Nếu bạn là một tín đồ của những chuyến du lịch dài ngày, bạn yêu thích khám phá thiên nhiên và những vùng đất xa xôi và bạn đủ sức khỏe để du ngoạn trong thế giới kì thú, hoang dã của muôn loài thì du lịch Nam Phi là một sự lựa chọn hoàn hảo dành cho bạn.
Cùng Migola Travel điểm qua những trải nghiệm không thể bỏ qua khi du lịch Nam Phi nhé!
Đặt chân lên Mũi Hảo vọng
Cách thành phố cảng du lịch Cape Town khoảng 48 km về hướng Tây Nam là Mũi Hảo vọng [Cape of Good Hope]. Cùng với mũi Cape Horn ở Patagonia, Nam Mỹ, điểm giao tiếp giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương thì Cape of Good Hope được mệnh danh là một trong hai nơi nổi tiếng nhất thế giới.
Bất kỳ du khách nào khi tới được nơi đây cũng đều thích thú và tự hào chụp hình với bảng gỗ có khắc: “Vĩ độ 34° 49' 58 nam và kinh độ 20° 00' 12 đông - Cape of Good Hope”. Nó được cắm vào nền đất, bên dưới mỏm đá cao 256 m đâm trồi ra đại dương. Đó được xem như là khoảnh khắc đánh dấu thành quả của một hành trình dài và vất vả để đặc chân đến địa danh này.
Hành trình khám phá Mũi Hảo vọng, mở đường hàng hải từ Đại Tây Dương qua Ấn Độ Dương, do nhà thám hiểm Bartolomeo Dias [hay Diaz] thực hiện lần đầu tiên. Theo lệnh của vua Bồ Đào Nha Juan II, từ Lisboa, Dias căng buồm ra khơi vào tháng 8/1487. Đến tháng 2/1488, thuyền của ông vòng được qua đầu mỏm cuối cùng của lục địa đen, nay gọi là Great Fish River [tạo nên từ dòng nước lạnh của Đại Tây Dương đổ xuống và dòng nước ấm từ Ấn Độ Dương tràn qua, không chỉ có cá ngừ đại dương mà còn hàng đàn cá heo, cá mập và cá voi]. Dias đã mở ra đường biển từ châu Âu đến Đông Á.
Ở hành trình trở về, ông Diaz dừng lại ở đúng nơi này có tên là Mũi Hảo vọng. Thực ra, chốn này là nơi đầu sóng ngọn gió nên lúc ấy Diaz gọi nó là Cabo Tormentoso, tức Mũi Bão tố. Sau này, lo ngại thủy thủ sợ chết khi hải hành đến đây, Vua Juan II đã chính thức đổi tên nó thành Cabo da Boa Esperanca, tức Mũi Hảo vọng. Thuỷ thủ người châu Âu từ Ấn Độ Dương đi đến thì biết mình sắp trở về nhà, còn thuỷ thủ từ Đại Tây Dương và Địa Trung Hải đến đây hiểu rằng mình đã qua được nửa chặng hải hành. Diaz sau này tử nạn tại Cabo Tormentoso, trong cơn bão lớn vào năm 1500.
Ngày nay, Cape Town với Mũi Hảo vọng mỗi năm thu hút hơn 5 triệu lượt du khách nước ngoài.
Mũi Điểm và Núi Bàn
Mũi Điểm [Cape Point] sừng sững trên đỉnh cao nhất của mũi này là ngọn hải đăng, địa điểm lý tưởng để phóng tầm nhìn ra Đại Tây Dương, trở vào Núi Bàn [Table Mountain - tảng đá đen khổng lồ hình thành cách nay 500 triệu năm, mặt phẳng như cái bàn, khi mây kéo đến bao phủ tạo nên cảnh tượng như tấm khăn trắng phủ lên bàn ăn].
