Câu lạc bộ golf gỗ 5 được xếp hạng cao nhất năm 2022

Golf

Cơ quan quản lý cao nhấtThi đấu lần đầuĐặc điểmVa chạmHình thứcTrang bịHiện diệnOlympic

Một tay golf ở tư thế kết thúc sau một cú phát bóng

R&A
USGA
Liên đoàn golf quốc tế
Thế kỷ 15 ở Scotland
Không
Ngoài trời
Gậy golf, bóng golf, và nhiều dụng cụ khác
1900, 1904, 2016,[1] 2020[2]

Golf, còn được viết là gôn [bắt nguồn từ từ tiếng Pháp golf /ɡɔlf/],[3] là một môn thể thao mà người chơi sử dụng nhiều loại gậy để đánh bóng vào một lỗ nhỏ trên sân golf sao cho số lần đánh càng ít càng tốt.

Không giống như hầu hết các trò chơi với bóng khác, golf không yêu cầu một khu vực thi đấu được tiêu chuẩn hóa. Cuộc chơi diễn ra trên một sân đã được sắp xếp theo một chu trình định sẵn gồm 09 lỗ hoặc 18 lỗ [hay hố]. Mỗi lỗ trên sân đi kèm với một khu vực phát bóng, và một khu vực putting green bao gồm lỗ golf [rộng 10,79 cm]. Ở giữa hai khu vực trên là các dạng địa hình tiêu chuẩn khác như fairway [khu vực giữa tee box và putting green], rough [cỏ dài], hố cát, và các chướng ngại vật [nước, đá, bụi cỏ]. Tuy nhiên mỗi khu vực lỗ trên sân có một thiết kế và cách bố trí khác nhau.

Có hai kiểu thi đấu golf chính. Trong kiểu stroke play [chơi theo gậy] người chơi golf cố gắng đạt số gậy thấp nhất; còn ở kiểu match play cá nhân hay đội chơi cố gắng thắng nhiều hố hơn đối phương. Stroke play là thể thức phổ biến nhất.

Xuất xứ[sửa | sửa mã nguồn]

Những cậu bé nhà MacDonald chơi golf, thế kỷ 18.

Mặc dù môn golf hiện đại có xuất xứ tại Scotland thế kỷ 15, tuy nhiên xuất xứ cổ đại của môn thể thao này vẫn không rõ ràng và còn nhiều tranh cãi. Theo một số sử gia,[4] trong môn paganica của người La Mã, người chơi sử dụng một cây gậy cong để đánh một quả bóng da nhồi. Lý thuyết này cho rằng paganica lan khắp châu Âu khi người La Mã chinh phục trong giai đoạn thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên và cuối cùng phát triển thành môn thể thao hiện đại.[5] Những sử gia khác lại cho rằng môn golf hiện nay phát triển từ môn chùy hoàn, một trò chơi Trung Quốc tồn tại từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 14.[6] Một văn bản có niên đại 1368 mang tên "Bữa tiệc mùa thu" vẽ lại cảnh một người trong triều đình dùng một cây gậy đánh một trái bóng nhỏ với mục đích đưa bóng vào hố. Trò chơi này được cho là du nhập vào châu Âu từ thời Trung cổ. Một trò chơi có nét giống golf có tên là cambuca ở Anh [ở Pháp gọi là chambot].[7]

Ở Việt Nam cũng có một trò chơi dân gian mang tính chất tương tự là môn "Đánh phết", về sau trò này trở thảnh một môn thể thao phổ biến trong các ngày tết, ngày hội. Tương truyền, từ thời Hai Bà Trưng, trò đánh phết đã được tổ chức để rèn luyển thể lực và mưu trí cho quân sĩ.

Bốn tay golf ở khu vực phát bóng của sân golf, thập niên 1930

Môn thể thao hiện đại có nguồn gốc tại Scotland. Bản ghi chép đầu tiên về golf tại đây là lệnh cấm chơi trò chơi này của James II vào năm 1452 vì nó khiến quân sĩ tại đây bỏ bê việc luyện tập bắn cung.[8] Vua James IV dỡ bỏ lệnh cấm vào năm 1502 khi chính ông cũng trở thành một tay golf.[9] Đối với nhiều golfer thì sân Old Course tại St Andrews, một sân golf kiểu links có niên đại từ năm 1574, được coi là thánh địa của golf.[10] Vào năm 1764, sân golf 18 lỗ tiêu chuẩn được ra đời tại St Andrews khi các thành viên cải tạo sân từ 22 lỗ thành 18 lỗ.[11] Một cuộc thi đấu golf diễn ra tại Musselburgh Links, East Lothian, Scotland vào ngày 2 tháng 3 năm 1672. Musselburgh Links cũng được Guinness chứng nhận là sân golf lâu đời nhất thế giới.[12][13] Luật golf cổ nhất còn tồn tại được soạn vào tháng 3 năm 1744 dành cho Company of Gentlemen Golfers, sau này trở thành The Honourable Company of Edinburgh Golfers, áp dụng cho sân golf Leith, Scotland.[14] Giải golf cổ nhất còn tồn tại, và cũng là giải major đầu tiên, The Open Championship, diễn ra lần đầu vào ngày 17 tháng 10 năm 1860 tại câu lạc bộ golf Prestwick thuộc Ayrshire, Scotland với những chức vô địch major đầu tiên thuộc về những người Scotland.[15] Hai người Scotland tới từ Dunfermline là John Reid và Robert Lockhart lần đầu biểu diễn golf tại Hoa Kỳ vào năm 1888. Reid sau đó thành lập câu lạc bộ golf đầu tiên tại Mỹ ngay trong năm đó mang tên St. Andrews Golf Club ở Yonkers, New York.[16]

Sân golf[sửa | sửa mã nguồn]

Một sân golf gồm có 9 hoặc 18 lỗ, mỗi lỗ bao gồm một tee box [được đánh dấu bằng hai marker ở hai bên cho biết giới hạn của khu vực phát bóng hợp lệ], fairway, rough cùng các chướng ngại vật khác, và green [nơi có cột cờ và lỗ golf]. Tee-box là nơi thực hiện cú đánh đầu tiên, để đưa bóng tới càng gần với vùng green càng tốt hay ít nhất là nằm trên vùng fairway. Từ vị trí fairway, người chơi đánh bóng hướng tới vùng green và đẩy bóng vào lỗ.

Sân golf thông thường có 18 lỗ, nhưng các sân golf 9 lỗ cũng phổ biến và có thể chơi 2 lần như một vòng của sân golf 18 lỗ.[17][18]

Các sân golf Scotland thời kỳ đầu chủ yếu đặt trên đất nối nhau, các cồn cát phủ đất trực tiếp trên đất liền từ các bãi biển.[19]

Sân golf 18 lỗ đầu tiên ở Hoa Kỳ nằm ở trang trại cừu thuộc Downers Grove, Illinois, năm 1892. Sân golf này vẫn tồn tại cho đến ngày nay.[20] Sân golf cổ nhất ở Việt Nam là câu lạc bộ Golf Dalat Palace, vị trí sân golf này đã được đưa vào quy hoạch năm 1923, và được xây dựng năm 1930.

Cách chơi[sửa | sửa mã nguồn]

1=khu phát bóng, 2=chướng ngại vật nước, 3=rough, 4=ngoài biên, 5=hố cát, 6=chướng ngại vật nước, 7=fairway, 8=green, 9=cột cờ, 10=lỗ

Một vòng thi đấu golf gồm 18 lỗ theo thứ tự được xác định bởi cách thức bố trí sân. Người chơi chỉ chơi một lần tại một hố. Một cuộc chơi có thể có số lượng người chơi bất kỳ. Một nhóm chơi thường có 1, 2, 3 hoặc 4 người cùng chơi trong vòng đó. Thời gian thông thường để kết thúc một vòng 9 lỗ là hai tiếng và 18 lỗ là bốn tiếng.

Mỗi hố golf bắt đầu bằng việc đặt bóng vào cuộc chơi ở khu vực phát bóng [còn gọi là tee box hoặc tee] và đánh bóng đi bằng gậy. Đối với cú đánh đầu tiên ở mỗi hố, người chơi được phép [nhưng không bắt buộc] đặt trái bóng trên một giá đỡ gọi là tee trước khi đánh. Tee là một cọc nhỏ có tác dụng nâng trái bóng cao hơn mặt sân vài xentimét. Tee thường làm bằng gỗ hoặc chất dẻo. Trước đây các golf thủ sử dụng các đụn cát để nâng quả bóng lên cao. Một vài sân golf vẫn yêu cầu dùng cát thay vì dùng tee cắm để giảm thiểu rác và bớt làm hại mặt sân ở khu vực phát bóng. Tee giúp giảm thiểu sự tiếp xúc của mặt đất và cỏ lên chuyển động của gậy và dễ đánh trúng bóng hơn, và do đó đánh xa hơn.

