc biệt, ngày 27/3/1964, một trong 5 nhiệm vụ để hoàn thành sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Tăng cường không ngừng chính quyền nhân dân. Nghiêm chỉnh thực hiện dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch. Triệt để chấp hành mọi chế độ và pháp luật của Nhà nước”[22].

“Pháp trị” của Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp quyền tại Việt Nam, là dân chủ bao giờ cũng đi liền với kỷ cương, phép nước. Quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật; đồng thời, hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế. Người nhận định: “Nhà nước ta cũng là nhà nước của đại đa số nhân dân, để thống trị thiểu số phản động, để giữ gìn lợi ích của nhân dân, bằng cách dân chủ chuyên chính của nhân dân”[23]. “Cách mạng Tháng Tám thành công, ta lập ra Chính phủ mới, quân đội, công an, tòa án, pháp luật mới của nhân dân để chống kẻ địch trong và ngoài, và để giữ gìn quyền lợi của nhân dân”[24].

Một trong những điều khó khăn nhất trong thi hành pháp luật là phải bảo đảm được tính khách quan, công bằng, bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Hồ Chí Minh yêu cầu pháp luật của ta phải thẳng tay trừng trị kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Việc Người bác đơn xin khoan hồng khỏi án tử hình vì biển thủ công quỹ, nhận hối lộ của Đại tá Trần Dụ Châu - Nguyên Cục trưởng Cục Quân nhu năm 1950 đã thể hiện tính nghiêm minh và thực hành pháp luật triệt để của Hồ Chí Minh. Trần Dụ Châu, trên cương vị Cục trưởng Cục Quân nhu đã lợi dụng chức vụ, bớt xén phần cơm áo vốn đã rất thiếu thốn của bộ đội để thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ của cá nhân và gia đình. Y bị Tòa án Quân sự kết án tử hình. Dụ Châu và gia đình đã viết đơn kháng án, xin được khoan hồng. Song trước tội lỗi được liệt vào “phá hoại công cuộc kháng chiến” của Đảng và Nhân dân, Hồ Chí Minh vẫn ký lệnh bác đơn kháng án của Trần Dụ Châu và cho tiếp tục thi hành án tử. Chính việc đề cao phép nước của Hồ Chí Minh cho thấy được tư tưởng kết hợp giữa “Đức trị” với “Pháp trị”. Một mặt Người hết lòng rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ có đạo đức cách mạng; mặt khác Người cũng nghiêm khắc trừng trị những kẻ làm hại đến tính mệnh và tài sản của nhân dân, làm mất danh dự, uy tín của Đảng và Nhà nước, làm phương hại đến sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Trên cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh vừa là nhà lập pháp, đồng thời là nhà hành pháp vĩ đại. Người đã cho soạn thảo Tám điều mệnh lệnh của Chính phủ Dân chủ Cộng hòa Việt Nam và nêu rõ: “Toàn thể nhân dân, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng và nghề nghiệp, đều phải giữ gìn trật tự và ra sức ủng hộ chính quyền nhân dân, thật thà hợp tác với quân đội nhân dân, tuân theo pháp luật của Chính phủ và mệnh lệnh của quân đội. Chính quyền và quân đội nhân dân có nhiệm vụ đoàn kết chặt chẽ với nhân dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Bọn Việt gian, mật thám, cướp bóc, quấy rối hoặc phá hoại trong nhân dân, sẽ bị trừng trị nghiêm khắc”[25].

So với quan điểm của V.Lênin về chính quyền nhà nước không bị hạn chế bởi luật pháp như trong bài “Bàn về lịch sử vấn đề chuyên chính” với luận điểm: “Khái niệm khoa học về chuyên chính không phải cái gì khác hơn là một chính quyền không bị cái gì hạn chế cả, không bị bất cứ luật pháp nào hạn chế, hoàn toàn không bị một quy tắc nào hạn chế cả, và trực tiếp dựa vào bạo lực” thì Hồ Chí Minh lại là một nhà chính trị “Thượng tôn pháp luật”. Người đề ra yêu cầu nhà nước tổ chức xây dựng một hệ thống pháp luật khoa học để quản lý xã hội, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ của dân, trong đó, pháp luật được xem là tối thượng. Vì vậy, nhà nước cũng chịu sự chi phối của pháp luật và mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức nhà nước và công chức nhà nước đều phải theo đúng Hiến pháp và pháp luật. “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân, tức là: Tuân theo pháp luật Nhà nước...”[26]. Tựu trung lại, trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì “Pháp trị” chính là chuẩn mực để xây dựng một nhà nước kiểu mới, dân chủ, pháp quyền.