Đó lại là một sự kỳ thú khác nữa của đất nước Nam Phi. Sau khi có quá nhiều thương thuyền gặp bão và chìm quanh khu vực này, năm 1840 người ta quyết định xây dựng hải đăng Mũi Agulhas [đặt theo tên dòng nước ấm của Ấn Độ Dương]. Năm 1848, với hình dáng như ngọn hải đăng Pharos ở thành Alexandria bên Ai Cập, nó bắt đầu chiếu sáng, dẫn đường chỉ lối cho các con tàu.
Dầu dùng thắp sáng hải đăng [tương đương 4.500 ngọn nến] lấy từ việc nấu chảy mỡ đuôi cừu. Đến năm 1905, hải đăng mới có hệ thống đèn sử dụng dầu hỏa, rồi sau đó là điện. Nhưng năm 1968, Mũi Agulhas chấm dứt nhiệm vụ chiếu sáng về đêm và đến năm 1973 thì được nâng lên hàng di sản quốc gia. Còn từ năm 1994 đến nay, nó là một bảo tàng thu hút khách tham quan. Lý do người ta ngừng sự hoạt động là vì mũi này ở quá cao, ánh đèn quét ra nằm trên tầm quan sát của thủy thủ, tàu vẫn bị va vào đá ngầm. Sau khi Mũi Agulhas được nghỉ ngơi, người ta xây ngọn hải đăng khác ở sườn núi bên dưới.
Từ Mũi Hảo Vọng, du khách có thể phóng tầm mắt ra xa và nhìn thấy rõ hình dáng của Table Mountain. Ở độ cao hơn 1.000 m so với mặt nước biển, du khách phải trải qua một hành trình leo lên đỉnh sau 180 phút, hay có thể lựa chọn ngồi cable car có sức chở vài chục người và xoay vòng 360 độ cho mọi người quan sát cảnh quan.
Xung quanh là khu bảo tồn thiên nhiên với nhiều loài động thực vật hoang dã, quý hiếm. Trong số hơn 2.200 loài thảo mộc ở đây có hơn 100 loại hoa diên vĩ. Chúng đua nhau nở rộ từ tháng 9 năm nay cho đến tháng 3 năm sau. Từ trên núi cao ngắm cảnh hoàng hôn buông xuống mặt biển không khác gì ngắm một bức tranh tuyệt đẹp, hoàn hảo.
Nho, vang là “vàng”
Nam Phi là một đất nước được thiên nhiên ưu đãi với nguồn tài nguyên tự nhiên vô cùng phong phú và đa dạng từ kim cương, vàng, bạch kim đến titanium, tanzanite, đồng... Rừng rậm là nơi trú ngụ vủa nhiều loài động vật hoang dã, quý hiếm. Biển của Nam Phi cũng được thiên nhiên ban tặng cho nhiều loài hải sản có giá trị. Đất đai màu mỡ là nguồn tài nguyên vô cùng giá trị cho nghề trồng nho ở Nam Phi, mặt đất có còn rất nhiều vườn nho, tạo nên một nền công nghiệp vang nổi tiếng từ 300 năm qua với khoảng 340 lò sản xuất, cho ro thị trường toàn thế giới những chai rượu vang Nam Phi hảo hạng. Riêng ở khu vực quanh Cape Town đã có hơn 100.000 ha chuyên trồng nho làm ra đủ các loại vang.
Ngày nay, Nam Phi xếp hạng 9 trên top 10 nước sản xuất và xuất khẩu nhiều vang nhất thế giới. Nằm trong một thung lũng rộng lớn, màu mỡ tạo nên bởi hai rặng núi Table Mountain và Constancia Mountain, Constancia được mệnh danh là "vùng vang", để đến được đây du khách chỉ mất khoảng 20 phút di chuyển từ trung tâm Cape Town.
Những thảm cỏ xanh rì, cánh đồng nho ngút tầm mắt và cây to toả bóng râm trở thành địa điểm lý tưởng để picnic sau khi đã nếm thử các loại vang trắng, vang hồng và vang đỏ của lò vang lớn nhất tại đây là Buitenverwachting [tiếng Hà Lan cổ nghĩa là "vượt hơn cả mong đợi"].