Vì cú đánh ban đầu thường có mục đích là đưa bóng đi xa [tầm xa thông thường là 225 thước Anh [210 m]], nên cú phát bóng còn được gọi là cú "drive" bằng một cây gậy gỗ thân dài, đầu to [gọi là gậy "driver"]. Các lỗ có khoảng cách ngắn có thể bắt đầu bằng các loại gậy khác, ví dụ như các loại gậy gỗ số lớn hoặc gậy sắt. Khi trái bóng ngừng lăn, tay golf sẽ tiếp tục thực hiện các cú đánh [gọi chung là "lay-up"] như cú "tiếp cận", cú "pitch", hay "chip", cho tới khi bóng vào green, nơi người chơi sẽ "đánh nhẹ" quả bóng vào lỗ. Mục tiêu đưa bóng vào lỗ với số lần đánh càng ít càng tốt sẽ khó thành khi người chơi gặp phải các vật cản như những khu vực cỏ dài và rậm hơn gọi là "rough" [thường ở hai bên của fairway], có tác dụng làm chậm chuyển động của bóng khi tiếp xúc và người chơi cũng khó đánh bóng đi theo ý muốn nếu bóng nằm ở khu vực này; "dogleg", những khúc uốn ở fairway thường đòi hỏi người ta thực hiện những cú đánh ngắn; hố cát [hay bẫy cát]; và bẫy nước như ao hồ hay dòng suối.[17]

Ở các cuộc đấu tính gậy theo luật golf, mỗi vận động viên đánh bóng tới khi bóng vào lỗ bất kể phải mất bao nhiêu gậy. Ở lối chơi match play người chơi được phép nhấc bóng lên và bỏ cuộc tại hố đó nếu biết chắc mình không thể thắng. Khi chơi tính số gậy với mục đích giao hữu, người chơi có thể bỏ cuộc tại hố đó nếu có ba gậy nhiều hơn par [hay còn gọi là "triple bogey"]; mặc dù việc này về cơ bản vi phạm điều luật 3-2, nhưng hành động bỏ cuộc trước này có thể coi là một cử chỉ lịch sự đối với những người chơi khác, đồng thời tránh việc để thua quá cách biệt, tự gây ức chế hay chấn thương cho bản thân.

Khoảng cách từ tee box thứ nhất tới green thứ 18 có thể sẽ rất dài, có thể lên tới 7.000 thước Anh [6.400 m], và nếu tính thêm quãng đường từ green của hố này tới tee của hố kia, một người dù kinh nghiệm tới mấy cũng phải di chuyển chừng hơn 5 dặm một vòng chơi. Việc di chuyển có thể được trợ giúp bằng xe golf chạy điện. Tuy nhiên đa phần người chơi thường đi bộ trên sân đồng thời vác thêm bao gậy ở vai hoặc dùng xe kéo bao gậy. Ở nhiều giải trẻ và nghiệp dư, người chơi buộc phải đi bộ và tự vác túi đồ của mình, nhưng ở giải chuyên nghiệp và một số giải nghiệp dư hàng đầu, cũng như các câu lạc bộ tư nhân hạng sang, người chơi có thể được một caddy tháp tùng. Những người caddy có nhiệm vụ mang và quản lý đồ đạc của người chơi và, theo luật, được phép đưa ra lời khuyên trên sân.[21] Caddy chỉ được phép tư vấn cho người chơi mà họ phục vụ chứ không được tư vấn các đối thủ khác.

Luật lệ và quy tắc[sửa | sửa mã nguồn]

Luật chơi golf trên thế giới được chuẩn hóa và quản lý bởi The R&A và Hiệp hội golf Hoa Kỳ [USGA].[22][23]

Người ta cũng đề ra các luật lệ nghiêm ngặt đối với các tay golf nghiệp dư.[24] Về cơ bản, bất cứ ai từng nhận tiền công hoặc tiền bồi hoàn nhờ việc hướng dẫn, hay chơi golf để kiếm tiền, thì không được coi là nghiệp dư và không thể tham dự các giải đấu chỉ dành riêng cho người nghiệp dư. Tuy vậy, các tay golf nghiệp dư có thể nhận các khoản phí miễn là tuân theo các nguyên tắc nghiêm ngặt; họ cũng có thể nhận các giải thưởng không phải bằng tiền mặt trong giới hạn cho phép của Rules of Amateur Status.

Ngoài luật thành văn, các tay golf cũng cần tuan theo một bộ quy tắc gọi là quy tắc ứng xử golf. Các hướng dẫn quy tắc ứng xử bao trùm lên nhiều vấn đề như sự an toàn, công bằng, tốc độ chơi, sự tuân thủ của người chơi trong việc chăm sóc sân. Tuy việc vi phạm quy tắc ứng xử không bị phạt, nhưng người chơi vẫn thường tuân theo nó nhằm cải thiện trải nghiệm chơi của tất cả mọi người.

Hình phạt[sửa | sửa mã nguồn]

Các hình phạt phát sinh trong từng tình huống nhất định. Người chơi bị phạt gậy nếu vi phạm quy tắc hoặc đánh bóng khiến bóng rơi vào một tình huống bóng không thể đánh được.

Làm mất bóng hoặc đánh bóng ra ngoài biên bị phạt một gậy và phạt thêm khoảng cách đánh bóng [luật 27–1]. Trang bị của người chơi làm xê dịch trái bóng hoặc việc loại bỏ các trở ngại [như lá cây, gạch đá,...] khiến bóng bị xê dịch thì bị phạt một gậy [luật 18–2]. Bóng của người chơi rơi vào chướng ngại nước thì bị phạt một gậy [luật 26]. Nếu golfer đánh nhầm bóng [luật 19–2] hoặc dùng putt đánh vào bóng của bạn chơi [luật 19–5], thì người chơi bị hai gậy phạt. Đôi khi việc vi phạm có thể dẫn tới việc bị loại khỏi cuộc chơi. Người chơi có thể bị loại vì gian lận, viết điểm thấp hơn thực tế, hoặc vì những hình thức vi phạm luật dẫn tới cú đánh không hợp lệ...[25]

Trang bị[sửa | sửa mã nguồn]

Gậy golf được dùng để đánh bóng golf. Một cây gậy bao gồm ba phần: cán gậy, thân gậy và đầu gậy ở phía dưới cùng. Những cây gậy dài được dùng để lái trái bóng đi xa, còn gậy ngắn hơn được dùng cho khoảng cách gần hơn.

Gậy golf được chia thành các loại cơ bản.

  • Gậy gỗ hay gậy wood có đầu to, thân dài được dùng để đưa bóng đi xa từ những vị trí "mở", ví dụ như tee box và fairway. Cây gậy gỗ quan trọng là driver hay "1-wood" với độ loft hay độ mở của mặt gậy thấp nhất. Loại gậy này được dành riêng cho những cú đánh xa, có thể lên tới 300 thước Anh [270 m], hoặc nhiều hơn dưới bàn tay của các golf thủ chuyên nghiệp. Trước đây các loại gậy được làm từ gỗ cứng đúng như tên gọi, nhưng nay các cây wood được làm từ vật liệu kim loại như titan, hoặc vật liệu tổng hợp.
  • Gậy sắt hay iron là các cây gậy thân ngắn hơn có đầu làm từ kim loại, với mặt đầu gậy phẳng. Trước đây đầu gậy được rèn từ sắt; đầu gậy sắt hiện đại được đúc chính xác từ hợp kim thép. Gậy sắt với các độ loft khác nhau có thể được dùng cho hầu hết mọi vị trí trên sân, nhưng thường thấy nhất là những cú đánh ngắn tiếp cận green, hoặc để đưa bóng ra khỏi bẫy cát. Góc lie là góc được tạo giữa tâm của cán gậy [shaft] và mặt đất khi bạn đặt gậy sắt xuống ở vị trí vào bóng.
  • Loại thứ ba là putter, loại gậy thăng bằng có độ loft thấp, được dùng để đưa bóng lăn trên green và vào lỗ. Putter hầu như luôn được dùng tại green hoặc tại các khu vực rough hay viền bao quanh.
  • Loại gậy thứ tư, gậy hybrid, là sự kết hợp giữa gậy gỗ và gậy sắt, được dùng để thay thế các cây gậy sắt có độ loft thấp.

Độ loft là độ mở của mặt gậy golf [hay còn được gọi là loft gậy hoặc góc loft]. Độ loft là thông số kỹ thuật quan trọng được ghi tại phần đầu gậy. Đây chính là biểu thị góc giữa mặt gậy và mặt phẳng đứng tại thành nhờ cán gậy. Góc loft của gậy golf sẽ được biểu thị bằng số độ.

Người chơi được phép mang tối đa 14 cây gậy một lúc trong túi trong một vòng. Việc chọn lựa gậy hoàn toàn thuộc về phía golfer, mặc dù mỗi cây gậy phải tuân theo các mục trong được liệt kê trong luật lệ. Vi phạm luật có thể bị loại khỏi cuộc chơi.

Bóng golf hình cầu, luôn có màu trằng [nhưng vẫn được phép có màu khác], được bao phủ bởi nhiều vết lõm trên bề mặt có tác dụng làm giảm lực cản khí động học nhờ tăng độ nhiễu loạn của không khí xung quanh trái bóng khi di chuyển, giúp cho phép trái bóng bay xa hơn.[26] Sự kết hợp giữa lớp biên mềm bên ngoài và lõi cứng bên trong cho phép độ xa và độ xoáy.

Tee chỉ được phép sử dụng trong cú đánh đầu tiên ở mỗi hố, trừ trường hợp người chơi đánh thử một cú đánh hoặc phải thực hiện lại cú phát bóng.

Nhiều golf thủ đi những đôi giày golf có đinh bằng kim loại hoặc chất dẻo để tăng sức bám để có được những cú đánh xa hơn và chính xác hơn.