4. Đức trị và Pháp trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất, hài hòa và biện chứng

Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền Việt Nam là tư tưởng thống nhất, hài hòa và biện chứng giữa “Đức trị” và “Pháp trị”. Về mặt bản chất, “Đức trị” và “Pháp trị” đều là hai mặt của một thể thống nhất, một bản thể duy nhất không tách rời. Việc đề cao “Đức trị” hay “Pháp trị” trong xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng đều mang tính phiến diện, không đầy đủ. Vì thế, Hồ Chí Minh vừa coi trọng đạo đức và giáo dục đạo đức, nhưng cũng rất mực đề cao vai trò, sức mạnh của luật pháp. Người nhận rõ: “Luật pháp phải dựa vào đạo đức”. “Phép trị nước” của Hồ Chí Minh là kết hợp cả “Pháp trị” và “Đức trị”, trong đó “Pháp trị” nghiêm khắc, công minh và “Đức trị” bao dung, thấu tình đạt lý; chúng không loại trừ mà thống nhất, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Trong Quốc lệnh do Hồ Chí Minh ban hành ngày 26/1/1946 nêu rõ ràng 10 điều thưởng và 10 điều phạt, cho quân dân biết rõ những tội nên tránh, những việc nên làm. Trong 10 điều khen thưởng có: điều 2: “Ai lập được quân công sẽ được thưởng”. điều 3: “Ai vì nước hy sinh sẽ được thưởng”. điều 5: “Ai làm việc công một cách trong sạch, ngay thẳng sẽ được thưởng”. điều 6: “Ai làm việc gì có lợi cho nước nhà, dân tộc và được dân chúng mến phục sẽ được thưởng”. điều 9: “Ai liều mình về việc công sẽ được thưởng”. Trong 10 điều hình phạt, điều 1: “Thông với giặc, phản quốc sẽ bị xử tử”, điều 6: “Để cho bộ đội hại dân sẽ bị xử tử”, điều 8: “Trộm cắp của công sẽ bị xử tử”[27]. Có thể thấy, Người dùng “đức” để sửa chữa những thói hư tật xấu, lại thưởng, phạt phân minh, ai có công thì khen thưởng, ai có tội thì bị pháp luật trừng trị. Có vậy mới mở rộng dân chủ, ngăn chặn được cái xấu, cái ác, khuyến khích, phát huy cái tốt, cái thiện trong mỗi con người để xây dựng một xã hội trong sạch, vững mạnh.

Hồ Chí Minh đã thúc đẩy ban hành pháp luật một cách kịp thời. Sắc lệnh số 26, ngày 25/2/1946, quy định những hành vi phá hoại tài sản công bị coi là trọng tội, sẽ bị truy tố và phạt tù hoặc xử tử. Sắc lệnh số 142, tháng 11/1946, quy định những hình phạt tội đưa và nhận hối lộ hoặc biển thủ công quỹ. Sắc lệnh số 223, ngày 27/11/1946, ấn định hình phạt đối với tội đưa và nhận hối lộ, biển thủ công quỹ, tài sản công cộng. Với tầm nhìn và trí tuệ của mình, Hồ Chí Minh nhận rõ việc ban hành luật thì dễ nhưng để đưa pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống là công việc muôn vàn khó khăn, phức tạp. Do vậy, Người đặt ra nguyên tắc dân chủ trong sinh hoạt chính trị toàn dân để làm cho mọi hoạt động của Nhà nước được công khai, minh bạch và đặt dưới sự giám sát của nhân dân. Người yêu cầu “Tổ chức Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: Để thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng, Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”[28].

