Cách tính tỷ lệ pha loãng cổ phiếu

1. Lợi nhuận trên mỗi cổ phần là gì?

Lợi nhuận trên mỗi cổ phần [EPS] là phần lợi nhuận của công ty phân bổ cho từng cổ phiếu thường đang lưu hành. Công ty thường báo cáo số bình quân trọng số các cổ phiếu đang lưu hành trong kỳ hạn báo cáo. Lợi nhuận trên cổ phần, một số đo được sử dụng rộng rãi về khả năng sinh lời, thường được báo cáo theo hai cách: lợi nhuận cơ bản trên cổ phần và lợi nhuận trên cổ phần pha loãng, bao gồm mọi chứng khoán có thể chuyển đổi và chứng chỉ chuyển đổi, chứng chỉ đặc quyền [warrant].

1. EPS - Earnings Per Share - Lãi Cơ Bản Trên 1 Cổ Phiếu

EPS và P/E có ý nghĩa thế nào trong đầu tư?

Tôi muốn biết P/E và EPS là chữ viết tắt của thuật ngữ gì, và các thuật ngữ này có ý nghĩa như thế nào trong đầu tư chứng khoán.

Trả lời:

EPS [Earning Per Share] là lợi nhuận [thu nhập] trên mỗi cổ phiếu.

Đây là phần lợi nhuận mà công ty phân bổ cho mỗi cổ phần thông thường đang được lưu hành trên thị trường. EPS được sử dụng như một chỉ số thể hiện khả năng kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp, được tính bởi công thức:

EPS = [Thu nhập ròng - cổ tức cổ phiếu ưu đãi] / lượng cổ phiếu bình quân đang lưu thông.

Trong việc tính toán EPS, sẽ chính xác hơn nếu sử dụng lượng cổ phiếu lưu hành bình quân trong kỳ để tính toán vì lượng cổ phiếu thường xuyên thay đổi theo thời gian. Tuy nhiên trên thực tế người ta thường hay đơn giản hoá việc tính toán bằng cách sử dụng số cổ phiếu đang lưu hành vào thời điểm cuối kỳ. Có thể làm giảm EPS dựa trên công thức cũ bằng cách tính thêm cả các cổ phiếu chuyển đổi, các bảo chứng [warrant] vào lượng cổ phiếu đang lưu thông.

EPS thường được coi là biến số quan trọng duy nhất trong việc tính toán giá cổ phiếu. Đây cũng chính là bộ phận chủ yếu cấu thành nên tỉ lệ P/E. Một khía cạnh rất quan trọng của EPS thường hay bị bỏ qua là lượng vốn cần thiết để tạo ra thu nhập ròng [net income] trong công thức tính trên.

Hai doanh nghiệp có thể có cùng tỷ lệ EPS nhưng một trong hai có thể có ít cổ phần hơn tức là doanh nghiệp này sử dụng vốn hiệu quả hơn. Nếu như các yếu tố khác là cân bằng thì rõ ràng doanh nghiệp này tốt hơn doanh nghiệp còn lại. Vì doanh nghiệp có thể lợi dụng các kỹ thuật tính toán để đưa ra con số EPS hấp dẫn nên các nhà đầu tư cũng cần hiểu rõ cách tính của từng doanh nghiệp để đảm bảo "chất lượng" của tỉ lệ này. Tốt hơn hết là không nên dựa vào một thước đo tài chính duy nhất mà nên kết hợp với các bản phân tích tài chính và các chỉ số khác.

Tính toán thu nhập trên mỗi cổ phiểu

EPS là phần lợi nhuận của công ty được phân bổ cho mỗi cổ phiếu lưu hành của cổ phiếu phổ thông [common stock] của công ty. Nó được tính bằng cách lấy hiệu của thu nhập ròng sau khi trừ đi chi phí thuế và chi phí lãi vay [net income] của công ty trừ đi cổ tức được thanh toán cho cổ phiếu ưu đãi và sau đó chia cho con số đó bằng số lượng cổ phiếu lưu hành trung bình.

2. Cổ tức là gì?

Cổ tức là một phần lợi nhuận sau thuế được chia cho các cổ đông của một công ty cổ phần. Cổ tức có thể được trả bằng tiền hoặc bằng cổ phiếu.

2.1 Mục đích, ý nghĩa

Mục đích cơ bản của bất kỳ công việc kinh doanh nào là tạo ra lợi nhuận cho những chủ sở hữu của nó, và cổ tức là cách thức quan trọng nhất để việc kinh doanh thực hiện được nhiệm vụ này. Khi công việc kinh doanh của công ty tạo ra lợi nhuận, một phần lợi nhuận được tái đầu tư vào việc kinh doanh và lập các quỹ dự phòng, gọi là lợi nhuận giữ lại, phần lợi nhuận còn lại được chi trả cho các cổ đông, gọi là cổ tức. Việc thanh toán cổ tức làm giảm lượng tiền lưu thông đối với công việc kinh doanh, nhưng việc chia lời cho các chủ sở hữu, sau tất cả mọi điều, là mục đích chính của kinh doanh. Một số công ty trả cổ tức cho cổ đông bằng cổ phiếu thay vì tiền mặt, trong trường hợp này các cổ đông nhận được các cổ phiếu phát hành bổ sung thay vì nhận tiền mặt.