Du khách muốn thử bao nhiêu loại vang cũng được, và thử xong không mua cũng chẳng sao, vì biết đâu lần sau lò vang sẽ bán được cho mỗi người cả két.
Khách sạn The Palace trong Thành phố đã mất
Tiếp tục di chuyển từ Johannesburg đi về hướng tây bắc khoảng 120 phút, du khách sẽ đến Sun City [Thành phố Mặt trời]. Đó là một Las Vegas, một khu vui chơi giải trí Walt Disney, một Xanadu cộng lại, hình thành vào năm 1979 với vốn đầu tư 200 triệu USD.
Trong Sun City là Thành phố đã mất [The Lost City], một phức hợp du lịch - giải trí - golf - bảo tồn sự sống hoang dã rộng lớn với 1 casino, 4 khách sạn, 2 sân golf, khu vực nuôi cá sấu và cách đó 10 phút đi xe là Công viên quốc gia Pilanesburg, nơi sinh sống của voi, sư tử, tê giác, báo, trâu rừng [5 ông lớn rừng châu Phi] và đủ loại thú hoang khác.
Kiến trúc xây dựng nổi nhất trong phức hợp này là khách sạn The Palace với hơn 330 phòng bài trí theo môtíp rừng châu Phi. Có thể đây không là khách sạn 5 sao lộng lẫy và tốt nhất thế giới, nhưng chắc chắn du khách sẽ bị nó mê hoặc. Bao vây khách sạn là cánh rừng nhân tạo rộng 25 ha mà trên đó, nhà đầu tư đã cho trồng 1,6 triệu cây to, bụi thấp.
3 km dưới lòng đất
Ngày nay, để được sống lại - dù chỉ chừng 60 phút - bầu không khí hấp dẫn nhưng cũng đầy nguy hiểm chết người của thời đào, đãi vàng xa xưa, không ít du khách quốc tế tìm đến phức hợp vui chơi giải trí chủ đề vàng mang tên Gold Reef City cách Johannesburg chừng 40 phút đi xe. Thành phố giải trí này được xây dựng ngay trên khu mỏ vàng Crown Mine mới chỉ ngưng hoạt động từ năm 1977.
Giếng số 14 chính là “trung tâm” của Gold Reef City. Nó chính thức đi vào hoạt động năm 1909 và trở thành điểm thăm quan du lịch sau khi ngưng khai thác năm 1977. Mỗi ngày có 12 suất thăm quan công đoạn khai thác vàng dưới lòng đất. Dùng thang máy có sức chở một lần được 26 người, du khách lọt vào thế giới ngầm này. 10m… 50m… 100m… thang máy tối đen chỉ lấp loé vài bóng đèn tỏa ra từ bình ắc-quy mà các du khách quàng vào vai mình.
Càng xuống sâu, cái lạnh càng rõ hơn, việc hít thở cũng khó hơn. Những ai bị bệnh tim mạch, huyết áp, dễ ngạt thở khi ở không gian chật chội, trẻ em dưới 6 tuổi và cả những người có dị tật bẩm sinh nơi chân đều không được tham dự hành trình vào lòng đất. Một tấm bảng thông báo ghi rõ như thế và hướng dẫn viên cũng không quên nhắc nhở.
Thang máy này dừng lại ở tầng 1, ở độ sâu 264 m là điểm đến của du khách. Nhưng trước đây, từ tầng ấy, qua mạng lưới các đường hầm dọc và đường hầm ngang, các công nhân còn túa sâu xuống thêm dưới mặt đất khoảng 3 km để đục đá, đãi vàng. Công việc chẳng dễ dàng, thoải mái dù cho thời ấy, thời hoàng kim của cách mạng công nghệ đầu thế kỷ 20, họ đã được hỗ trợ rất đắc lực bởi nhiều loại máy móc, trang thiết bị, trong đó có cả máy phát điện, máy khoan, hệ thống làm lạnh không khí, hồ đập và máy bơm nước, thuốc nổ TNT chế tạo bởi ông Alfred Nobel.