Người yêu cầu tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, đề cao vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt các ngành, các cấp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ cách mạng phải sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ hy sinh, phải quyết tâm chiến đấu đến cùng vì sự nghiệp cách mạng, phải coi đạo đức cách mạng như phẩm chất đầu tiên của mình: Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Năm 1945, Hồ Chí Minh đã đưa ra 23 tiêu chuẩn của người cách mệnh. Đến 10/1947, trong tác phẩm: “Sửa đổi lối làm việc”, Người nêu 12 tiêu chuẩn của Đảng cách mạng chân chính.

Để bảo đảm công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ nhà nước, Người ký Sắc lệnh số 76-SL, ngày 20/5/1950, ban hành Bản quy chế công chức nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Người yêu cầu phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài: Tuyệt đối trung thành với cách mạng. Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ. Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”. Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước.

Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ, công chức của Người thấm đượm tinh thần nhân văn, nhân ái, tình nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống của dân tộc Việt Nam. Vì thế, kết hợp giữa Đức trị và Pháp trị trong tổ chức nhà nước của Hồ Chí Minh có nội hàm triết lý, mang đậm tính dân tộc, dân chủ và giá trị thời đại. Sự kết hợp nhuần nhuyễn, thành công giữa “Đức trị” và “Pháp trị” Hồ Chí Minh thể hiện sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam.

Có thể nói, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một trong những vấn đề mấu chốt nhất của đổi mới hệ thống chính trị, có ý nghĩa quyết định thành công của công cuộc đổi mới đất nước, đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bài học về sự kết hợp thống nhất, biện chứng giữa “Đức trị” và “Pháp trị” trong tư tưởng của Hồ Chí Minh luôn là kim chỉ nam và là nguyên tắc cơ bản để cho chúng ta có thể xây dựng được một Nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, thực sự trở thành nhà nước của dân, do dân và vì dân.

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.1, tr.XIX.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.4, tr.65.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.1, tr.XX.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.12, tr.376.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.15, tr.325.

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.12, tr.435.

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.6, tr.232.

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.4, tr.21.

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.4, tr.187.

[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.5, tr.292.

[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.11, tr.604.

[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.5, tr.259.

[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.6, tr.126.

[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.9, tr.354.

[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.10. tr.345-346.

[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.11, tr.601.

[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.11, t.612.

[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.1, tr.10

[19] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.1, tr.472-473.

[20] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.4, tr.7.

[21] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.4, tr.491

[22] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.14, tr285

[23] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.8, tr.261.

[24] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.8, tr.262.

[25] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.7. tr.487.

[26] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.9, tr.258.

[27] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.4, tr 189-190

[28] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2011, t.12, tr.374

Khổng giáo, công cụ của quyền lực mềm

Đăng ngày: 29/09/2012 - 14:22Sửa đổi ngày: 30/09/2012 - 17:57

Tượng Khổng Tử trên quảng trường Thiên An Môn, Bắc Kinh AFP
Lê Phước

Báo Le Monde diplomatique, số tháng Chín 2012 có bài « Confucius ou l’éternel retour – Khổng Tử, mãi một lối về » của nhà nghiên cứu Anne Cheng [Trình Ngải Lam], phân tích vì sao Bắc Kinh quay lại sử dụng những yếu tố bảo thủ trong Luận Ngữ của Khổng Tử vào mục đích chính trị.

Quảng cáo
Đọc tiếp

KHỔNG TỬ, MÃI MỘT LỐI VỀ
Anne Cheng [Trình Ngải Lam]*

Đối với người phương Tây và người Trung Quốc, dù ở thế kỷ 17 tại châu Âu hay ở Trung Quốc hiện tại, Khổng Tử thường được mang ra sử dụng có mục đích, tùy theo tình hình mà ông bị tấn công hay được thờ phụng tôn sùng. Và hiện nay, người ta lại chú ý đến sách Luận Ngữ của ông nhưng đặc biệt khai thác những chi tiêt bảo thủ nhất.

Tại sao ở Trung Quốc hiện tại, Khổng Tử thường xuyên trở lại đến như vậy ? Làm sao giải thích việc một nhà hiền triết cổ đại hồi thế kỷ thứ 6 và thứ 5 trước Công Nguyên, hai ngàn năm sau lại có giá trị biểu trưng ở một đất nước Trung Hoa của thế kỷ 21 đang lớn mạnh về kinh tế và vị thế địa chính trị trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay?