2.3 Giá trị danh định

Giá trị của cổ tức được xác định theo từng năm tại đại hội cổ đông hàng năm của công ty, và nó được thông báo cho các cổ đông hoặc là bằng lượng tiền mặt mà họ sẽ nhận được tính theo số cổ phiếu mà họ đang sở hữu hay số phần trăm trong lợi nhuận của công ty; xem thêm Quyết định chia cổ tức. Cổ tức là như nhau cho mọi cổ phiếu của cùng một loại, hoặc cổ phiếu ưu đãi hoặc cổ phiếu phổ thông [cổ phiếu thường]. Sau khi đã được thông báo, cổ tức trở thành khoản phải trả của công ty. Khi cổ phiếu được bán ngay trước khi cổ tức được thanh toán một khoảng thời gian cụ thể nào đó thì người bán cổ phiếu sẽ là thể nhân hay pháp nhân được nhận cổ tức chứ không phải là người mua những cổ phiếu đó. Điều này có nguyên nhân là do trong danh sách cổ đông của công ty cổ phần chưa có sự thay đổi về các cổ đông do không thể cập nhật kịp thời các thay đổi đó. Tại thời điểm mà người mua chưa có quyền nhận cổ tức, cổ phiếu được gọi là rơi vào tình trạng cựu cổ tức. Điều này thông thường xảy ra trong phạm vi hai [2] ngày trước khi cổ tức được chi trả, tùy theo các quy tắc của thị trường chứng khoán mà công ty cổ phần đó tham gia. Khi cổ phiếu rơi vào tình trạng cựu cổ tức, giá của nó trên thị trường chứng khoán nói chung sẽ giảm theo tỷ lệ của cổ tức. Cổ tức được tính toán chủ yếu trên cơ sở của lợi nhuận chưa sử dụng đến của công ty cũng như viễn cảnh kinh doanh trong những năm kế tiếp. Sau đó nó được đề xuất bởi Hội đồng Quản trị và Ban Kiểm soát [Ủy ban, hay Hội đồng Kiểm soát] trước Đại hội cổ đông hàng năm. Tuy nhiên, phần lớn các công ty cổ phần cố gắng duy trì cổ tức không thay đổi. Điều này giúp cho công ty có được sự tái bảo đảm của các nhà đầu tư, đặc biệt khi thu nhập ở mức thấp do suy thoái kinh tế hay các nguyên nhân khác [phần bổ sung sẽ được lấy ra từ các quỹ dự phòng] cũng như để gửi thông điệp tới các cổ đông là công ty đang lạc quan về viễn cảnh của nó trong tương lai. Một số công ty có các kế hoạch tái đầu tư cổ tức. Các kế hoạch này cho phép các cổ đông sử dụng cổ tức của họ để mua một cách có hệ thống một lượng nhỏ cổ phiếu của công ty, thông thường không có tiền hoa hồng.

2.3 Các lý do không chi trả cổ tức

Các công ty có thể không chi trả cổ tức trong một số trường hợp vì một số lý do sau: Hội đồng Quản trị công ty cũng như đại hội cổ đông tin rằng công ty sẽ có ưu thế trong việc nắm bắt cơ hội nhờ có nhiều vốn hơn và việc tái đầu tư cuối cùng sẽ đem lại lợi nhuận cho các cổ đông hơn là việc thanh toán cổ tức tại thời điểm hiện tại. Lý do này đôi khi là quyết định đúng đắn nhưng đôi khi cũng là sai lầm, và những người chống lại điều này [chẳng hạn như Benjamin Graham và David Dodd, những người phản đối thông lệ này trong tham chiếu tới Phân tích chứng khoán cổ điển năm 1934] thông thường lưu ý rằng trong nhiều trường hợp thì Hội đồng Quản trị hiện hành của công ty đã ép buộc các chủ sở hữu trong việc đầu tư tiền của họ [lợi nhuận từ kinh doanh]. Khi cổ tức được chi trả, các cổ đông tại nhiều quốc gia [trong đó có Hoa Kỳ] phải thanh toán thuế kép từ các cổ tức này: công ty đã phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho nhà nước khi công ty có lợi nhuận, và sau khi cổ tức được thanh toán thì các cổ đông lại phải chi trả thuế thu nhập cá nhân cho nhà nước một lần nữa trên số tiền cổ tức mà họ nhận được. Điều này thường được tránh bằng cách điều chỉnh phần lợi nhuận giữ lại hay bằng việc mua lại cổ phiếu của công ty, bằng cách này các cổ đông không phải nộp thuế do Nhà nước không đánh thuế những giao dịch như vậy.

EPS đã pha loãng [Diluted EPS]

Trong khi công thức cơ bản tính EPS chỉ tính đến cổ phiếu phổ thông đang lưu hành của công ty, thì tính toán EPS đã pha loãng sẽ xem xét tất cả các chứng khoán có thể chuyển đổi[convertible securities].Một công ty có thể có cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi[convertible preferred shares]hoặc quyền chọn cổ phiếu[stock options]mà về mặt lý thuyết có thể trở thành cổ phiếu phổ thông. Nếu việc chuyển đổi này xảy ra, kết quả sẽ là EPSgiảm và do đó, thu nhập bị pha loãng trên mỗi cổ phiếu[diluted earnings per share]của công ty sẽ luôn thấp hơn thu nhập cơ bản trên mỗi cổ phiếu[basic earnings per share].