Những cái dùi đục bằng sắt với đủ độ dài, nhọn khác nhau và các búa sắt cực nặng vẫn là công cụ lao động chính của giới phu hầm mỏ này. Để có 4 gram vàng, họ phải đục, khoan ra được trung bình một tấn đá. Vàng vẫn còn trong các tường đá vĩ đại này, nhưng người ta không còn khai thác nó nữa. Việc đãi vàng, nung và đúc vàng thành thỏi, thành những đồng tiền vàng diễn ra trên mặt đất.
Trong gian phòng mang tên Gold Pour có ghế ngồi cho khoảng 100 khách, mỗi ngày 7 lần các công nhân biểu diễn công đoạn đúc vàng. Bên cạnh lò nung vàng có tấm bảng ghi rõ giá vàng: năm 1900: 20 USD/ounce, hôm nay, 586,15 USD/ounce. Còn trong bảo tàng kiêm phòng triển lãm kiêm gian bán hàng lưu niệm, mỗi ngày có vài chục cuộc biểu diễn in mề đay vàng, huy hiệu bằng vàng, thanh vàng thỏi, và đặc biệt là những đồng tiền Krugerrand vàng 4 số 9 [đặt theo tên Tổng thống Paul Kruger, 1825-1904] rất có giá trị với giới sưu tập và đầu tư vàng quý hiếm. Du khách nào thừa tiền có thể mua các đồng Krugerrand cân nặng đúng 1 ounce vàng.
Migola Travel Sưu tầm & Tổng hợp
Bạn đã sẵn sàng cho hành trình du lịch Nam Phi?
Hãy tìm hiểu thông tin chi tiết tại đây: Tour Du Lịch Nam Phi
Hotline tư vấn: 0366 55 66 77
Trụ sở chính Migola Travel: 1A Công Trường Mê Linh, Phường Bến Nghé, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
Sổ đăng ký các đập lớn của Nam Phi Sổ đăng ký các đập lớn của Nam Phi Sancold vui mừng thông báo rằng Sổ đăng ký các đập lớn của Nam Phi hiện có thể được tải xuống từ trang web của Sand. & NBSP; Thanh ghi được đưa ra dưới dạng bảng tính Excel. & NBSP; & NBSP; Điều này cung cấp cơ sở của việc có thể sắp xếp thông tin một cách dễ dàng và đưa ra kết luận thú vị. Sổ đăng ký Nam Phi vào tháng 1 năm 2009 chứa thông tin liên quan đến 1 & nbsp; 082 đập lớn. & NBSP; & nbsp; Để đủ điều kiện để đưa vào sổ đăng ký, một con đập phải đáp ứng các tiêu chí sau: Đập an toàn: đập nhỏ và lớn Nam Phi có một số lượng lớn các đập được phân loại là nhỏ bé so với những con được phân loại là lớn. & NBSP; & NBSP; Những con đập này chủ yếu thuộc sở hữu của ngành nông nghiệp, chủ yếu là tưới và tưới nước. & NBSP; & NBSP; Một số chính quyền địa phương cũng sở hữu các đập như vậy để cung cấp nước cho các thị trấn. & Nbsp; & nbsp; Tất cả các đập có nguy cơ an toàn ở Nam Phi với chiều cao [được đo từ ngón chân hạ nguồn] từ 5m và lớn hơn và dung lượng lưu trữ hơn 50 & nbsp; 000 m3 phải tuân theo các quy định an toàn của đập theo Đạo luật Nước Quốc gia [không 36 năm 1998]. Chủ sở hữu của các đập như vậy được yêu cầu đăng ký các đập với Bộ Nước và Vệ sinh. & NBSP; & NBSP; Các đập sau đó được phân loại thành các loại khác nhau