Xin nhắc lại rằng, hồi thế kỷ 17, các nhà truyền giáo Dòng Tên [còn gọi là Dòng Chúa Jesus, một dòng tu lớn của Công Giáo, được thành vào năm 1535 tại Paris, được Giáo hoàng Phaolô III phê chuẩn năm 1539, phát triển mạnh trong các công việc truyền giáo và giáo dục đến châu Á- ND] đã chuyển tự La Tinh từ chữ Kongfuzi [Khổng Phu Tử] của tiếng Hoa thành Confucius. Họ là những người đầu tiên đưa Khổng Tử đến với người châu Âu. Theo cổ sử Trung Quốc, Khổng Tử đã dành hết cuộc đời đào tạo môn đồ về nghệ thuật trị quốc và tu thân trên nền tảng của Lễ và Nhân. Mãi đến sau thời thống nhất lãnh thổ của vị hoàng đế Trung Quốc đầu tiên [Tần Thủy Hoàng-ND] vào năm 221 trước Công Nguyên thì học thuyết cũng như một hệ thống kinh sách liên quan đến ông mới được tập hợp để làm nền tảng ý thức hệ cho trật tự xã hội của đế chế vừa được thành lập. Từ đó cho đến thế kỷ 20, hình tượng Khổng Tử được đánh đồng với số phận của đế chế Trung Hoa, đến mức mà hiện tại Khổng Phu Tử có thể được xem là biểu tượng tiêu biểu nhất của bản sắc Trung Hoa. Đó là điều mà người phương Tây đang cảm thấy, còn Trung Hoa đại lục thì đang ra sức quảng bá, ca tụng hay thậm chí là sử dụng có mục đích.

Dường như người ta hầu như quên mất là ngay trong thời hiện đại của Trung Quốc, hình tượng Khổng Tử cũng lắm nỗi thăng trầm, trải qua một thế kỷ bị hủy diệt, trong giai đoạn 1860-1970. Số là kể từ sau Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai [1856-1860], một bước ngoặt lịch sử đã xuất hiện, làm cho giới tinh hoa Trung Quốc ý thức được ưu thế của các cường quốc phương Tây, để rồi vào năm 1898, đã dẫn đến ý định đầu tiên tiến hành cải cách chính trị [nhưng thất bại] theo gương Minh Trị tại Nhật Bản [1]. Tiếp đến, vào đầu thế kỷ 20, một loạt khủng hoảng nghiêm trọng khác xảy ra với Khổng giáo. : Năm 1905, việc hủy bỏ chế độ thi cử quan lại theo kiểu Nho giáo một kiểu thi cử từng là nền tảng cơ bản lâu đời của đế chế Trung Hoa [2], đánh dấu bước khởi đầu của quá trình « thế tục hóa » theo kiểu Trung Quốc. Vài năm sau đó, vào năm 1912, Thanh Triều và toàn bộ chế độ quân chủ đã sụp đổ hoàn toàn để nhường chỗ cho nền Cộng Hòa đầu tiên ở Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Tôn Dật Tiên [Tôn Trung Sơn-ND].

Về mặt biểu tưọng, sự kiện đã hằn sâu trong tâm trí là cuộc khủng hoảng phong trào 04/05/1919 [Phong Trào Ngũ Tứ của sinh viên học sinh Trung Quốc phản đối hiệp ước Versailles giao chủ quyền tỉnh Sơn Đông từ Đức sang cho Nhật Bản, sau đó chuyển mũi nhọn đấu tranh chống chính phủ Trung Hoa Dân quốc. ND]. Phong trào nói trên phản ánh sự thất vọng của giới trí thức trước thực tế quốc thể Trung Hoa bị xúc phạm. Đối với những người này, từ hiện đại chỉ có thể được định nghĩa theo ngôn từ khoa học và dân chủ của phương Tây, hiện đại đòi hỏi phải « hạ bệ Khổng Tử » vì đạo Khổng là nguyên nhân của mọi điều tai hại mà đất nước Trung Quốc phải hứng chịu về sự lạc hậu vật chất và trì trệ tinh thần. Những người bài trừ thần tượng Khổng Tử của phong trào Ngũ Tứ đã đi cùng hướng với phân tích của chủ nghĩa Marx trong việc tìm kiếm một chủ nghĩa hiện đại theo kiểu phương Tây và xếp Nho giáo vào « viện bảo tàng ».