Với ví dụ trên, ví dụ công ty đã phát hành 2 triệu cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi. Trong trường hợp này, EPS mới sẽ là $1.38 [$18 triệu chia cho 13 triệu].

Tầm quan trọng của EPS

Thu nhập có thể khiến giá cổ phiếu tăng lên, và khi đó, các nhà đầu tư kiếm tiền. Nếu một công ty có thu nhập cao trên mỗi cổ phiếu, điều đó có nghĩa là công ty có nhiều tiền hơn để tái đầu tư vào kinh doanh hoặc phân phối cho cổ đông dưới hình thức trả cổ tức. Trong cả hai trường hợp, các nhà đầu tư hưởng lợi.

Nhược điểm của EPS

Khi thu nhập của công ty tăng lên, đó là dấu hiệu cho thấy công ty đang hoạt động tốt về mặt tài chính và đó là khả năng đầu tư đáng giá. Nhưng như một thước đo về sức khỏe tài chính của công ty, việc tính toán EPS có những hạn chế của nó. Bởi vì các công ty có tùy chọn mua lại cổ phần của mình, họ có thể cải thiện EPS bằng cách giảm số lượng cổ phiếu lưu hành mà không thực sự tăng thu nhập ròng của họ. Về vấn đề này, các công ty chủ yếu có thể thao túng các nhà đầu tư nghĩ rằng họ đang làm tốt hơn thực tế. Hơn nữa, EPS không tính đến các yếu tố như nợ chưa thanh toán của công ty

Bên cạnh đó, EPS không xem xét số vốn cần thiết để tạo thu nhập được đề cập. Nếu hai công ty báo cáo cùng một khoản EPS nhưng một công ty sử dụng ít vốn hơn để mang lại thu nhập đó, công ty đó có lẽ đang quản lý tài nguyên của mình tốt hơn đối tác của mình. Tuy nhiên, thực tế đó sẽ không được phản ánh trong thu nhập trên mỗi cổ phiếu.

Trong bài viết này Nhật Cường xin chia sẻ tới các bạn về chủ đề Cổ tức và cách tính giá điều chỉnh của cổ phiếu trong ngày giao dịch không hưởng quyền. Qua đó giúp chúng ta có thêm kiến thức khi quyết định đầu tư theo trường phái hưởng cổ tức của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn.

Cổ tức là gì?

Cổ tức là cách doanh nghiệp phân phối lại lợi nhuận sau khi huy động được vốn đầu tư từ cổ đông.

Bất kỳ nhà đầu tư nào khi đầu tư vào cổ phiếu đều quan tâm đến 2 yếu tố sau khi đầu tư:

  • Cổ tức [Dividend]
  • Chênh lệch giá mua-bán [Capital Gain]

Có 3 hình thức để doanh nghiệp trả cổ tức cho cổ đông:

  • Cổ tức bằng tiền mặt [Cash Dividend]
  • Mua lại cổ phiếu [Stock buyback – Share repurchases]
  • Cổ tức bằng cổ phiếu [Stock Divedend]

1. Cổ tức tiền mặt [Cash Dividend]

Là cách công ty trả cổ tức bằng tiền mặt trực tiếp đến cổ đông.

Ví dụ: Trong năm 2016, CTCP Tập đoàn Hoa Sen [Cổ phiếu HSG] đã công bố Nghị quyết HĐQT về việc chi trả cổ tức bằng tiền mặt đợt cho niên độ tài chính 2014 – 2015. Cụ thể, cổ đông của HSG chốt quyền ngày 15/04 sẽ nhận mức cổ tức tỷ lệ 25% [01 cổ phiếu nhận 2.500 đồng]. Thời gian thực hiện 28/4/2016.

Một lưu ý khi xem xét yếu tố cổ tức tiền mặt là tỷ lệ chi trả cổ tức [Payout ratio]. Ví dụ: Tỷ lệ Payout ratio là 30%, có nghĩa công ty làm ra lợi nhuận trên một cổ phiếu [EPS – Earning per share] là 10 đồng thì công ty sẽ chi trả 3 đồng cổ tức, 7 đồng còn lại công ty sẽ giữ lại và phân bổ vào phần lợi nhuận còn lại chưa phân phối [Retained earnings].

Tuy nhiên, ở riêng thị trường Việt Nam, chúng ta cần lưu ý khi công ty công bố tỷ lệ chi trả cổ tức, thì tỷ lệ chi trả cổ tức này dựa trên mệnh giá cổ phiếu [một cổ phiếu có mệnh giá niêm yết theo quy định của luật là 10.000 đồng]. Như vậy, dù tỷ lệ cổ tức chi trả rất cao, khi đọc báo hoặc theo dõi thông tin thị trường, các bạn có thể thấy tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt cực kỳ cao, có khi lên đến 50%, 60% hoặc 200% như trường hợp CTCP Kinh Đô [Cổ phiếu KDC] khi chia cổ tức khủng với tỷ lệ 200% bằng tiền mặt. Có nghĩa là nhà đầu tư đang nắm giữ cổ phiếu sẽ được chia thêm 20.000/cổ phiếu.