Một chiếc túi đựng gậy golf được dùng để đựng các cây gậy và tư trang cá nhân của người chơi như tee, bóng, và găng tay. Túi golf có nhiều ngăn, có thể được di chuyển trên sân bằng cách mang vác, kéo đi trên một xe đẩy hoặc gắn lên xe golf. Túi golf có quai tay hoặc dây đeo vai, và đôi khi có thể có các chân thu ra thu vào được giúp túi gậy đứng thẳng khi để trên mặt đất.

Cơ chế đánh[sửa | sửa mã nguồn]

Một tay golf thực hiện cú đánh tiếp cận tại fairway.

Một cú swing trong môn golf có vẻ ngoài tương tự với những chuyển động khác như vung rìu hay vung gậy bóng chày; tuy nhiên, kết quả của cú swing phụ thuộc không nhỏ vào một số chuyển động phụ được căn chỉnh chính xác và đúng lúc, đảm bảo rằng gậy hướng di chuyển của gậy tới bóng phù hợp với đường bóng mong muốn, mặt gậy phù hợp với đường swing, và bóng tiếp xúc với điểm chạm "sweet spot" của mặt gậy. Khả năng thực hiện điều này một cách thường xuyên, qua nhiều bộ gậy với đủ loại gậy và mặt gậy, là kỹ năng then chốt đối với bất kỳ tay golf nào.

Các tay golf chuẩn bị cú đánh với phía thân không thuận hướng về mục tiêu [với người thuận tay phải thì mục tiêu ở bên trái]. Thân của người chơi và đường trung tâm của mặt gậy ở vị trí song song với đường bóng mong muốn, trong khi bàn chân có thể vuông góc với đường bóng hoặc hơi hướng ra ngoài. Chân thường dạng rộng bằng vai đối với gậy sắt cỡ trung và putter, hẹp hơn vai với gậy sắt ngắn và rộng hơn vai đối với gậy sắt dài và gậy gỗ. Bóng thường được đặt chếch về "phía trước" [gần chân trước] đối với gậy có độ loft thấp. Ngược lại bóng được đặt về "phía sau" khi độ loft tăng. Hầu hết các cú swing bằng iron và putt thì bóng ở chính giữa thế đứng, trong khi đó một vài cú đánh với gậy iron có độ dài nhỏ hoặc trung bình thì bóng hơi lệch tâm về phía sau để đảm bảo sự tiếp xúc ổn định giữa bóng và mặt gậy.

Người chơi lựa chọn gậy, cán gậy, và cú đánh phù hợp với khoảng cách tới lỗ:

  • Cú "drive" hay "full swing" được dùng tại khu phát bóng và fairway, thường bằng gậy gỗ hoặc gậy sắt dài, để đạt được khoảng cách tối đa có thể. Thân gậy ở tư thế kết thúc song song với mặt đất và quá vai.
  • Cú "tiếp cận" hay "3/4 swing" được sử dụng đối với khoảng cách trên trung bình đòi hỏi độ chính xác hơn là khoảng cách, ví dụ như để đưa bóng vào green hoặc vượt qua chướng ngại vật. Vị trí kết thúc "backswing" [động tác chuẩn bị đánh] của cú đánh này thường là gậy chỉ lên trời hoặc hơi chỉ về phía người chơi.
  • Cú "chip" hay "half-swing" dành cho khoảng cách ngắn gần green, dùng gậy sắt có độ loft cao hoặc gậy wedge. Mục đích của cú chip là đưa bóng vào green một cách an toàn và lăn về phía lỗ. Cú đánh này cũng dùng để đưa bóng từ các vị trí bất lợi tới các vị trí thuận lợi hơn. Độ cao của đầu gậy ở backswing nằm ở khoảng từ hông tới đầu.
  • Cú "putt" được sử dụng cho các cú đánh bóng ngắn trên hay gần green, thực hiện bằng gậy "putter". Backswing và tư thế kết thúc của cú putt gọn hơn rất nhiều so với các cú đánh khác, trong đó đầu gậy hiếm khi giơ cao quá đầu gối. Putt thường chỉ có mục đích là đưa bóng vào lỗ, mặc dù cú putt ở khoảng cách xa chỉ nhằm rút ngắn khoảng cách giữa bóng và lỗ, đồng thời tạo lợi thế cho cú đánh quyết định.

Sau khi chọn gậy và cú đánh phù hợp, người chơi sẽ vào bóng bằng cách tạo tư thế đứng về phía bên cạnh quả bóng và đưa gậy ra sau quả bóng. Người chơi liền thực hiện động tác backswing, đưa cây gậy, cánh tay và phần thân trên của cơ thể ra xa quả bóng, rồi bắt đầu cú vung gậy, đưa đầu gậy xuống trở lại và đánh bóng. Một cú swing thông thường là sự tổng hợp các chuyển động phức tạp, và một chút thay đổi nhỏ về tư thế và cách hay chọn vị trí cũng có thể tạo ra những hiệu quả đánh bóng hoàn toàn khác nhau. Mục tiêu chung của mỗi người khi thực hiện một quả full swing là làm sao để đầu gậy di chuyển nhanh nhất có thể nhưng vẫn duy trì đường chuyển động của cả gậy và đầu gậy.

Sự chính xác và ổn định vẫn được coi trọng hơn khoảng cách đạt được. Một người có cú drive thẳng chỉ bay xa 220 thước Anh [200 m] sẽ vẫn có thể đưa bóng vào một vị trí thích hợp trên fairway. Tuy nhiên người có cú drive đi xa tới 280 thước Anh [260 m] nhưng không bay thẳng sẽ khó lòng đưa bóng tới vị trí thuận lợi; đường bóng đó có thể bị "hook", "pull", "draw", "fade", "push" hoặc "slice" so với đường đi dự tính, khiến bóng bị bay ra ngoài bound hoặc rơi vào rough hoặc chướng ngại vật, và người chơi phải mất thêm nhiều lần đánh.

Các kiểu putt[sửa | sửa mã nguồn]

Putt được coi là một trong những yếu tố quan trọng của golf. Có nhiều kỹ thuật putt và cách cầm gậy được phát triển nhằm giúp người chơi thực hiện putt thành công. Thời kỳ đầu, các tay golf putt với tay thuận ở phần dưới cán gậy và tay không thuận ở trên. Các cầm gậy và putt này được gọi là cách "thông thường". Có nhiều biến thể của cách thông thường như overlap [golfer sẽ lấy ngón trỏ tay không thuận đè lên ngòn út của tay thuận], interlock [ngón trỏ tay không thuận khớp với ngón út và áp út của tay kia], double hoặc triple overlap.[27] Gần đây kiểu putt "cross handed" [tréo tay] trở nên phổ biến. Cross handed tức là tay thuận ở phần trên của cán còn tay không thuận ở dưới. Cách cầm gậy này hạn chế chuyển động ở bàn tay thuận và loại bỏ khả năng wrist breakdown trong quá trình putt.[28]

Các kiểu putt phổ biến khác còn có "the claw", trong đó cán gậy ở giữa của ngón cái và ngón trỏ của tay thuận trong khi lòng bàn tay hướng về mục tiêu, tay không thuận đặt như bình thường vào cán gậy.[29]

Cách tính điểm và handicap[sửa | sửa mã nguồn]

Par[sửa | sửa mã nguồn]

Một tảng đá báo hiệu đây là một hố par 5

Một hố golf được phân loại theo par hay số gậy chuẩn mà một tay golf giỏi cần đạt được để hoàn thành một hố.[17] Par tối thiểu của một hố là 3 bởi par luôn gồm ít nhất một cú tee và hai cú putt. Các par 4 và 5 là các par phổ biến trên sân; một vài sân thậm chí có thể có các hố par 6 hay par 7. Ngoài tee và putt, các cú đánh khác thường [nên] được thực hiện tại fairway; ví dụ, một tay golf giỏi thường muốn vào green tại một lỗ có par là 4 trong hai gậy — một từ cú tee [hay drive] và một cú thứ hai vào green [cú "tiếp cận"] — và sau đó đưa bóng lăn vào hố trong hai putt để đạt par. Khi bóng vừa vào green mà người chơi vẫn còn tối thiểu hai putt để đạt par thì có nghĩa người đó đã thực hiện "green in regulation" hay GIR thành công.[30] Việc để lỡ GIR không có nghĩa là người chơi golf không giành par, nhưng sẽ khó thành công hơn; ngược lại, đạt được GIR không bảo đạm bạn có par, bởi đôi khi bạn phải mất ba putt để kết thúc lỗ. Các tay golf chuyên nghiệp thường có tỉ lệ GIR là 60% tới 70%.[31]

Nhân tố chính để phân loại par cho một hố tương đối thẳng tắp và không có chướng ngại vật là khoảng cách từ tee tới green. Một hố par 3 thường ngắn hơn 225 m, par 4 là từ 225–434 m, par 5 là trên 435 m. Par 6 ít gặp có thể lên tới 590 m. Các khoảng cách này dựa trên tầm xa của cú drive trong khoảng 220 và 260 m của một tay golf thông thường. Tuy nhiên cũng cần phải xem xét tới các yếu tố khác. Độ dốc của mặt đất từ tee tới lỗ cũng gia tăng hoặc giảm thiểu quãng đường lăn của bóng. Những khúc ngoặt hay chướng ngại vật cũng buộc các tay golf phải "lay up" tại fairway để chuyển hướng hoặc đánh bóng qua chướng ngại vật ở cú đánh tiếp theo. Những yếu tố về mặt thiết kế này sẽ ảnh hưởng tới cách một tay golf thi đấu, bất kể khoảng cách từ tee tới green là ít hay nhiều, và do đó cũng cần được tính để đặt par cho hố.[32] Tuy nhiên, điểm par không bao gồm việc có thể có gậy phạt, vì một người chơi thông thường không muốn đưa bóng vào bẫy nước hay các tình huống bóng không hợp lệ.