tùy thuộc vào xếp hạng tiềm năng nguy hiểm của chúng, xem xét mất khả năng mất mạng và tổn thất kinh tế tiềm năng có thể xảy ra do sự cố đập. & NBSP; & NBSP; Ba phân loại an toàn đập được xác định với đập loại I cho các đập nhỏ có xếp hạng tiềm năng nguy hiểm thấp. & NBSP; Ở đầu kia của các đập hạng III tỷ lệ có xếp hạng tiềm năng cao nhất và đòi hỏi sự chú ý nhiều nhất từ góc độ an toàn của đập. & NBSP; Các đập loại II có tính chất trung gian và cũng đòi hỏi sự tham gia của các chuyên gia đập. Thông tin hiện tại [tháng 8 năm 2008] về số lượng đập Nam Phi và phân loại của họ được đưa ra dưới đây và đã được cung cấp bởi Văn phòng An toàn đập [DSO] của Bộ Nước và Vệ sinh [DWS]: Tổng số đập đã đăng ký là 4 & nbsp; 457 trong đó 4 & nbsp; 173 [94%] đã được phân loại thành các loại an toàn đập khác nhau. & Nbsp; Thông tin về đăng ký đập này có thể được tải xuống từ trang DSO của trang web DWS [www.dwa.gov.za/dso/ ]. Lưu ý rằng một số thông tin trong thanh ghi DSO khác với thông tin trong sổ đăng ký được xử lý và phát sinh do sự khác biệt về định nghĩa của các điều khoản. & NBSP; Chiều cao của một con đập là khác nhau vì lý do được đưa ra ở trên. & NBSP; Việc đăng ký đập bắt đầu vào năm 1986 và sau thời gian xây dựng 5 năm, tỷ lệ đăng ký hàng năm vẫn ổn định. & NBSP; Hiện tại có 49 khoản tiền gửi dư lượng của mỏ và công nghiệp [đập chất thải] được đăng ký và đưa vào danh sách. Việc phân phối các đập đã đăng ký theo lớp kích thước và dung lượng hồ chứa được đưa ra trong các bảng dưới đây. Phân phối các đập được đăng ký theo lớp kích thước Lớp kích thước Con số Phần trăm Nhỏ [5 m - 12 m] Trung bình [12 m - 30 m] Lớn [30 m và cao hơn] 3 232 1 033 192 73% 23% 4% Tổng cộng 4 457 100% Phân phối các đập đã đăng ký theo dung lượng lưu trữ hồ chứa Dung lượng [x 106 m3] Con số Phần trăm Nhỏ [5 m - 12 m] Trung bình [12 m - 30 m] Lớn [30 m và cao hơn] 3 232 1 033 Tổng cộng 4 457 Phân phối các đập đã đăng ký theo dung lượng lưu trữ hồ chứa 149 Dung lượng [x 106 m3] 0,00 - 0,05 995 423 129 54 8 3.3% 24.9% 35.7% 22.3% 9.5% 2.9% 1.2% 0.2% Tổng cộng 4 457 100% Phân phối các đập đã đăng ký theo dung lượng lưu trữ hồ chứa Dung lượng [x 106 m3] 0,00 - 0,05 0,05 - 0,10 class 0,10 - 0,25 Tổng cộng 4 457 Phân phối các đập đã đăng ký theo dung lượng lưu trữ hồ chứa Dung lượng [x 106 m3] 0,00 - 0,05 0,05 - 0,10 0,10 - 0,25 0,25 - 1,00 1,00 - 10,00 10,00 - 100,00 100 - 1 000 1 000 - 10 000 1 108 1 591 Gần 75% đập là nhỏ [thấp hơn 12m] và 85% có dung lượng lưu trữ dưới 1 triệu m3. Gần 75% đập là nhỏ [thấp hơn 12m] và 85% có dung lượng lưu trữ dưới 1 triệu m3. Việc phân phối các đập hiện tại được phân loại theo