Ưu điểm của việc trả cổ tức tiền mặt:

Ưu điểm 1: “A bird in hand is worthy two in the bush” là một câu tục ngữ cổ của Hy Lạp được người Anh sử dụng rộng rãi từ thế kỷ 14. Câu tục ngữ này khuyên chúng ta nên bằng lòng và trân trọng những gì mình đang có, không nên tham lam hay chấp nhận rủi ro để chạy theo những thứ có vẻ hào nhoáng hơn nhưng cơ hội có được chúng lại không chắc chắn và câu nói này khá đúng với tâm lý cổ đông khi đầu tư cổ phiếu. Việc nắm giữ tiền mặt cổ tức vẫn là phương án ưa thích của cổ đông khi họ chắc chắn đạt lợi nhuận từ việc đầu tư cổ phiếu.

Ưu điểm 2: Công ty chứng minh mình có một nền tài chính vững mạnh, dòng tiền rõ ràng. Nhà đầu tư thường xem xét đến chính sách chi trả cổ tức tiền mặt của công ty theo thời gian, cổ tức có ổn định và tăng trưởng qua các năm hay không để đánh giá độ hấp dẫn của cổ phiếu khi đầu tư.

Nhược điểm của việc trả cổ tức tiền mặt:

Nhược điểm 1: Nhà đầu tư chịu thuế 2 lần. Lần thứ 1 là khi công ty có lợi nhuận sau thuế [thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp – ở Việt Nam hiện nay là 25%], và thuế suất đánh vào cổ tức cho thu nhập cá nhân nhà đầu tư [5% cho Việt Nam].

Nhược điểm 2: Công ty có thể đã ở vào giai đoạn tăng trưởng ổn định, thấp, qua thời kỳ đầu tư, tăng trưởng “nóng”, ở góc độ tâm lý nhà đầu tư nếu chính sách cổ tức khá ổn định và công ty không đầu tư thêm nhiều máy móc thiết bị qua các năm.

Nhược điểm 3: Bất lợi cho công ty trong một số trường hợp thay vì trả cổ tức, tiền mặt có thể huy động để duy trì vốn lưu động hoặc dự phòng cho các khoản đầu tư tài sản trong tương lai.

2. Mua lại cổ phiếu [Stock buyback – Share repurchases]

Là hình thức công ty thay vì trả cổ tức tiền mặt thì sẽ trả cổ tức cho nhà đầu tư bằng cách mua lại cổ phiếu trên thị trường.

Ưu điểm:

Hình thức mua lại cổ phiếu thường diễn ra lúc thị trường có dấu hiệu suy yếu, giá cổ phiếu tụt giảm. Việc mua lại cổ phiếu thường được công ty tiến hành cao hơn thị giá, do đó giúp nhà đầu tư có lợi khi bán lại cổ phiếu để nhận “cổ tức” từ công ty.

Đây cũng là cách hỗ trợ tăng giá cổ phiếu công ty trong ngắn hạn. Việc mua lại cổ phiếu ở giá cao hơn thị giá như một tín hiệu phát ra từ công ty muốn ám chỉ cho thị trường là giá cổ phiếu đang bị giao dịch thấp hơn giá trị thực mà công ty mong đợi. Số lượng cổ phiếu mua lại làm giảm số cổ phiếu lưu hành trên thị trường [Outstanding Shares], làm EPS tăng lên. Nếu chỉ số P/E trước khi công ty mua lại cổ phiếu không đổi, do EPS tăng do đó thị giá cổ phiếu cũng tăng theo.

Nhược điểm:

Nhược điểm đầu tiên là nhà đầu tư có thể chịu thuế đầu tư vốn [capital gain] khi bán lại cổ phiếu cho doanh nghiệp. Thuế suất đánh vào các khoản lợi nhuận chênh lệch đầu tư vốn hiện nay ở Việt Nam là 20%.

Nhược điểm thứ 2: giá cổ phiếu chỉ tăng trong ngắn hạn. Nếu công ty không chứng minh năng lực tài chính vững vàng, dòng tiền kinh doanh không tiếp tục sinh ra thì thị trường sẽ hành động ngay lập tức để phản ánh đúng giá trị cổ phiếu được giao dịch. Ngoài ra, một vấn đề lưu ý khác là cổ đông có thể đang bị ban lãnh đạo, điều hành của công ty “qua mắt” nếu việc công bố thông tin mua lại cổ phiếu có thể phục vụ mục đích trục lợi cho họ [ví dụ: công bố mua giá cao, sau đó bán cổ phiếu mình đang sở hữu lại cho doanh nghiệp, rồi tuyên bố từ nhiệm].

3. Cổ tức bằng cổ phiếu [Stock Divedend]

Là cách công ty thay vì trả cổ tức tiền mặt, mua lại cổ phiếu thì sẽ phát hành thêm cổ phiếu cho cổ đông.

3.1. Công ty tài trợ cổ tức bằng cổ phiếu từ đâu?

Công ty có thể trả cổ tức bằng cổ phiếu từ các nguồn sau:

  • Lợi nhuận sau thuế chưa phân phối [Retained Earnings].
  • Các quỹ dự phòng doanh nghiệp như: quỹ đầu tư phát triển [Investment & Development fund].
  • Thặng dư vốn cổ phần [Share premiums].