Các sân mười tám lỗ thường có điểm par tổng là 72 cho một vòng chơi, tức par trung bình của một lỗ là 4; thường một sân được thiết kế với số lỗ par 5 và par 3 bằng nhau, còn lại là par 4. Nhiều sân có tổng par là 68 cho tới 76, nhưng không có nghĩa sân đó kém giá trị hơn sân có par-72. Ở một số quốc gia, các sân thường được phân loại theo độ khó, và độ khó này được dùng để tính toán handicap hay điểm chấp của một golfer tại sân đó.[33]

Hai loại điểm đánh giá độ khó tại Hoa Kỳ là Course Rating, hay điểm dành cho một "scratch golfer" [tay golf thông thường] có handicap bằng 0 thi đấu tại sân đó [và có thể sẽ khác so với par của sân], và Slope Rating, dùng để đo mức độ tồi tệ có thể của một "bogey golfer" [với handicap 18] so với một "scratch golfer". Hai loại điểm này áp dụng cho bất kỳ sân golf nào nằm dưới sự quản lý của USGA, và được sử dụng trong một hệ thống tính handicap.

Tính điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Mục đích mỗi vòng là mất càng ít gậy càng tốt. Điểm của người chơi luôn là hiệu số của số gậy trừ đi số điểm par. Một cú hole in one [còn gọi là "ace" hay ăn điểm trực tiếp] xảy ra khi người chơi đưa bóng vào lỗ ngay từ cú đánh ở tee. Số điểm ở mỗi hố thường có một tên gọi riêng biệt.[17]

Điểm dạng số Tên Định nghĩa
−4 Condor bốn gậy dưới par
−3 Albatross [Double Eagle] ba gậy dưới par
−2 Eagle hai gậy dưới par
−1 Birdie một gậy dưới par
E Par bằng par
+1 Bogey one gậy trên par
+2 Double bogey hai gậy trên par
+3 Triple bogey ba gậy trên par

Hệ thống handicap[sửa | sửa mã nguồn]

Handicap là phép đo bằng số về khả năng của một tay golf tại một sân golf 18 lỗ. Handicap của một người thường đại diện cho số gậy trên par mà người đó sẽ mắc trong một vòng đấu trung bình tại sân đó. Người chơi càng giỏi thì handicap càng thấp. Một số người có handicap 0 hoặc thấp hơn gọi là scratch golfer, và thông thường sẽ đạt hoặc vượt par của sân trong một vòng chơi [phụ thuộc vào độ khó của sân].

Tính toán handicap thường phức tạp, chủ yếu do không phải sân nào cũng khó như nhau hay không phải trình độ người chơi nào cũng như nhau. Một người có par ở sân A có thể có 4 gậy trên par ở sân B, hoặc một người có 20 gậy trên par ở sân A lại làm tốt hơn với 16 gậy trên par ở sân B. Đối với "scratch golfer", sân B khó hơn, nhưng với "bogey golfer", sân A khó hơn. Nguyên nhân là do các thử thách ở của sân có ảnh hưởng khác nhau đối với mỗi người. Khoảng cách thường là vấn đề với các tay golf "bogey" nghiệp dư vì tốc độ vung gậy của họ chậm nên bóng đi không xa, vì vậy cần nhiều gậy mới tới green. Tuy nhiên các sân thường thiết kế với các chướng ngại vật để giảm bớt lợi thế đánh xa hơn của các tay golf chuyên, buộc họ phải "lay up" để tránh hố cát hoặc bẫy nước, trong khi bogey golfer không bị ảnh hưởng nhiều vì chướng ngại vật nằm ngoài tầm của họ. Các yếu tố địa hình và duy trì fairway có thể ảnh hưởng tới tất cả các golfer ở mọi trình độ; làm hẹp fairway bằng nhiều vật cản hay mở rộng rough ở hai bên thường tăng tỉ lệ đánh bóng vào khu vực bất lợi, từ đó tăng thử thách cho mọi người chơi.

Các hình thức chơi golf cơ bản[sửa | sửa mã nguồn]

Có hai hình thức chơi golf cơ bản là match play và stroke play. Stroke play là kiểu chơi phổ biến hơn.

Match play[sửa | sửa mã nguồn]

Trong một trận match play, hai tay golf [hoặc hai đội] tranh tài tại mỗi hố như một cuộc thi đấu riêng rẽ. Bên có điểm số thấp hơn tại lỗ sẽ thắng lỗ đó, còn nếu hai bên có số điểm bằng nhau thì hố đó được "chia đôi" [hay là hòa]. Sau khi tất cả các hố được hoàn thành, bên nào có nhiều hố thắng hơn sẽ chiến thắng trận đấu. Trong trường hợp một bên có khoảng cách dẫn điểm không thể bị san bằng hay vượt qua, thì trận đấu sẽ kết thúc luôn mà không cần phải thi đấu các hố còn lại. Ví dụ, nếu một bên đang dẫn sáu hố, và chỉ còn năm hố nữa là hết trận, trận đấu kết thúc và bên đang dẫn được coi là thắng "6 & 5". Ở bát cứ thời điểm nào, nếu số điểm dẫn trước bằng số lỗ còn lại, bên dẫn trước được gọi là "dormie", và trận đấu tiếp diễn cho tới khi bên dẫn trước gia tăng cách biệt thêm một hố hoặc hòa bất kỳ hố nào trong các hố còn lại, hoặc trận đấu kết thúc với tỉ số hòa với bên bị dẫn thắng tất cả các hố còn lại. Khi trận đấu kết thúc với tỉ số hòa, hai bên có thể tiếp tục chơi tới khi một bên thắng.[17]

Stroke play[sửa | sửa mã nguồn]

Điểm số đạt được ở mỗi hố tại một vòng hoặc cả giải đấu được tính vào tổng điểm, và người chơi có tổng điểm thấ nhất sẽ thắng stroke play. Stroke play là kiểu chơi phổ biến nhất. Tại các giải chuyên nghiệp, nếu có tỉ số hòa ở vị trí dẫn đầu sau tất cả các hố, tất cả các tay golf bằng điểm sẽ thi đấu một trận playoff. Playoff có thể theo thể thức sudden death hoặc diễn ra trong một số lượng hố được ban tổ chức đề ra trước [từ 3 tới 18]. Trong sudden death, người chơi có số điểm thấp nhất tại hố so với tất cả các đối thủ sẽ thắng. Trong thể thức playoff với số lỗ cho trước, nếu có ít nhất hai người bằng điểm nhau sau khi tất cả các hố kết thúc thì những người bằng điểm sẽ bước vào sudden death, trong đó người nào thắng một hố sẽ vô địch giải đấu.

Các hình thức phổ biến khác[sửa | sửa mã nguồn]

Lối chơi đồng đội[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ golf Junín, Junín, Argentina

  • Foursome: theo Luật 29, foursome diễn ra giữa hai đội hai người, mỗi đội chỉ có một quả bóng và người chơi của mỗi đội thay phiên thực hiện cú đánh của đội mình. Ví dụ, nếu "A" và "B" cùng một đội, "A" tee ở hố thứ nhất, "B" sẽ đánh cú thứ hai, "A" thực hiện cú thứ ba, và cứ thế tới khi bóng vào lỗ. Ở hố thứ hai, "B" sẽ phát bóng [bất kể ai là người putt cuối cùng ở lỗ 1], "A" đánh cú thứ hai, và cứ thế tới hết lỗ. Foursome có thể đánh theo kiểu match play hoặc stroke play.[34]
  • Fourball: theo Luật 30 và 31, fourball cũng diễn ra giữa hai đội hai người, nhưng mỗi người có một quả bóng riêng và khi so sánh kết quả hai bên thì sẽ tính kết quả của người có điểm số thấp hơn của mỗi đội. Fourball cũng có thể đánh theo kiểu match play hoặc stroke play.[35]

Golf chuyên nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Đa phần các tay golf chuyên nghiệp đóng vai trò quản lý câu lạc bộ hay dạy golf, và chỉ thi đấu ở một số giải địa phương. Một nhóm nhỏ các tay golf ưu tú thi đấu tại các tour quốc tế. Các tay golf tham gia quản lý và hướng dẫn golf bắt đầu sự nghiệp trong ngành công nghiệp golf trong vai trò caddy, và với một chút quan tâm, họ tìm việc tại các sân golf và cuối cùng lấy bằng chứng nhận nghề nghiệp. Các tay golf đi thi đấu giải thường bắt đầu trong vai trò vận động viên nghiệp dư, đạt vị thế "chuyên nghiệp" sau những thành công ở các giải lớn, nơi mang về cho họ tiền thưởng và tài trợ. Ví dụ Jack Nicklaus được chú ý nhờ đứng thứ nhì tại U.S. Open 1960 sau nhà vô địch Arnold Palmer, với điểm sau 72 hố là 282 [điểm số tốt nhất của một tay golf nghiệp dư cho tới nay tại U.S. Open]. Ông thi đấu thêm nhiều giải vào năm 1961, vô địch U.S. Amateur Championship 1961, trước khi chính thức trở thành vận động viên chuyên nghiệp năm 1962.