TỪ MAX WABER ĐẾN MAO TRẠCH ĐÔNG, THẦY KHỔNG BỊ BUỘC TỘI BẢO THỦ

Rồi đến những năm 1920, một quan điểm khác hướng về phương Tây đã xuất hiện và còn lên án Nho giáo gay gắt hơn nữa: Đó là quan điểm của nhà xã hội học người Đức Max Weber. Ông tập trung chỉ ra vai trò của ý thức hệ [mà theo ông là hệ đạo đức Tin Lành] trong cội nguồn của chủ nghĩa từ bản tại châu Âu [Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là « Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản » - Die protestantische Ethik und der Geist des Kapitalismus- trong đó ông lập luận rằng tôn giáo là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên dị biệt văn hóa giữa phương Đông và phương Tây, và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của những đặc điểm của triết lý Kháng Cách [Tin Lành] khổ hạnh, xem đây là một trong những nhân tố chính giúp phát triển chủ nghĩa tư bản – ND]. Nghĩ rằng đã nhận ra được các điều kiện vật chất có thể dẫn đến sự đăng quang của chủ nghĩa tư bản tại Trung Quốc, Weber cho rằng, sở dĩ chủ nghĩa tư bản chưa thể được thiết lập ở Trung Quốc, đó là vì những yếu tố ý thức hệ, mà trong đó yếu tố hàng đầu gây cản trở chính là Nho giáo. Do vậy, việc loại bỏ dứt khoát gánh nặng vô ích này là một điều kiện tiên quyết để tiến đến mô hình xã hội hiện đại phương Tây.

Sau thế hệ 1919, ngày trọng đại kế tiếp là vào năm 1949, sau cuộc chiến Trung-Nhật và sau cuộc nội chiến [giữa phe đảng Cộng sản của Mao Trạch Đông và phe Quốc Dân đảng của Tưởng Giới Thạch-ND], phe Cộng sản đã thành lập nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Trung Hoa, còn chính phủ Quốc Dân đảng thì chạy sang Đài Loan, theo sau là nhiều trí thức phản đối chủ nghĩa Mác và từ nơi lưu vong, họ lo âu quan sát sự thay đổi mà đất nước Trung Hoa của Mao tiến hành. Rồi sau đó, đất nưóc này đã đạt đến đỉnh điểm của sự tàn phá bằng « cuộc đại Cách mạng Văn hóa vô sản » do Mao Trạch Đông khởi xướng vào năm 1966 và chấm dứt mười năm sau đó, khi Mao Trạch Đông qua đời năm 1976. Cuộc Cách mạng Văn hóa này như là điểm cực đoan nhất của phong trào Ngũ Tứ 1919, mà biểu hiện rõ nhất là quyết tâm loại trừ toàn bộ những tàn dư của xã hội truyền thống [Nho giáo-ND].

Thế nhưng, sau một thế kỷ hủy diệt di sản Nho giáo, một xu thể ngược lại đã diễn ra trong ba mươi năm qua. Chính từ những năm 1980, xu thế đảo ngược đã diễn ra một cách ngoạn mục, mà những dấu hiệu đầu tiên nổi rõ nhất ở những khu vực lân cận Trung Hoa đại lục. Gần như hôm trước hôm sau, từ vị thế là một vật cản cồng kềnh, Nho giáo nhanh chóng được xem là động lực chính của quá trình hiện đại hóa. Nguồn gốc của sự đảo ngược này không liên quan nhiều đến bản thân Nho giáo, mà chủ yếu là xuất phát từ bối cảnh lịch sử và tình hình kinh tế chưa từng thấy : Sau mười năm Cách mạng Văn hóa, mô hình cộng sản cách mạng đã bị từ bỏ trên thực tế, ngay trên lãnh thổ Trung Quốc, trong khi đó ở những khu vực ngoại vi Trung Quốc, người ta chứng kiến sự phát triển kinh tế thần tốc chưa từng thấy theo mô hình Nhật Bản, của 4 « con rồng » [Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc]. Những « khu vực ngoại vi của đế chế Trung Hoa » và những « giá trị Á Đông » mà các khu vực này tuyên bố sở hữu, đã trở nên điển hình và thu hút mọi sự chú ý, nhất là từ các nước phương Tây.