Nhà đầu tư cần lưu ý, việc phát hành cổ tức bằng cổ phiếu không làm thay đổi vốn chủ sở hữu [Shareholder’s equity], và tỷ lệ nắm giữ của mỗi cổ đông trong công ty không đổi [do cùng nhận một tỷ lệ tương ứng cho phần tăng thêm].

Ví dụ: Khi công ty chi trả cổ tức bằng cổ phiếu theo tỷ lệ 5:1 có nghĩa cứ 5 cổ phiếu nắm giữ thì cổ đông có thêm 1 cổ phiếu.

3.2. Công ty được và mất gì khi trả cổ tức bằng cổ phiếu?

Ưu điểm: Nhà đầu tư tránh được thuế đánh vào cổ tức tiền mặt, khi nhận thêm cổ tức bằng cổ phiếu. Ngoài ra, ở góc độ công ty, công ty có thể tránh việc chi trả cổ tức bằng tiền mặt khi đang cần dùng số tiền đó để đầu tư vốn lưu động hoặc tài sản cổ định [Nhà máy, thiết bị, v.v…]. Bên cạnh đó, việc trả cổ tức bằng cổ phiếu còn giúp tăng thanh khoản giao dịch cổ phiếu, khi số lượng cổ phiếu phát hành thêm tăng lên, và giá được điều chỉnh giảm tương ứng. Do đó, cơ hội cổ phiếu đến với nhiều nhà đầu tư hơn, và cơ hội tăng giá cho chính bản thân cổ phiếu cũng xảy ra.

Nhược điểm: Do số cổ phiếu lưu hành tăng lên, vốn hóa không đổi nên thị giá một cổ phiếu sau khi trả cổ tức bằng cổ phiếu sẽ giảm. Bên cạnh đó, nếu công ty sử dụng tiền thay vì trả cổ tức tiền mặt vào các dự án không tạo thêm khả năng lợi nhuận cho nhà đầu tư, giá cổ phiếu có thể giảm, khiến nhà đầu tư mất đi cơ hội nếu nhận tiền mặt cổ tức thay vì cổ tức bằng cổ phiếu.

3.3. Phân biệt cổ tức bằng cổ phiếu với chia tách cổ phiếu và cổ phiếu thưởng:

Về nguyên tắc, dù công ty trả cổ tức bằng cổ phiếu [Stock Dividend] hay chia tách cổ phiếu [Stock Split], giá trị vốn chủ sở hữu không đổi. Tuy nhiên:

  • Trả cổ tức bằng cổ phiếu: có sự dịch chuyển qua lại giữa các tài khoản con trong vốn chủ sở hữu trên bảng cân đối kế toán. Ví dụ: quỹ đầu tư phát triển tài trợ cho nguồn trả cổ tức bằng cổ phiếu, thì quỹ này sẽ giảm một phần đúng bằng phần tăng thêm ở vốn điều lệ công ty.
  • Chia tách cổ phiếu: không làm ảnh hưởng đến bất kỳ khoản nào trên vốn chủ sở hữu.

Ví dụ: Một công ty trả cổ tức bằng cổ phiếu theo tỷ lệ 2:1 hay tách cổ phiếu theo tỷ lệ 2:1 thì số cổ phiếu mới đưa vào lưu hành đều bằng nhau [trước kia nhà đầu tư có 2 cổ phiếu thì nay sẽ có 3 cổ phiếu], nhưng các thành phần tài khoản trong vốn chủ sở hữu sẽ thay đổi, trong trường hợp trả cổ tức bằng cổ phiếu, còn trường hợp chia tách cổ phiếu thì không.

Cổ phiếu thưởng [stock compensation]: thực chất, có một sự hiểu lầm nhỏ khi sử dụng cổ phiếu thưởng tương đương như cổ tức bằng cổ phiếu. Trong cổ phiếu thưởng, có hai loại:

  • Cổ phiếu thưởng dành cho nhân viên, như các chương trình ESOP mua cổ phiếu ưu đãi dành cho nhân viên, ví dụ: mua ở mệnh giá so với mức giá cao của thị giá. Do đó, công ty không tài trợ cho cổ phiếu thưởng dạng này [ngoại trừ bán ưu đãi thêm cổ phần mới].
  • Cổ phiếu thưởng dành cho cổ đông hiện hữu, đây chính là cổ tức bằng cổ phiếu mà công ty dành cho cổ đông. Công ty tài trợ bằng nguồn lực công ty, cổ đông không phải bỏ thêm tiền mà vẫn tăng số lượng cổ phiếu nắm giữ trong công ty [nhưng tỷ lệ sở hữu không đổi].

3.4. Minh họa trả cổ tức bằng cổ phiếu qua trường hợp CTCP Tập đoàn Hoa Sen [HSG]:

HSG đã trả cổ tức bằng cổ phiếu, mà công ty gọi là cổ phiếu thưởng đợt 2 niên độ tài chính 2014 – 2015 cho cổ đông theo tỷ lệ 100:50 [tương ứng 50] [cổ đông sở hữu 10 cổ phiếu sẽ được nhận 5 cổ phiếu mới. Tổng lượng cổ phiếu mới HSG phát hành để trả cổ tức khoảng 65.5 triệu đơn vị. Thời gian thực hiện chậm nhất là ngày 15/07/2016. Mục đích sử dụng vốn của đợt phát hành cổ phiếu trả cổ tức: Bổ sung vốn lưu động phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.