Các tour đấu[sửa | sửa mã nguồn]

Có ít nhất khoảng 20 tour đấu golf chuyên nghiệp, có thể của PGA hay một nhà tổ chức tour độc lập, chịu trách nhiệm lên lịch các giải đấu, tìm kiếm tài trợ, và đặt ra luật lệ của tour. Tour cho phép các thành viên thi đấu hầu hết các giải, đôi khi cũng mời các tay golf không thuộc tour đấu tham dự một số giải. Việc trở thành thành viên của các tour lớn không hề dễ dàng.

Gary Player được coi là một trong nhữ vận động viên golf hàng đầu.

Tour nổi tiếng nhất hiện nay là PGA Tour bên cạnh các giải Major và bốn giải World Golf Championships. Các giải của PGA Tour có số tiền thưởng cho người vô địch là ít nhất 800.000 USD. European Tour, chủ yếu thu hút các tay golf ngoài Bắc Mỹ, xếp thứ hai sau PGA Tour về mức độ uy tín trên thế giới. Một số vận động viên không thuộc Bắc Mỹ thường cố gắng thi đấu đủ số giải nhằm duy trì quyền thành viên ở cả PGA Tour và European Tour. Kể từ năm 2010, có ba lần danh hiệu kiếm tiền thưởng tốt nhất của cả hai tour là cùng một người, trong đó Luke Donald làm được điều này năm 2011 còn Rory McIlroy là vào năm 2012 và 2014.

Các tour đấu lớn khác của nam bao gồm Japan Golf Tour, Asian Tour [châu Á ngoài Nhật Bản], PGA Tour of Australasia, và Sunshine Tour [Nam Phi]. Các tour Nhật Bản, Australasia, Sunshine, PGA, và European là thành viên sáng lập của Liên đoàn các tour PGA quốc tế [International Federation of PGA Tours], cơ quan thương mại của các tour đấu chính thành lập năm 1996. Asian Tour trở thành thành viên chính thức năm 1999. Canadian Tour trở thành thành viên dự khuyết năm 2000, còn Tour de las Américas [Mỹ Latinh] trở thành thành viên dự khuyết năm 2007. Liên đoàn mở rộng vào năm 2009 với 11 thành viên mới chính thức – Canadian Tour, Tour de las Américas, Hiệp hội golf Trung Quốc, PGA Hàn Quốc, Professional Golf Tour of India, và các tổ chức điều hành sáu tour lớn của nữ. OneAsia Tour, thành lập năm 2009, không phải thành viên nhưng liên doanh với các tour Australasia, Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc. Vào năm 2011, Tour de las Américas được PGA Tour tiếp quản, và tới năm 2012 được nhập vào PGA Tour Latinoamérica mới ra đời. Cũng trong năm 2012 Canadian Tour đổi tên thành PGA Tour Canada sau khi được PGA Tour tiếp quản. Tất cả các tour thành viên của Liên đoàn [trừ Ấn Độ] và OneAsia Tour đóng góp điểm cho các tay golf để họ đua tranh thứ hạng trên Official World Golf Ranking [OWGR].

Golf cũng có các giải đấu hấp dẫn đối với các vận động viên cao tuổi. Có một số tour cho nam giới từ 50 tuổi trở lên, tiêu biểu là PGA Tour Champions.

Có sáu tour chính của nữ phân theo vùng địa lý. Tour lớn và uy tín nhất là LPGA Tour của Hoa Kỳ. Tất cả các tour lớn này đều đóng góp điểm cho các tay golf để họ đua tranh thứ hạng trên Women's World Golf Rankings.

Các giải major của nam[sửa | sửa mã nguồn]

Các giải major của nam là bốn giải đấu cao quý nhất trong năm. Theo thứ tự thời gian trong một năm, các giải này bao gồm: The Masters, U.S. Open, The Open Championship [hay British Open] và PGA Championship.[36]

Các giải này dành cho khoảng vài chục tay golf hàng đầu thế giới tranh tài. The Masters diễn ra tại Augusta National Golf Club ở Augusta, Georgia, lần đầu năm 1934. Đây là giải major duy nhất được tổ chức tại duy nhất một sân từ trước tới nay.[37] U.S. Open và PGA Championship diễn ra tại các sân thuộc Hoa Kỳ, còn Open Championship diễn ra tại các sân thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh.[38][39][40]

Trước khi PGA Championship và The Masters xuất hiện, bốn giải major là U.S. Open, U.S. Amateur, Open Championship và British Amateur.

Các giải major của nữ[sửa | sửa mã nguồn]

Golf nữ không có một hệ thống giải thưởng major áp dụng cho toàn thế giới. Danh sách các giải major được LPGA của Hoa Kỳ[41] công nhận đã nhiều lần thay đổi, gần đây nhất là vào năm 2001 và 2013. Có năm giải major dành cho nữ hiện nay được LPGA công nhận: ANA Inspiration, Women's PGA Championship [tên trước đây là LPGA Championship],[42] U.S. Women's Open, Women's British Open [thay thế cho du Maurier Classic vào năm 2001] và The Evian Championship [gia nhập danh sách giải major vào năm 2013]. Ladies European Tour chỉ công nhận Women's British Open và The Evian Championship là major. LPGA of Japan Tour không công nhận bất cứ giải nào trong số các giải trên mà có một hệ thống bốn giải major riêng.

Tại Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Golf được du nhập về Việt Nam vào năm 1920, dưới thời Vua Bảo Đại. Khi đó, golf ngay lập tức trở thành môn thể thao “xa xỉ” chỉ dành cho vua chúa, rất ít người biết đến. Sân golf đầu tiên ở Việt Nam chính là Da Lat Palace Golf Club hay còn gọi là sân golf Đồi Cù do vua Bảo Đại xây dựng [43].

Có một số người dùng những thuật ngữ Golf sau đây trong tiếng Việt:

  • Đồi quả: để chỉ Green
  • Đường bóng: để chỉ Fairway

Các sự kiện cấp quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

  • Golf tại Đại hội Thể thao châu Á
  • Golf tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ
  • Golf tại Thế vận hội Mùa hè
  • Ryder Cup
  • Presidents Cup
  • Solheim Cup
  • International Crown
  • Seve Trophy
  • EurAsia Cup
  • Walker Cup
  • Curtis Cup

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Danh sách thuật ngữ golf
  • Golf tại Thế vận hội Mùa hè 2016
  • Professional Golfers' Association of America

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Olympic sports of the past”. Olympic Movement. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2009.
  2. ^ Associated Press file [ngày 9 tháng 10 năm 2009]. “Golf, rugby make Olympic roster for 2016, 2020”. cleveland.com. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2010.
  3. ^ Đặng Thái Minh, "Dictionnaire vietnamien - français. Les mots vietnamiens d’origine française", Synergies Pays riverains du Mékong, n° spécial, năm 2011. ISSN: 2107-6758. Trang 114.
  4. ^ Brasch, Rudolph [1970]. How did sports begin?: A look at the origins of man at play. McKay.
  5. ^ “paganica [game] – Britannica Online Encyclopedia”. Britannica.com. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2010.
  6. ^ “Golf [Chui wan] – China culture”. Kaleidoscope.cultural-china.com. ngày 25 tháng 9 năm 2009. Bản gốc lưu trữ 10 Tháng 5 2013. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2010.
  7. ^ McGrath, Charles; McCormick, David; Garrity, John [2006]. The ultimate golf book. Houghton Mifflin Harcourt. tr. 13. ISBN 978-0-618-71025-6. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2009.
  8. ^ History Of Golf Golf Information.info.
  9. ^ Andrew Leibs [2004]. "Sports and Games of the Renaissance". tr. 69. Greenwood Publishing Group
  10. ^ Cochrane, Alistair [ed] Science and Golf IV: proceedings of the World Scientific Congress of Golf. trang 849. Routledge
  11. ^ Forrest L. Richardson [2002]. "Routing the Golf Course: The Art & Science That Forms the Golf Journey". tr. 46. John Wiley & Sons
  12. ^ Links plays into the record books BBC. Truy cập 24.9.2011
  13. ^ “Recognition for the world's oldest links, at last”. PGA Tour. ngày 24 tháng 3 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2009.
  14. ^ "Historical Rules of Golf". ruleshistory.com. Truy cập 8 tháng 9 năm 2010.
  15. ^ The Open Championship – More Scottish than British Lưu trữ 2012-10-02 tại Wayback Machine PGA Tour. Truy cập 23 tháng 9 năm 2011
  16. ^ "Ryder Cup: Painting celebrates Dunfermline links to American golf". BBC. Truy cập 29 tháng 12 năm 2014
  17. ^ a b c d e Golf. Encarta. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2007.
  18. ^ “Hill den Park – 9 Hole Golf Course”. hilden park.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2007.
  19. ^ “Online Etymology Dictionary definition of the word Links”. Etymonline.com. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2010.
  20. ^ “Why Does Golf Have 18 Holes?”. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2010.
  21. ^ Caddie. Encarta. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2007.
  22. ^ “The Rules of Golf”. United States Golf Association. Lưu trữ bản gốc 11 Tháng 10 2007. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2007.
  23. ^ “Rules of Golf” [PDF]. The Royal and Ancient Golf Club of St Andrews. Bản gốc [PDF] lưu trữ 31 Tháng 10 2007. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2007.
  24. ^ “Amateur Status”. United States Golf Association. Lưu trữ bản gốc 1 Tháng 10 2007. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2007.
  25. ^ 2008–2011 Rules of Golf [free download] Lưu trữ 2008-10-29 tại Wayback Machine
  26. ^ Nicholls, David [tháng 2 năm 1998]. “History of the Golf Club”. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2007.
  27. ^ “Dave Pelz: Your best way to putt”. Golf.com. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2015.
  28. ^ “Cross Handed Putting Grip, How It Can Improve Your Stroke”. golf-info-guide.com. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2015.
  29. ^ “4. Controlling the Yips - PGA Digital Golf Academy”. golfacademy.pga.com. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2015.
  30. ^ Kelley, Brent. “Definition of Par”. About.com. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2007.
  31. ^ //www.pgatour.com/stats/stat.103.html
  32. ^ Kelley, Brent. “Golf FAQ – What are the Yardage Guidelines for Par-3s, Par-4s and Par-5s?”. About.com. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2007.
  33. ^ Kelley, Brent. “Golf FAQ: What is Slope Rating?”. About.com. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2007.
  34. ^ Kelley, Brent. “Definition of Foursomes”. About.com. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2007.
  35. ^ Kelley, Brent. “Definition of Fourball”. About.com. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2007.
  36. ^ “Golf Majors”. Sporting-World.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2007.
  37. ^ “Golf Majors: The Masters Golf Tournament”. Sporting-World.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 9 năm 2006. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2007.
  38. ^ “Golf Majors: The Open Championship”. Sporting-World.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2007.
  39. ^ “Golf Majors: The US Open Tournament”. Sporting-World.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2007.
  40. ^ “Golf Majors: The PGA Championship”. Sporting-World.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2007.
  41. ^ Có vài tổ chức cũng có tên "LPGA" tại các quốc gia khác. LPGA Hoa Kỳ là tổ chức duy nhất không cần thêm từ phân biệt do nó là tổ chức đầu tiên được thành lập. "LPGA" đứng riêng thường để chỉ tổ chức của Hoa Kỳ.
  42. ^ “PGA of America, LPGA, KPMG join forces for KPMG Women's PGA Championship” [Thông cáo báo chí]. PGA of America. ngày 29 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2014.
  43. ^ “Lịch sử golf và các dụng cụ golf cổ”. VGM - Vietnam Golf Magazine. 20 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2022.