xếp hạng và danh mục tiềm năng nguy hiểm được đưa ra trong các bảng dưới đây. Phân loại các đập hiện có theo kích thước lớp & xếp hạng tiềm năng nguy hiểm Kích thước Tổng cộng 4 457 Phân phối các đập đã đăng ký theo dung lượng lưu trữ hồ chứa Dung lượng [x 106 m3] 0,00 - 0,05 0,05 - 0,10 0,10 - 0,25 0,25 - 1,00 Con số Phần trăm Phần trăm Nhỏ [5 m - 12 m] Trung bình [12 m - 30 m] Lớn [30 m và cao hơn] 3 232 1 033 280 56.0%% 37.3% 6.7% Tổng cộng 4 457 100% Phân phối các đập đã đăng ký theo dung lượng lưu trữ hồ chứa Dung lượng [x 106 m3] 0,00 - 0,05
- Phần trăm phân phối các loại đập ở Nam Phi được hiển thị dưới đây. & NBSP; & NBSP; Một số đập bao gồm sự kết hợp của các loại đập như đập tràn trọng lực bê tông cộng với sườn đất. & Nbsp; & nbsp; Thay đổi công nghệ và đặc điểm địa điểm đập [địa chất, lũ lụt và địa hình] ảnh hưởng đến việc lựa chọn loại đập. & NBSP; Hầu hết các đập ở Nam Phi được xây dựng từ Earthfill.
Loại đập | % Tổng số |
Earthfill | 74% |
Rockfill | 2% |
Trọng lực bê tông | 12% |
Vòm bê tông/trụ | 10% |
- Việc phân phối chiều cao của các đập lớn ở Nam Phi được lập bảng dưới đây. & NBSP; Hầu hết các đập lớn ở Nam Phi có chiều cao thấp hơn 30 m.
Chiều cao phạm vi m | Con số của đập | % Tổng số Phần trăm |
90 | 2 | 0.2% |
- Đập cao nhất ở Nam Phi là con đập Vanderkloof trên sông Orange với chiều cao 108 m.
- Các con đập năm lớn ở Nam Phi được đưa ra trong bảng dưới đây.Big Five Dams in South Africa are given in the table below.
Đập [thứ tự chữ cái] | Chiều cao m | Con số của đập | % Tổng số Phần trăm của đập | % Tổng số Phần trăm km2 |
Gariep | 88 | 1.4 | 5 343 | 352 |
Đập cao nhất ở Nam Phi là con đập Vanderkloof trên sông Orange với chiều cao 108 m. | 89 | 0.6 | 2 267 | 132 |
Các con đập năm lớn ở Nam Phi được đưa ra trong bảng dưới đây. | 93 | 19.8 | 2 617 | 67 |
Đập | 63 | 1.4 | 2 610 | 323 |
[thứ tự chữ cái] | 108 | 1.3 | 3 187 | 133 |
- Khối lượng tường
- triệu m3
- Kho
- dung tích
- Nước uống
- Diện tích bề mặt
- Gariep
- Pongolapoort
Sterkfontein
Chao
Number: A sequence number to track the number of dams.
Locality Number: Based on the Drainage Regions in South Africa and a unique number for the specific dam. The 1999 Drainage Region map is on the DWAF website although there have been some problems in accessing the large file. Some dams have not been allocated a number yet.
//www.dwa.gov.za/Hydrology/Weekly/Drainage.aspx
//www.dwa.gov.za/iwqs/wms/data/000key2data.asp/
Vanderklof The current dam name is given. An asterisk [*] after the name indicates that Notes are included in the appropriate column which might pertain to previous dam name/s or other matters.