Thật ra, khi chủ nghĩa cộng sản lâm khủng hoảng ở Trung Quốc và Đông Âu, các xã hội tư bản phương Tây cho rằng họ cũng nhận thấy những dấu hiệu suy yếu trong quá trình phát triển nội tại của mình. Trong bối cảnh đó, những « giá trị Nho giáo » đến đúng lúc để khắc phục những khiếm khuyết của mô hình hiện đại quá đà ở phương Tây, bởi vì các giá trị đó [tầm quan trọng của gia đình, tôn ti trật tự, khao khát học hành, cần cù lao động, ý thức cần kiệm…] được xem là nguồn gốc phát triển của chủ nghĩa tư bản đặc thù châu Á.

CƠ HỘI THUẬN LỢI ĐỂ TRẢ THÙ SỰ THỐNG TRỊ CỦA PHƯƠNG TÂY

Nhân tố phát khởi của sự lật ngược tình thế trong những năm 1980 đến từ tình hình thế giới, và tâm điểm được tìm thấy không phải trong các xã hội Trung Quốc mà là ở những cộng đồng người Hoa được Tây hóa và nói tiếng Anh như ở Mỹ và Singapore. Vào giữa thập kỷ này, xu thế đó mới bắt đầu lan đến Trung Quốc, trong bối cảnh nước này đang bận tâm với việc rũ bỏ tàn dư của chủ nghĩa Mao và muốn bám vào những toa tàu của các giá trị Á châu với dụng tâm trở thành đầu tàu trong tương lai. Nho giáo vốn bị báng bổ từ nhiều thế hệ, có khi còn bị hủy diệt bằng những hành động cụ thể, và cao trào là trong cuộc Cách mạng Văn hóa. Chẳng bao lâu sau khi Cách mạng Văn hóa kết thúc, vào năm 1978, đã diễn ra hội thảo đầu tiên với mục đích phục hưng Nho giáo. Từ đó, năm nào cũng có nhiều cuộc hội thảo quốc tế về chủ đề này. Năm 1984, một tổ chức mang tên Confucius Foundation với sự bảo trợ của một số quan chức cao cấp trong đảng Cộng sản Trung Quốc đã ra đời ở Bắc Kinh [Đây là tổ chức do chính phủ Trung Quốc tài trợ để gây quỹ cho các đề tài nghiên cứu về tư tưởng của Khổng Tử tại Trung Quốc và nước ngoài-ND]. Năm 1992, trong chuyến công tác ở các tỉnh miền nam Trung Quốc, khi phát động « nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa », Đặng Tiểu Bình đã nhắc đến Singapore của Lý Quang Diệu [3] như là một mô hình làm mẫu cho Trung Quốc. Trớ trêu thay, những điều mà trước kia Weber xem là chướng ngại to lớn cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thì giờ đây lại thật sự trở thành những yếu tố giúp các xã hội Đông Á tránh được các vấn đề mà xã hội hiện đại phương Tây vướng phải. Từ đó, xuất hiện cơ hội cho một sự trả thù ngoạn mục đối với sự thống trị của các nước phương Tây, cơ hội mà Trung Quốc và một vài nước trong khu vực chờ đợi ít nhất là từ một thế kỷ nay.

Trên thực tế, sự phục hưng của Nho giáo không liên quan nhiều đến thị trường, mà được dùng cho các mục đích chính trị của giới lãnh đạo chuyên quyền tại Singapore, Trung Quốc hay Hàn Quốc. Trước sự phát triển quá nhanh của nền kinh tế, các cấu trúc xã hội-chính trị không kịp thích ứng, giới lãnh đạo các nưóc nói trên nhận thấy thật là thuận tiện khi dùng lại những « giá trị Nho giáo », đó là những đảm bảo cho sự ổn định, kỷ luật và trật tự xã hội, trái ngược với một phương Tây xấu xa đang suy yếu bởi chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa hưởng thụ. Với khuynh hướng chuyên quyền kiểu mới đó, các nhà tư tưởng mác-xít và chống mác-xít gặp nhau ở một điểm then chốt: Mô hình xã hội chủ nghĩa không có phương Tây, những mô hình mà chủ nghĩa không tưởng Mao Trạch Đông đã theo đuổi, được thay thế bằng khát vọng đi đến một xã hội công nghiệp hiện đại vừa không rập khuôn phương Tây, mà lại được mang lớp vỏ của « thời hậu hiện đại ».