Là một chi nhánh, chúng tôi kiếm được từ các giao dịch mua đủ điều kiện được thực hiện trên trang web của chúng tôi.

Tôi đã có thể bắn những điểm tốt nhất của mình khi tôi có một gỗ fairway, tôi hoàn toàn tự tin với Tee. Không phải tất cả các loại gỗ đều được tạo ra bằng nhau và đó là lý do tại sao người chơi golf trung bình nên cẩn thận với những gì họ chơi gỗ fairway.

Nếu tôi chỉ là một tay golf cuối tuần trung bình và đang ở trong thị trường cho một Fairway Wood mới, đây là những lựa chọn mà tôi đã xem xét. Ở đó, thực sự không có lý do gì để đi ra ngoài và thổi một loạt tiền vào thiết bị năm nay nếu bạn không có. Tất cả các tùy chọn này đều vững chắc và don không nghĩ rằng bạn có thể sai với bất kỳ ai trong số họ.

Ai được coi là một tay golf trung bình?

Một tay golf trung bình là bất cứ ai bắn trên 90 trên sân golf par 72. Những người chơi golf này cũng được gọi là người chơi khuyết tật cao.

Điều này có vẻ hơi khó tin nhưng những con số này có tính đến tất cả các loại và độ tuổi của người chơi golf. Điều mà khá điên rồ là điểm số golf trung bình thực sự đã trở nên tồi tệ hơn trong số năm qua [ngay cả khi thiết bị trở nên tốt hơn].

Ở đây, cách tôi phá vỡ điểm số golf và nhóm bạn phù hợp:

  • Nếu bạn bắn trên 90 = Handicap cao [trung bình].
  • Nếu bạn bắn từ 80-90 = Mid Handicap
  • Nếu bạn bắn dưới 80 = người khuyết tật thấp

Điều này chỉ giữ cho mọi thứ đơn giản và dễ hiểu. Người chơi golf trong mỗi nhóm này nên tìm kiếm các tính năng khác nhau trong gỗ fairway. Một người mới bắt đầu có thể sử dụng một câu lạc bộ mà thiết kế cho khuyết tật thấp nhưng nó cũng không thể thực hiện được.

Vì vậy, nếu bạn thường bắn vào những năm 90 hoặc 100 thì bạn sẽ ở đúng nơi. Nếu bạn là một người liên tục phá vỡ 90, bạn có thể muốn xem Fairway Woods của chúng tôi cho bài viết Mid Handicaps.

LIÊN QUAN: Rừng Fairway tốt nhất cho người chơi ở giữa.: Best Fairway Woods For Mid Handicappers.

Những người khuyết tật cao có nên sử dụng gỗ fairway?

Fairways Woods rất quan trọng đối với người mới bắt đầu và người khuyết tật cao và nên là câu lạc bộ đi theo tee. Họ chính xác hơn và sẽ giúp người chơi trung bình đạt được nhiều luồng và điểm thấp hơn.

Một trong những cách tốt nhất để mọi người hạ thấp điểm số của họ là bằng cách đánh vào nhiều luồng hơn. Bạn thấy có bao nhiêu người chơi golf đánh vào cú đánh thứ hai của họ từ Rough? Nó rất khó để có được một mệnh giá khi bạn đánh từ những thứ dày.

Trước khi bạn đi ra ngoài và lấy cho mình một người lái xe hoặc hybrid, tôi chắc chắn khuyên bạn nên có được cho mình một loại gỗ fairway tốt và phù hợp với nó. Ngay cả cho đến ngày nay, tôi không có tài xế và thích đánh gỗ của mình ra khỏi tee.I don’t have a driver and prefer hitting my wood off the tee.

Vâng, một tài xế có thể cho tôi thêm 20 thước nhưng cách tôi nhìn vào đó là câu lạc bộ nào sẽ hạ cánh trên fairway thường xuyên hơn? Đối với tôi [và hầu hết những người khác], đó sẽ là một gỗ fairway.fairway more often? For me [and most others] that’s going to be a fairway wood.

Tôi đã chơi không phải là một ngày tuyệt vời và không thể đánh vào một fairway để cứu mạng tôi [có thể là 10 qua 9 lỗ]. Tôi quyết định băng ghế dự bị và 5 gỗ và đánh 7 cây gỗ của mình ra khỏi tee. Cuối cùng tôi đã bắn 4 lần vào phía sau 9.

Hãy để tôi cho bạn một kịch bản.

Nếu ai đó đến gặp bạn và nói rằng tôi sẽ đưa cho bạn một triệu đô la nếu bạn có thể tee ra và hạ cánh bóng 175 yard trên fairway. Bạn sẽ đánh câu lạc bộ nào? Đó là câu lạc bộ duy nhất bạn cần ngay bây giờ.

Theo tôi, đây là những câu lạc bộ đầu tiên mà người mới bắt đầu/người khuyết tật cao nên có được:

  • Câu lạc bộ hơn 175 yard
  • Câu lạc bộ 150 sân
  • Câu lạc bộ 100 yard
  • Nêm cát
  • Putter

Nếu bạn thực sự tốt với 5 câu lạc bộ này, tôi có thể đảm bảo bạn sẽ bắn điểm tốt. Nếu tôi bắt đầu từ đầu và đang làm theo hướng dẫn này, câu lạc bộ hơn 175 sân của tôi sẽ là một loại gỗ [không phải là một người lai hoặc người lái xe].my 175+ yard club would be a wood [not a hybrid or driver].

Khi tôi có thể đánh vào fairways trong giấc ngủ của mình với gỗ, tôi đã đi ra ngoài và có được một chiếc xe hybrid. Họ dễ dàng hơn rất nhiều để thoát ra khỏi sự thô lỗ và nó sẽ thêm một chút tính linh hoạt hơn vào trò chơi của bạn.hybrid. They’re a lot easier to hit out of the rough and it’ll add a bit more versatility to your game.

Liên quan: Các giống lai tốt nhất cho người chơi golf trung bình.: Best Hybrids For Average Golfers.

Sau đó, tôi đã đi ra ngoài và lấy một tài xế. Tôi có thể đợi cho đến khi tôi phá vỡ 100 và 90 và liên tục bắn vào những năm 80. Đó là một thời điểm khá tốt để thêm một số sân vào trò chơi của bạn.driver. I’d probably wait until I broke through 100 and 90 and was consistently shooting in the 80s. That’s a pretty good time to add some yardage to your game.

Liên quan: Trình điều khiển tốt nhất cho người chơi golf trung bình.: Best Drivers For Average Golfers.

Trong trường hợp bạn đang tự hỏi khi nào bạn nên sử dụng Fairway Woods thay vì các câu lạc bộ khác, thì đây là một hướng dẫn chung mà tôi muốn làm theo.

Làm hit:

  • Trên par 3 dài hơn.
  • Khi màu xanh lá cây nằm trong phạm vi và không có mối nguy hiểm nào gần.
  • Nếu fairway hẹp và độ chính xác là quan trọng.

Don lồng đánh:

  • Khi bạn cách pin 280 yard và muốn có được nó gần gũi.
  • Nếu bạn chỉ ở trong phạm vi nhưng có nước bên cạnh màu xanh lá cây.