Khả năng lưu trữ của đập sterkfontein ở lưu vực sông Vaal trên gần như giống như đập Vaal, trong khi diện tích mặt nước của nó chỉ là 20% so với đập Vaal. & NBSP; Các tổn thất bay hơi từ đập sterkfontein theo đó thấp hơn nhiều so với những người từ đập Vaal. & Nbsp; Do đó, nước được dự trữ trong đập sterkfontein hiệu quả hơn và chỉ được phát hành một khi đập Vaal ở mức hoạt động tối thiểu do đó tiết kiệm tổn thất bay hơi đáng kể. A abandoned; H heightened [raised]; L lowered; U unchanged; R rebuilt; C under construction.
Quốc tế: & NBSP; I nếu mốc đập ở các quốc gia khác nhau. & Nbsp; O Nếu abutment đập ở cùng một quốc gia. I if dam abutments are in different countries. O if dam abutments are in the same country.
Sông: TR = nhánh sông. Tr = Tributary.
Loại đập: & nbsp; Kết hợp các loại đập là phổ biến & nbsp; & nbsp; CB Buttress; BM & nbsp; & nbsp; hàng rào; ER Rockfill; MV nhiều vòm; Trọng lực PG trong khối xây hoặc bê tông; Te đất; VA Arch; XX không niêm yết. Combinations of dam types are common CB buttress; BM barrage; ER rockfill; MV multiple arch; PG gravity in masonry or concrete; TE earth; VA arch; XX unlisted.
Niêm phong: & nbsp; Vị trí và loại thành viên nước được mô tả như sau. The position and type of watertight member is described as follows.
Vị trí: F đối diện ngược dòng; H đập đồng nhất; Tôi lõi; x Không niêm yết.: f upstream facing; h homogenous dam; i core; x unlisted.
Loại: Một bê tông bitum; c bê tông; E Trái đất; m kim loại; P nhựa; x Không niêm yết.: a bituminous concrete; c concrete; e earth; m metal; p plastic; x unlisted.
Nền tảng: & NBSP; R Rock; Đá/đất r/s; Đất s; X Không niêm yết. R rock; R/S rock/soil; S soil; X unlisted.
Chiều cao của đập: & nbsp; Chiều cao tính bằng mét [m] trên nền tảng thấp nhất. Height in metres [m] above lowest foundation.
Chiều dài của đập: & nbsp; Chiều dài tính bằng mét [m] đo tại đỉnh. Length in metres [m] measured at crest.
Khối lượng của cơ thể đập: & nbsp; & nbsp; Thể hiện bằng hàng ngàn mét khối [103 m3]. Expressed in thousands of cubic metres [103 m3].
Công suất hồ chứa: & NBSP; Thể hiện bằng hàng ngàn mét khối [103 m3]. Expressed in thousands of cubic metres [103 m3].
Khu vực hồ chứa: & nbsp; Thể hiện bằng hàng ngàn mét vuông [103 m3]. Expressed in thousands of square metres [103 m3].
Chiều dài của hồ chứa: & nbsp; Thể hiện bằng km tại điểm dài nhất. Expressed in km at the longest point.
Mục đích của hồ chứa: & nbsp; Để giảm ưu tiên c kiểm soát lũ; F Nông nghiệp cá; In order of decreasing priority C flood control; F fish farming;
H thủy điện; Tôi tưới tiêu; N điều hướng; R giải trí; Nguồn cung cấp nước; X Khác hoặc không niêm yết. hydroelectricity; I irrigation; N navigation; R recreation; S water supply; X other or unlisted.
Khu vực hồ chứa: & nbsp; Thể hiện bằng km vuông [km2]. Expressed in square kilometres [km2].
Khả năng tràn: & NBSP; Thể hiện bằng mét khối mỗi giây [M3/s]. Expressed in cubic metres per second [m3/s].
Loại tràn: & NBSP; L Overspill miễn phí; L/V quá mức không có gated; V gated; X Khác. L free overspill; L/V gated-free overspill; V gated; X other.
Vui lòng tải xuống tệp Excel tại đây