Khủng hoảng tài chính năm 1997 đã phần nào làm dịu cơn sốt Confucius Economicus [Khai thác hình ảnh Khổng Tử phục vụ cho Kinh tế-ND], tuy nhiên không phải vì thế mà lối về của thầy Khổng bị dừng lại. Từ mười năm nay [đại khái là từ khi bước vào thế kỷ 21 và vào đệ tam thiên niên kỷ], quá trình trở lại này được thể hiện ở nhiều hiện tượng diễn ra trên lãnh thổ Trung Hoa đại lục và ở tất cả các tầng bậc xã hội. Trên phương diện chính trị, giới lãnh đạo lấy ổn định xã hội làm ưu tiên để bảo đảm lâu dài cho mục tiêu phát triển kinh tế. Năm 2005, chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã phát động khẩu hiệu mới là « xã hội xã hội chủ nghĩa hài hòa », tiếp bước các mô hình xã hội trước, vốn rất đậm màu Nho giáo, dù rằng về mặt chính thức không được nêu lên: Ý tưởng « xã hội thịnh vượng tương đối » của Đặng Tiểu Bình hay « đức trị » của Giang Trạch Dân. Ngoài ra, học thuyết quản lý xã hội của Khổng giáo còn có thể mang đến một giải pháp thay thế cho mô hình dân chủ tự do theo kiểu phương Tây. Ngày nay, chỉ riêng cái tên Khổng Tử, đã ngụ ý gắn với sự hài hòa và cũng đủ tạo nên sức nặng trên thị trường kinh tế, và đó còn là một nguồn vốn mang tính biểu tượng cao: Ngoài những viện Khổng Tử được reo rắc khắp nơi trên thế giới, tại Trung Quốc, cũng nhanh chóng xuất hiện nhiều Quỹ hoặc Trung tâm Khổng Tử.

Và hệ quả tất yếu là Luận Ngữ cũng trở thành công cụ dưới nhiều hình thức khác nhau [Luận Ngữ : Một trong Tứ Thư của Nho giáo bao gồm Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử. Luận Ngữ là sách ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử và những lời nói của người đương thời. Trong Luận Ngữ, quan điểm giáo dục của Khổng Tử rất được đề cao- ND]. Một ví dụ sau đây cũng đủ để minh chứng cho việc tuyên truyền chính trị thông qua Luận Ngữ: Trong lễ khai mạc Olympic Bắc Kinh hồi tháng Tám 2008 do đạo diễn điện ảnh nổi tiếng thế giới Trương Nghệ Mưu điều khiển, người ta thấy một tấm bảng, trên đó có một vài câu trích trong Luận Ngữ, được căng lên bởi các quân nhân của Quân đội Nhân dân Trung Quốc hóa trang thành các nhà nho. Thế nhưng, trong lĩnh vực giáo dục, Luận Ngữ mới thật sự tìm lại được vai trò trung tâm mà nó đã từng giữ suốt thời quân chủ. Những kiểu giáo dục « đặc trưng của Trung Quốc » được đề cao bằng những điều rút ra từ học thuyết Khổng Tử nhằm tái khẳng định giá trị trung tâm của đạo đức trong xã hội, khởi đầu nhắm vào trẻ em và thanh niên. Từ những năm 1990, trong các hoạt động bán hoặc ngoại khóa, nhiều phương pháp « truyền thống » đã được khuyến khích. Được áp dụng cho các trẻ nhỏ ngay từ buổi đầu đến trường, các phương pháp này chủ yếu là cho lập lại một cách máy móc hoặc đọc thuộc lòng các kinh điển Nho giáo [mà bắt đầu là Luận Ngữ]. Làn sóng này còn lan sang cả người lớn qua những bài giảng, những cuộc hội thảo hay những đợt thực tập liên quan đến nền « quốc học ». Bên cạnh đó còn có những sáng kiến tư nhân, chủ yếu do những người tranh đấu cho cái gọi là « Nho giáo bình dân » tiến hành, ở thành thị hoặc nông thôn. Các hoạt động này với sự hỗ trợ của Internet, là phương tiện thông tin và truyền bá trên qui mô lớn và hiệu quả nhất chưa từng thấy.