Người khuyết tật cao có nên sử dụng gỗ 3 hoặc 5 không?

Loại gỗ fairway tốt nhất cho người mới bắt đầu hoặc người khuyết tật cao là 5 gỗ. Họ dễ dàng hơn để ra khỏi fairway và sẽ đi xa đến mức 3 gỗ.

Tôi đã có cả hai câu lạc bộ trong nhiều năm và 5 gỗ dễ chơi hơn rất nhiều. Nó dễ dàng hơn để đánh vì nó thường ngắn hơn một inch và nó có nhiều gác xép hơn trên đó.

Chỉ cần nghĩ về những gì dễ dàng hơn để đánh, 3 bàn ủi của bạn hoặc 7 bàn ủi của bạn? 7 bàn ủi của bạn có nhiều gác xép hơn và ngắn hơn một chút. Chính xác cũng vậy cho rừng của bạn.3 iron or your 7 iron? Your 7 iron has more loft and is a bit shorter. The exact same goes for your woods.

Trong số năm đầu tiên tôi chơi, tôi luôn sử dụng 3 gỗ. Điều làm cho tôi chuyển đổi là đọc một bài báo của Butch Harmon được gọi là băng ghế dự bị của bạn. Nó khiến tôi suy nghĩ nhưng rất có ý nghĩa.Bench Your 3-Wood“. It got me thinking but made a lot of sense.

Liên quan: 3 Gỗ vs 5 Gỗ: Những gì bạn nên sử dụng.: 3 wood vs 5 wood: What you should use.

Về cơ bản, ông nói rằng 5 gỗ sẽ dễ dàng hơn rất nhiều để lên sóng và sẽ đi cùng một khoảng cách cho hầu hết người chơi golf. Nó tốt hơn ngoài khỏi fairway và sẽ đi cùng một khoảng cách ra khỏi tee.same distance for most golfers. It’s better off the fairway and will go the same distance off the tee.

5 gỗ có vẻ như là câu trả lời rõ ràng cho tôi.

Hãy nói rằng bạn đã có một tài xế. Lái xe điều khiển tốt nhất cho hầu hết các khuyết tật cao là từ 11-13 độ. Hầu hết 3 gỗ có một gác xép khoảng 15 độ. Nó thực sự có ý nghĩa đối với người chơi golf trung bình để có hai câu lạc bộ gần nhau.

Gác xép của 5 gỗ thường là khoảng 18 độ và đó sẽ là một khoảng cách tốt hơn nhiều giữa các câu lạc bộ. Thiết lập lý tưởng của tôi là một người lái xe 11 độ, 18 độ 5 độ và lai 22 độ.11-degree driver, 18-degree 5-wood, and 22-degree hybrid.

Những gì để tìm kiếm trong một gỗ fairway

Khi nói đến Fairway Woods, người chơi trung bình cần tìm kiếm những thứ khác nhau so với người chơi cào. Họ thường không nhanh chóng vung vẩy, họ nhớ điểm ngọt ngào thường xuyên hơn và họ muốn những bức ảnh căng thẳng hơn nhiều.

Dưới đây là một số điều chung mà bạn muốn xem xét:

  • Sự tha thứ
  • Khoảng cách
  • Khởi động chiều cao
  • Quay
  • Điều chỉnh

Có lẽ điều quan trọng nhất là làm thế nào tha thứ cho câu lạc bộ. Càng tha thứ cho các câu lạc bộ của bạn có càng nhiều fairway mà bạn sẽ đạt được. Bạn càng đạt được nhiều hơn, điểm số của bạn sẽ càng tốt. Những khu rừng fairway tha thứ nhất có một cái đầu lớn hơn một chút làm cho điểm ngọt ngào lớn hơn.forgiving the club is. The more forgiveness your clubs has the more fairways you’ll hit. The more fairways you hit the better your scores will be. The most forgiving fairway woods have a slightly bigger head that makes the sweet spot bigger.

Điều mà hầu hết mọi người tìm kiếm là khoảng cách nhưng nó thực sự không quan trọng như bạn nghĩ. Hãy nhớ rằng tôi đã nói về việc chụp 9 lỗ tốt nhất của tôi với 7 gỗ? Câu lạc bộ đó chỉ đi 200 yard hoặc lâu hơn, vì vậy điều đó cho thấy rõ khoảng cách thực sự quan trọng như thế nào.distance but it’s actually not as important as you might think. Remember I talked about shooting my best 9 holes ever with a 7-wood? That club only went 200 yards or so, so that clearly shows how important distance actually is.

Một tính năng siêu quan trọng khác là chiều cao khởi động. Rất nhiều người chơi golf trung bình don lồng có tốc độ xoay nhanh nhất và có thể gặp khó khăn khi đưa bóng lên không trung. Chiều cao nhiều hơn sẽ cho bạn nhiều khoảng cách hơn. Gác xép là bạn của bạn và đó là một trong những lý do khiến tôi thích 5 gỗ hơn.launch height. A lot of average golfers don’t have the fastest swing speeds and might have trouble getting the ball in the air. More height will give you more distance. Loft is your friend and that’s one of the reasons I like 5-wood more.

Một điều cũng cần nhận thức được là tỷ lệ quay. Nó có vẻ như là một ý tưởng tốt để có ít spin vào các bức ảnh của bạn nhưng nó có lẽ không phải là một ý tưởng tốt cho người chơi gôn trung bình. Có các tùy chọn quay thấp cho người lái xe và rừng [Sub Zero, Tour, v.v.] nhưng đây là những người chơi tốt hơn.spin rate. It might seem like a good idea to have less spin on your shots but it’s probably not a good idea for the average golfer. There are low spinning options for drivers and woods [Sub Zero, Tour, etc] but these are for better players.

Điều cuối cùng cần xem xét là điều chỉnh. Có thể điều chỉnh gác xép, nói dối và trọng lượng là khá tuyệt và tất cả nhưng nó không phải là thứ gì đó khó khăn nên tập trung vào. Giữ mọi thứ đơn giản, làm việc trên chiếc xích đu của bạn và quay lại với những điều này sau đó. Nếu câu lạc bộ của bạn có sự điều chỉnh, mát mẻ, nhưng nó không phải là vấn đề lớn nếu nó không có.adjustability. Being able to adjust loft, lie, and weight is pretty cool and all but it’s not something a high handicap should be focusing on. Keep things simple, work on your swing, and come back to these after. If your club has adjustments, cool, but it’s not a big deal if it doesn’t.

Trục flex tốt nhất cho người khuyết tật cao

Trục Flex dựa trên mức độ nhanh chóng của bạn, nhưng đối với hầu hết các khuyết tật cao, trục Flex tốt nhất là thường xuyên. Điều này sẽ tạo ra nhiều tốc độ hơn và giữ cho quả bóng bay căng hơn.

Bây giờ bạn đã biết những gì bạn muốn gỗ fairway, bạn sẽ cần phải tìm ra trục nào phù hợp với bạn. Điều này cũng quan trọng như chính câu lạc bộ bởi vì nó sẽ có tác động lớn đến hình dạng bắn của bạn.

Một trục mà quá chắc chắn sẽ cho bạn những bức ảnh thấp có xu hướng cắt. Một trục mà quá mềm sẽ có xu hướng móc bóng. Không phải lúc nào cũng nhưng đây là một số hướng dẫn chung.

Những gì bạn cần làm là tìm ra tốc độ xoay của bạn. Nếu bạn không biết tốc độ xoay của mình thì hãy tìm ra bạn thường lái bóng bao xa. Dưới đây là một số hướng dẫn:

  • Nếu bạn lái bóng dưới 200 yard = tốc độ xoay dưới 80 dặm/giờ = Senior/Ladies trục
  • Nếu bạn lái bóng 200-240 yard = tốc độ xoay 80-90 mph = trục thông thường
  • Nếu bạn lái bóng 240-275 yard = tốc độ xoay 90-100 dặm / giờ = trục cứng
  • Nếu bạn lái bóng trên 275 yard = tốc độ xoay trên 100 dặm / giờ = trục cứng thêm

Chọn trục phù hợp cho cú swing của bạn sẽ giúp bạn có được khoảng cách nhiều nhất và sẽ cho bạn quyền kiểm soát nhiều nhất. Tôi đã sử dụng tất cả các loại trục và tôi có thể đánh bóng tốt với mỗi loại. Tính nhất quán của tôi ở khắp mọi nơi mặc dù với Flex sai.

Fairway Woods tốt nhất cho người mới bắt đầu và người khuyết tật cao

Bây giờ bạn đã biết chính xác những gì cần tìm kiếm với gỗ fairway của bạn, chúng tôi sẽ nhảy vào một số mục yêu thích của tôi. Tôi nghĩ rằng không có lý do nào để bạn ra ngoài và chi 400 đô la cho các câu lạc bộ năm nay với tư cách là một cầu thủ bình thường.

Khá nhiều tất cả các câu lạc bộ trong 5 năm qua đánh bóng cùng một khoảng cách. Nếu bạn muốn câu lạc bộ mới nhất và vĩ đại nhất thì hãy đi ngay, nhưng chỉ cần biết, nó không cần thiết.same distance. If you want the latest and greatest club then go right ahead, but just know, it’s not necessary.