Tóm lại: Việc trả cổ tức bằng cổ phiếu có thể cho thấy công ty có khả năng mở rộng nhu cầu kinh doanh, đầu tư trong thời gian tới. Nhà đầu tư cần kiểm tra nguồn tài trợ cổ phiếu từ chương trình cổ tức này, để tránh tình trạng công ty gian lận.

4. Ngày GDKHQ [Ngày giao dịch không hưởng quyền] là gì? Ngày ĐKCC [ngày đăng ký cuối cùng], ngày chốt danh sách, ngày thanh toán là gì? Cách tính giá điều chỉnh của cổ phiếu trong ngày GDKHQ?

4.1. Khái niệm:

Ngày giao dịch không hưởng quyền là ngày giao dịch mà nhà đầu tư mua chứng khoán sẽ không được hưởng các quyền lợi của cổ đông như quyền nhận cổ tức, quyền mua cổ phiếu phát hành thêm, quyền tham dự ĐHCĐ…

Ngày chốt danh sách khách hàng sở hữu chứng khoán chính là “ngày đăng ký cuối cùng”, là ngày tổ chức phát hành lập danh sách người sở hữu chứng khoán với mục đích để thực hiện các quyền cho cổ đông. Tại ngày chốt danh sách, nếu nhà đầu tư có tên trong danh sách người sở hữu chứng khoán sẽ được nhận các quyền của mình như quyền nhận cổ tức, quyền mua cổ phiếu phát hành thêm…

Quy định hiện nay, bắt đầu từ 1/1/2016, với các giao dịch bình thường, thời hạn thanh toán là T+2, nghĩa là thời hạn thanh toán là 2 ngày, ở đây được hiểu là 2 ngày làm việc [không tính thứ Bảy, Chủ nhật và ngày nghỉ lễ]. Cụ thể là thời gian từ ngày giao dịch [mua/bán] đến ngày nhận được chứng khoán/tiền là 2 ngày [ngày giao dịch tính là ngày T+0]. Do đó, nhà đầu tư mua cổ phiếu 1 ngày trước ngày đăng ký sở hữu [đăng ký cuối cùng] sẽ không có tên trong sổ cổ đông, vì giao dịch chưa được thanh toán, do vậy sẽ không được hưởng quyền.

Như vậy, nhà đầu tư mua chứng khoán trước ngày giao dịch không hưởng quyền sẽ có tên trong danh sách được hưởng quyền. Nếu mua vào ngày giao dịch không hưởng quyền hoặc sau ngày giao dịch không hưởng quyền thì nhà đầu tư sẽ không có tên trong danh sách người sở hữu chứng khoán được hưởng quyền. Chỉ cần cổ đông có tên trong danh sách vào ngày chốt quyền, cổ đông đó đương nhiên được hưởng quyền lợi, không kể cổ đông đó đã giữ cổ phiếu từ lâu hay mới chỉ được ghi tên vào trước ngày chốt quyền.

Ngày thanh toán là ngày cổ tức bằng tiền mặt [hoặc bằng cổ phiếu] sẽ về tài khoản của nhà đầu tư.

Ví dụ minh họa: Ngày 15/12/2015, CTCP Ngân hàng Vietcombank [Cổ phiếu VCB] công bố tạm ứng cổ tức năm 2015 với tỷ lệ 15%/mệnh giá [tương đương với 1.500 đồng/CP], đồng thời chia cổ phiếu thưởng với tỷ lệ: 100:10 [tương đương 10%] và phát hành thêm theo tỷ lệ: 100:20 giá 10.000 đồng để tăng vốn điều lệ. Ngày giao dịch không hưởng quyền là ngày 8/1/2016 [thứ Sáu] và ngày đăng ký cuối cùng là ngày 11/1/2016 [thứ Hai]. Như vậy, vào ngày 7/1/2016, tất cả các cổ đông đang nắm giữ cổ phiếu VCB sẽ được hưởng các quyền như trên [hoặc, vào ngày 11/1/2016, tất cả các cổ đông có tên trong sổ đăng ký cổ đông của VCB sẽ được hưởng các quyền như trên]. Vì áp dụng thời gian thanh toán theo quy định T+2 [không tính thứ Bảy, Chủ Nhật], ngày giao dịch không hưởng quyền là 8/1/2016 nên nhà đầu tư nào mua cổ phiếu VCB từ ngày 8/1/2016 trở đi sẽ không được hưởng các quyền như trên.

4.2. Các ký hiệu giao dịch không hưởng quyền:

Vào các ngày giao dịch không hưởng quyền, trên bảng điện tử sẽ xuất hiện các ký hiệu giao dịch tương ứng như sau:

“XR”: Giao dịch không hưởng quyền đặt mua cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư phát hành thêm cho cổ đông hiện hữu.

“XD”: Giao dịch không hưởng cổ tức của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ.

“XA”: Giao dịch không hưởng cổ tức, quyền mua cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư phát hành thêm cho cổ đông hiện hữu trong cùng một ngày.

“XI”: Giao dịch không hưởng lãi trái phiếu.