MÓN « SÚP GÀ CHO TÂM HỒN » VỪA ĐƠN GIẢN VỪA PHÙ HỢP VỚI HỌC THUYẾT CHÍNH THỐNG

Một biểu hiện khác của việc khai thác trở lại một cách ồ ạt Luận Ngữ là quyển sách của giáo sư Vu Đan được dịch sang tiếng Pháp với dòng tựa làm dịu tâm hồn: « Khổng Tử luận về Hạnh phúc ». Nữ tác giả này không phải là chuyên gia về Khổng Tử, cũng không chuyên về văn hóa truyền thống Trung Hoa, mà là chuyên gia về truyền thông. Ấy thế mà mấy năm nay, bà đã làm cho Luận Ngữ trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất. Hiện tượng thông tin đại chúng này tác động đến một số lượng lớn công chúng qua các chương trình truyền hình, hoặc thông qua những quyển sách theo kiểu như trên. Chỉ riêng quyển sách vừa nêu cũng đã bán được hơn 10 triệu cuốn. Dễ cuốn hút vì ngắn gọn và đơn giản, quyển « Khổng Tử luận về Hạnh phúc » thật ra được viết với nội dung không gây tranh cãi và bảo thủ. Những người không ưa thích thì cho rằng quyển sách đã bỏ qua phần phê phán chế độ chính trị có trong Luận Ngữ, và thông điệp nhân văn này được thu gọn lại thành một thứ « súp gà cho tâm hồn », hoàn toàn phù hợp với khẩu hiệu chính thức của Nhà nước là ổn định xã hội. [Súp gà cho tâm hồn là tựa một quyển sách gồm những mẫu chuyện suy ngẫm đời thường của Mark Victor Hansen người Mỹ. Súp gà cho tâm hồn thuộc hàng bán chạy nhất thế giới với 140 triệu bản được phát hành và được dịch ra 54 thứ tiếng. Với ý nghĩa quyển sách sẽ bổ dưỡng cho tâm hồn như súp gà bổ dưỡng cho cơ thể- ND]. Hình tượng Khổng Tử hiện có mặt khắp Trung Quốc, và chính trong hình tượng thầy Khổng mà lợi ích của « nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa » đã dung hợp được với những mục tiêu ý thức hệ hiện tại là « một xã hội xã hội chủ nghĩa hài hòa ».

* Anne Cheng [Trình Ngải Lam]: Nữ giáo sư tại Collège de France ở Paris, giáo sư lịch sử trí thức Trung Quốc, đã dịch sang tiếng Pháp các sách: Luận Ngữ [NXB Seuil, Paris, 1981], Lịch sử tư tưởng Trung Quốc [Seuil, 2002] và Trung Quốc có tư duy không? [NXB Fayard, Paris, 2009]. Có thể tham khảo các bài giảng của giáo sư Anne Cheng [Trình Ngải Lam] trên trang mạng www.college-de-france.fr/site/anne-cheng [bằng tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Hoa].

1 Thời đại Minh Trị [1868-1912]: Giai đoạn Nhật Bản hiện đại hóa nhanh chóng đất nước.

2 Những kỳ thi quan lại: Những kỳ thi mở lối quan lộ cho các nhà nho được tổ chức bài bản từ thế kỷ thứ Bảy.
3 Lý Quang Diệu: Thủ tướng đầu tiên của Singapore, sau đó là bộ trưởng cao cấp của chính phủ Ngô Trác Đống và bộ trưởng cố vấn của thủ tướng Lý Hiển Long, con trai ông.

4 Vu Đan, Khổng Tử luận về Hạnh phúc [Le Bonheur selon Confucius]: Sách triết lý phổ thông, NXB Belfond, Paris, 2009.

  • Châu Á
  • Chính trị
  • Chuyên mục trên mạng
  • Tôn giáo
  • Trung Quốc

Video liên quan

Chủ Đề