bạn xem cái này nhé
Trong Học thuyết về giá trị thặng dư, C. Mác đã có một nhận định có tính chất dự báo khoa học trong xã hội hiện nay, đó là: "Mục đích thường xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm thế nào để với một tư bản ứng trước tối thiểu, sản xuất ra một giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư tối đa; và trong chừng mực mà kết quả ấy không phải đạt được bằng lao động quá sức của những người công nhân, thì đó là một khuynh hướng của tư bản, thể hiện ra trong cái nguyện vọng muốn sản xuất ra một sản phẩm nhất định với những chi phí ít nhất về sức lực và tư liệu, tức là một khuynh hướng kinh tế của tư bản dạy cho loài người biết chi phí sức lực của mình một cách tiết kiệm và đạt tới mục đích sản xuất với một chi phí ít nhất về tư liệu" [2].
Từ việc nghiên cứu Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác, chúng ta thấy rõ ít nhất ba vấn đề lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước.
Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều và xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó.
Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc và xơ cứng về mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương chính sách, cũng như có thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều xa rời thực tế và không thể thực hiện được. Điều có sức thuyết phục hơn cả hiện nay là quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng luật. Đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước mỗi khi được thể chế hóa thành luật và các bộ luật thì chẳng những góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy luật làm công cụ và cơ sở để điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà còn cả hành vi bóc lột nói riêng. Ai chấp hành đúng pháp luật thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh theo phương châm: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong nhận thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính là mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội thì phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để, một mặt, chống thất thu thuế, mặt khác, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thông qua Nhà nước và bằng các "kênh" phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Thiết nghĩ, đây là một hướng tiếp cận vấn đề bóc lột giúp chúng ta tránh được những nhận thức giáo điều, phi biện chứng về quan hệ bóc lột, cũng như việc vận dụng nó trong một giai đoạn lịch sử cụ thể của việc giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và chủ động hội nhập thành công với nền kinh tế quốc tế.
Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người lao động lẫn giới chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài thật cụ thể mới bảo đảm công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong quá trình sử dụng lao động là một thực tế, việc phân xử các mâu thuẫn ấy như thế nào để tránh những xung đột không cần thiết cũng lại là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất của chế độ mới. Bảo vệ được những quyền lợi chính đáng, những quyền lợi được luật pháp bảo vệ, của tất cả các bên trong quan hệ lao động là một bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp lý quan hệ bóc lột trong điều kiện hiện nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hoàn thiện và xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
nguồn: thongtinphapluatdansu.edu.vn
Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin lượt xem Edit
Câu hỏi 17. Trình bày khái niệm chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận. Sự xuất hiện các khái niệm trên đó che đậy bản chất và nguồn gốc của chúng như thế nào?
Đáp. Câu trả lời gồm hai ý
1] Khái niệm chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
a] Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nếu gọi giỏ trị hàng hóa là W thỡ W = c +
v + m. Đó là những chi phí lao động thực tế của xó hội để sản xuất hàng hoá.
Nhưng đối với nhà tư bản, họ chỉ cần chi phí một lượng tư bản để mua tư liệu
sản xuất [c] và mua sức lao động [v] gọi là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa,
ký hiệu là k, [k = c+d]. Từ công thức này suy ra chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa là phần giá trị bù lại giá của những tư liệu sản xuất và giá sức lao động
đó tiờu dựng để sản xuất ra hàng hoá cho nhà tư bản; khi đó, công thức W = c +
v + m sẽ chuyển hoá thành W = k + m. b] Lợi nhuận. Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư
bản chủ nghĩa nên sau khi bán hàng theo đúng giá trị, nhà tư bản không chỉ bù
lại đủ số tiền đó ứng ra, mà cũn thu lại được một số tiền lời ngang bằng m. Số
tiền này là lợi nhuận [ký hiệu là p]; khi đó, công thức W = k + m sẽ chuyển
thành W = k + p. Từ công thức này suy ra lợi nhuận là hỡnh thức biến tướng của
giá trị thặng dư, nó phản sánh sai bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Cái
khác nhau giữa m’ và p’ là ở chỗ, khi nói m là hàm ý so sỏnh nú với v, cũn khi
núi p lại hàm ý so sỏnh với [c + v]; p và m thường không bằng nhau; p có thể
cao hơn hoặc thấp hơn m, tuỳ thuộc và giá cả bán hàng hoá do quan hệ cung-cầu
quy định. Nhưng xét trên phạm vi toàn xó hội, tổng số lợi nhuận luụn ngang bằng
tổng số giỏ trị thặng dư.
c] Tỷ suất lợi nhuận. Khi giá trị thặng dư chuyển thành lợi nhuận thỡ tỷ suất
giỏ trị thặng dư chuyển hoá thành tỷ suất lợi nhuận. Đó là tỷ lệ phần trăm giữa
tổng số giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước; được ký hiệu là p’. Khi
đó, p’ =
Tỷ suất lợi nhuận khác với tỷ suất giá trị thặng dư bởi khi xét về lượng, tỷ
suất lợi nhuận luôn nhỏ hơn tỷ suất giá trị thặng dư; cũn khi xét về chất, tỷ
suất giá trị thặng dư phản ánh trỡnh độ bóc lột của nhà tư bản đối với lao động
làm thuê. Cũn tỷ suất lợi nhuận chỉ nói lên mức doanh lợi của việc đầu tư tư
bản. Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho các nhà đầu tư tư bản thấy đầu tư vào đâu thỡ sẽ
thu được lợi nhuận lớn hơn [ngành nào có p’ lớn hơn]. Do đó, tỷ suất lợi nhuận
là mục tiêu cạnh tranh và là động lực thúc đẩy sự hoạt động của các nhà tư bản.
2] Sự xuất hiện các khái niệm trên đó che đậy bản chất và nguồn gốc giá trị
thặng dư
a] Sự hỡnh thành chi phớ sản xuất tư bản chủ nghĩa [ c+ v] đó xoỏ nhũa sự khỏc
nhau giữa c và v, điều này làm cho người ta không nhận thấy được m sinh ra từ v
mà lầm tưởng c cũng tạo ra m.
b] Do k của tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế, nên nhà tư
bản chỉ cần bán hàng hoá lớn hơn k tư bản chủ nghĩa và nhỏ hơn giá trị của nó
là đó cú p. Đối với nhà tư bản, họ cho rằng p là do việc mua bán, lưu thông tạo
ra, do tài kinh doanh của nhà tư bản mà có. Điều này được thể hiện ở chỗ, nếu
nhà tư bản bán hàng hoá với Giá cả = giá trị ð p=m; Giá cả > giá trị ð p=m;
Giá cả < giá trị ð p=m; nhưng xét trong toàn xó hội thỡ tổng giỏ cả = tổng
giỏ trị, nờn tổng p= tổng m. Chớnh sự thống nhất về lượng giữa m và p nên càng
che dấu thực chất bóc lột của nhà tư bản.