4.3. Cách tính giá điều chỉnh của cổ phiếu trong ngày GDKHQ:

Trong đó:

P: Giá hiện tại

P’: Giá ngày GDKHQ

Pα: Giá cổ phiếu phát hành thêm

α : Tỷ lệ cổ phiếu phát hành thêm

β : Tỷ lệ chia cổ phiếu thưởng [cổ tức bằng cổ phiếu]

C : Cổ tức bằng tiền

Ví dụ:

Cổ phiếu VCB vào ngày 7/1/2016 có giá 30.000 đồng. Ngày 8/1/2016 là ngày GDKHQ của cổ phiếu VCB với các quyền sau:

  • Tỷ lệ chia cổ tức bằng tiền: 100:15 [tương đương 15% hay 1.500 đồng]
  • Tỷ lệ chia cổ phiếu thưởng: 100:10 [tương đương 10%]
  • Phát hành thêm theo tỷ lệ: 100:20 giá 10.000 đồng

Do vậy, giá cổ phiếu VCB vào ngày GDKHQ 8/1/2015 được tính như sau:

5. Tích lũy cổ phiếu lâu dài để hưởng cổ tức và đa dạng hóa trong đầu tư không phải là phương pháp an toàn nhất.

Nhiều nhà đầu tư chọn cho mình cách đầu tư lâu dài để hưởng cổ tức. Xét trên lý thuyết thì có vẻ cách đầu tư này khá an toàn khi hàng năm vẫn được hưởng cổ tức từ các cổ phiếu có lịch sử trả cổ tức đều đặn. Tuy nhiên, đó chỉ là xét trên lý thuyết hàng nhiều chục năm, thậm chí là phải nắm giữ thật lâu hơn nữa bạn mới có thể có lãi với cách đầu tư này [xét trong trường hợp giá cổ phiếu không thay đổi]. Vì đơn giản mỗi lần trả cổ tức, giá cổ phiếu đều bị điều chỉnh đi tương ứng như công thức mà Nhật Cường đã nêu ở trên. Nên việc đầu tư hưởng cổ tức chỉ phù hợp đối với các cổ phiếu tăng trưởng đều đặn qua các năm [đó là cơ sở để giá cổ phiếu có xu hướng đi lên qua mỗi năm]. Tuy nhiên, việc nắm giữ một cổ phiếu bất chấp thị trường diễn biến theo chiều hướng nào [đi lên và đi xuống] rõ ràng không phải là một phương cách tối ưu. Nếu không có những nguyên tắc bán ra nghiêm khắc và có kỷ luật thì bạn sẽ làm thế nào để ngăn chặn thua lỗ do sự sói mòn, thậm chí làm mất tiền lãi ở các cổ phiếu khác mà bạn đang sở hữu?

Có nhiều người lại chọn sự đa dạng hóa trong đầu tư – tức là bạn mua nhiều cổ phiếu khác nhau. Cách này đôi khi cũng đúng. Nhưng hầu hết các nhà đầu tư đa dạng hóa cao và lâu dài đều công nhận câu châm ngôn: “Trộm vào nhà sẽ lấy đi mọi thứ”. Nói cách khác, gặp lúc thị trường downtrend [đi xuống] giống như từ năm 2007 – 2009, khi chỉ số VN-Index giảm từ đỉnh 1179,32 điểm [ngày 30/03/2007] xuống còn 234,66 điểm [ngày 27/02/2009] cuối cùng sẽ kéo tất cả các cổ phiếu dẫn đầu đi xuống.

Sau khi thị trường đạt tới đỉnh điểm đầu năm 2007, Cổ phiếu FPT – một trong những cổ phiếu lớn nhất thời điểm đó đã liên tục tăng giá cho tới khi nó cũng đi xuống vào tháng 3/2007. Nhiều người vẫn không thể tin đó là FPT khi tháng 2/2007 nó được bán ra với giá hơn 600.000 đồng nhưng nửa năm sau đó chỉ còn 300.000 đồng và cuối cùng 1 năm sau đó – tháng 3/2008 giá cổ phiếu FPT xuống thấp nhất chỉ còn 60.000 đồng/ 1 cổ phiếu [mất 90% từ giá đỉnh].

Nói tóm lại, đầu tư để hưởng cổ tức hay mua 20 tới 30 cổ phiếu khác nhau chưa hẳn đã tốt nếu tất cả số cổ phiếu này giảm 50% trong thị trường downtrend [đi xuống]. Một số nhà quản lý quỹ tốt nhất từ năm 2007 tới 2009 đã chứng kiến danh mục vốn đầu tư của họ giảm 50-60% thậm chí hơn. Sở hữu hàng vài chục cổ phiếu khác nhau hoặc nhiều hơn không giúp họ tránh khỏi những mất mát. Vì thế đa dạng hóa không thực sự là một phương cách an toàn.

Nhà đầu tư nổi tiếng Gerald Loeb từng kết luận: Đa dạng hóa diện rộng là một “hàng rào ngăn cách, nó dẫn con người tới sự thiếu hiểu biết”. Một cách tiếp cận chắc chắn hơn, theo Nhật Cường, là sở hữu một nhóm cổ phiếu nhỏ, hiểu rõ chúng cả bên trong lẫn bên ngoài, xem xét kỹ càng để có thể nhanh chóng đối phó với những tình huống xấu.

Nhật Cường xin nhắc lại: tất cả các cổ phiếu đều không tốt trừ khi chúng lên giá. Phản ứng nhanh hay chậm trước khi thiệt hại xảy ra nếu chúng đi xuống sẽ tùy thuộc hoàn toàn vào bạn. Vấn đề là không ai trong các bạn luôn sẵn sàng như thế.

Lấy bạn làm ví dụ. Vì đã đầu tư rất nhiều vào cổ phiếu – không chỉ tiền bạc mà cả thời gian, kinh nghiệm và tình cảm – nên bạn sẽ không muốn chúng ra đi. Bạn sẽ đưa ra những lý do. “Cổ phiếu của tôi chẳng có vấn đề gì cả”, “ Đó là do cả thị trường có vấn đề”. Hoặc “Công ty tôi vẫn hoạt động tốt, nhưng nền kinh tế đang lâm vào thời kỳ biến động – và nó cũng sẽ qua đi nhanh chóng”. Hoặc, “Nó đã đi xuống từ trước và sẽ đi lên lại” hay “Mức này chắc chắn là mức thấp nhất, nó sẽ không thấp hơn được nữa”…

Những lời giải thích trên đều có thể hiểu được. Đó là bản chất của con người. Nhưng để thành công trên thị trường bạn phải hoàn toàn vượt qua được điều này. “Cảm xúc là kẻ thù số một của thành công”, bạn phải ngăn chặn sự chi phối của tình cảm và phải khách quan. Hãy để những nguyên tắc và kỷ luật điều khiển quyết định của bạn. Nhật Cường xin nhắc lại lần nữa, thị trường chứng khoán sẽ không quan tâm bạn là ai hay bạn nghĩ gì, hy vọng gì. Jesse Livermore – một nhà đầu tư nổi tiếng đã từng nói: “Khi sợ hãi bạn nên hy vọng, khi hy vọng bạn nên sợ hãi”. Nói cách khác, khi cổ phiếu của bạn tăng, bạn nên hy vọng nó tăng cao hơn thay vì sợ nó không tăng nữa và bán ra khi nó bắt đầu có dấu hiệu đảo chiều đi xuống. Khi cổ phiếu đi xuống và lỗ bạn nên sợ nó sẽ tiếp tục đi xuống thay vì hy vọng nó sẽ đi lên.

Làm cho cổ phiếu trở nên khó bán hơn sẽ là quan điểm của nhiều người và bạn sẽ nghe những quan điểm này không chỉ về cổ phiếu mà còn về thị trường hoặc kinh tế nói chung.

Bạn sẽ thấy các “chuyên gia” – có thể là những chuyên gia đã từng khuyên bạn nên mua cổ phiếu lần đầu tiên – khăng khăng rằng một cổ phiếu nào đó vẫn hoạt động rất tốt và hiện tại chỉ hạ vài phần trăm. Nhưng xin nhắc lại đây chỉ là những nhận xét cá nhân. Mà trên thị trường chứng khoán những quan điểm cá nhân không có giá trị. Quan điểm duy nhất bạn nên quan tâm chính là diễn biến của cổ phiếu bạn đang nắm giữ. Nó sẽ đi theo bất kỳ hướng nào nó muốn, vì nó hoàn toàn phụ dựa trên quy luật cung cầu và mọi thứ hoàn toàn phụ thuộc vào bạn để chắc chắn thị trường không đưa bạn tới chỗ không quay lại được.

Tương tự, người môi giới hay người quản lý tài khoản cho bạn cũng phải can đảm đề nghị những bước đi quyết định. Nếu anh ta không làm được việc này, bạn phải biết anh ta đến từ đâu. Anh ta có thể đã khuyên 50 người khác mua loại cổ phiếu giống như bạn. Bạn có thể hình dung điều gì anh ta sắp trải qua khi anh ta gọi điện báo cho khách hàng rằng đó là một sai lầm và sẽ sửa sai ngay khi có thể. Đây thực sự là việc không ai muốn làm. Anh ta sẽ phải đối mặt với tất cả những vấn đề tâm lý mà một nhà đầu tư cá nhân trực tiếp phải vượt qua, nhưng hầu hết không làm được. Đây là lý do bạn và người quản lý tài khoản nên hiểu từ đầu rằng sẽ có lúc – và xảy ra thường xuyên – bạn sẽ phải bán ra một cổ phiếu nào đó mà cả hai người đều đồng ý mua và đó chính là đầu tư.

Đây đúng là bài học khó nhất mà tất cả các nhà đầu tư phải học. Nó cũng là điều mà nhiều người không bao giờ học được. Đó là lý do nhiều người không bao giờ có được kết quả vượt trội. Nhưng nếu bạn sử dụng hệ thống Nhật Cường đã trình bày, rủi ro với bất kỳ cổ phiếu nào cũng chỉ từ 7 tới 8%.

Chúc các bạn luôn tự tin và đầu tư thành công!

————————
Phan Nhật Cường – Chuyên viên Tư vấn Chứng khoán Cao cấp
Nhật Cường nhận Quản lý Tài khoản, Tư vấn Đầu tư và Ủy thác Đầu tư Chứng khoán. Mọi thông tin chi tiết xin liên hệ:

Điện thoại / Facebook / Viber: 0912842224 / 0982842224

Skype: dautu.cophieu Email:

Website: dautucophieu.net

Video liên quan

Chủ Đề