Các câu lạc bộ mà tôi đã liệt kê dưới đây là những câu lạc bộ mà tôi đã xem xét nếu tôi là một người chơi trung bình trên thị trường cho một cái gì đó mới. Mỗi người trong số họ hơi khác nhau nhưng bạn có thể đi sai với bất kỳ ai trong số họ. Chúng tôi sẽ nói về những người trong số họ là hoàn hảo.ones I’d consider if I was an average player in the market for something new. Each of them is slightly different but you can’t go wrong with any of them. We’ll talk about who each of them is perfect for.

Callaway Mavrik Max [lựa chọn số 1 của tôi]

Callaway tạo ra một số sản phẩm golf phổ biến nhất và Mavrik Max là Fairway Wood năm 2020 của họ được thiết kế cho người chơi khuyết tật cao hơn. Nó được xây dựng cho khoảng cách và sự tha thứ tối đa.2020 fairway wood designed for higher handicap players. It’s built for distance and maximum forgiveness.

Tôi hiện đang sử dụng Epic Flash Fairway Wood [phiên bản 2019] và hoàn toàn thích nó. Tôi không nghĩ rằng nó đã tha thứ đủ cho người chơi trung bình và đó là lý do tại sao Mavrik sẽ tốt hơn.

Có một vài mô hình khác nhau của gỗ fairk mavrik [tiêu chuẩn, tối đa, sub zero]. Sub Zero dành cho người chơi khuyết tật thấp và chắc chắn nằm ngoài phương trình. Max lớn hơn và sẽ tha thứ hơn rất nhiều.Sub Zero is for low handicap players and is definitely out of the equation. Max is bigger and is going to be a lot more forgiving.

Nếu bạn đang làm việc theo cách của mình trong suốt những năm 90 và don cần rất nhiều sự tha thứ, bạn có thể muốn có được Mavrik tiêu chuẩn. Tôi thích nó tốt hơn bản thân vì nó nhỏ hơn một chút nhưng nó chắc chắn không dễ đánh.standard Mavrik. I like it better myself because it’s slightly smaller but it’s definitely not as easy to hit.

Câu lạc bộ này được thiết kế để đưa ra một sự ra mắt cao và sự thiên vị của chuyến bay là một điểm thu hút nhẹ. Nó đã giành được một lát cắt nhưng nó có thể giúp làm thẳng mọi thứ một chút.flight bias is a slight draw. It won’t fix a slice but it can help straighten things out a little bit.

Điều tôi thích ở câu lạc bộ này là khuôn mặt được thiết kế để đánh bóng một khoảng cách tốt nếu bạn chạm ngón chân hoặc gót chân. Hãy trung thực, chúng tôi hiếm khi đánh vào trung tâm của khuôn mặt và đó là lý do tại sao đây là một tính năng thú vị.

  • Kiểm tra giá Mavrik trên Amazon.

  • Mua mới hoặc được sử dụng trên golf toàn cầu.

Ưu điểm

  • Mishits vẫn đánh bóng tốt.
  • Chiều cao khởi động là tuyệt vời cho hầu hết.
  • Khuôn mặt lớn hơn dễ đánh hơn.

Nhược điểm

  • Viện trợ căn chỉnh là tốt nhất.
  • Không điều chỉnh.

Cleveland Launcher Turbo [lựa chọn số 2 của tôi]

Rất nhiều người bỏ qua các câu lạc bộ Cleveland nhưng họ là một số yêu thích của tôi trên thị trường. Turbo là mô hình của họ được thiết kế cho khuyết tật cao và nó có lẽ là một trong những câu lạc bộ dễ nhất mà tôi đã từng đánh.easiest clubs I’ve ever hit.

Tôi nghĩ rằng nó phù hợp nhất với một người có tốc độ xoay chậm hơn nhưng nó hoàn toàn ổn nếu bạn không ủng hộ. Nó được thiết kế để phóng quả bóng cao trong không khí, đưa ra một chuyến bay bóng thẳng và tạo ra khoảng cách nhiều nhất cho người chơi golf trung bình.slower swing speed but it’s completely fine if you don’t. It’s designed to launch the ball high in the air, give a straight ball flight, and generate the most distance for the average golfer.

Tôi hiện đang sử dụng Irons Cleveland và có một trong những cái nêm của họ và hoàn toàn yêu thích chúng. Tôi thực sự thích trình khởi chạy năm trước và Turbo mới thậm chí còn tốt hơn.

Nó không quá ưa thích, nó không thể điều chỉnh được, và nó không phải là tốt nhất để định hình bóng xung quanh. Đó không phải là câu lạc bộ này được thiết kế và tôi thực sự thích thiết kế chộp và bắn đơn giản.grab and shoot design.

Miễn là bạn muốn đánh bóng cao, dài và thẳng, bạn sẽ thực sự thích gỗ turbo. Nó là một trong những mục yêu thích của tôi và nên là người nếu bạn đang bắt đầu chậm lại một chút.high, long, and straight, you’ll really like the Turbo wood. It’s one of my favorites and should be the go-to if you’re swing is starting to slow down a bit.

  • Kiểm tra giá turbo trên Amazon.

  • Mua mới hoặc được sử dụng trên golf toàn cầu.

Ưu điểm

  • Mishits vẫn đánh bóng tốt.
  • Chiều cao khởi động là tuyệt vời cho hầu hết.
  • Khuôn mặt lớn hơn dễ đánh hơn.

Nhược điểm

  • Viện trợ căn chỉnh là tốt nhất.
  • Không điều chỉnh.

Cleveland Launcher Turbo [lựa chọn số 2 của tôi]

Rất nhiều người bỏ qua các câu lạc bộ Cleveland nhưng họ là một số yêu thích của tôi trên thị trường. Turbo là mô hình của họ được thiết kế cho khuyết tật cao và nó có lẽ là một trong những câu lạc bộ dễ nhất mà tôi đã từng đánh.best in its price range.

Tôi nghĩ rằng nó phù hợp nhất với một người có tốc độ xoay chậm hơn nhưng nó hoàn toàn ổn nếu bạn không ủng hộ. Nó được thiết kế để phóng quả bóng cao trong không khí, đưa ra một chuyến bay bóng thẳng và tạo ra khoảng cách nhiều nhất cho người chơi golf trung bình.offset to help fight the slice. You might not want this as you get better, but for now, it’s going to help you out a lot.

Tôi hiện đang sử dụng Irons Cleveland và có một trong những cái nêm của họ và hoàn toàn yêu thích chúng. Tôi thực sự thích trình khởi chạy năm trước và Turbo mới thậm chí còn tốt hơn.faster swing speeds. If you do swing the club pretty fast, you’d prefer the Callaway. If you have a slow to mid swing speed, you’ll see awesome results with this.

Nó không quá ưa thích, nó không thể điều chỉnh được, và nó không phải là tốt nhất để định hình bóng xung quanh. Đó không phải là câu lạc bộ này được thiết kế và tôi thực sự thích thiết kế chộp và bắn đơn giản.

Miễn là bạn muốn đánh bóng cao, dài và thẳng, bạn sẽ thực sự thích gỗ turbo. Nó là một trong những mục yêu thích của tôi và nên là người nếu bạn đang bắt đầu chậm lại một chút.sound and feel at impact. Some clubs are sort of embarrassing to hit at the range because you can hear it from 2 miles away. That’s not the case with this bad boy.

Kiểm tra giá turbo trên Amazon.

  • Nó có sự giúp đỡ liên kết tốt hơn.

  • Mua mới hoặc được sử dụng trên golf toàn cầu.

Ưu điểm

  • Mishits vẫn đánh bóng tốt.
  • Chiều cao khởi động là tuyệt vời cho hầu hết.
  • Khuôn mặt lớn hơn dễ đánh hơn.

Nhược điểm

  • Không điều chỉnh.
  • Cleveland Launcher Turbo [lựa chọn số 2 của tôi]

Rất nhiều người bỏ qua các câu lạc bộ Cleveland nhưng họ là một số yêu thích của tôi trên thị trường. Turbo là mô hình của họ được thiết kế cho khuyết tật cao và nó có lẽ là một trong những câu lạc bộ dễ nhất mà tôi đã từng đánh.

Tôi nghĩ rằng nó phù hợp nhất với một người có tốc độ xoay chậm hơn nhưng nó hoàn toàn ổn nếu bạn không ủng hộ. Nó được thiết kế để phóng quả bóng cao trong không khí, đưa ra một chuyến bay bóng thẳng và tạo ra khoảng cách nhiều nhất cho người chơi golf trung bình.slower swing speed and want something that’s really forgiving, this could be an option for you. PING is a little bit underrated but they make some awesome clubs for mid to high handicap golfers.

Cá nhân tôi nhận được Cleveland thay vì vì nó rẻ hơn, nhưng hai câu lạc bộ rất giống nhau. Bạn có thể đánh vào câu lạc bộ trên ngón chân, gót chân, thấp hoặc cao, và nó sẽ gửi bóng khá thẳng.Cleveland instead because it’s cheaper, but the two clubs are very similar. You can hit the club on the toe, the heel, low, or high, and it’ll send the ball fairly straight.

Tin tốt với điều này là cuối cùng bạn sẽ tấn công nhiều luồng hơn. Điều đó thực sự giúp bạn đưa bạn từ một handicap cao đến giữa hoặc từ cao đến thấp 80. Tin xấu là nó sẽ khó đạt được một trận hòa hoặc mờ dần.

G410 có khả năng ra mắt cao hơn và sẽ dễ dàng hơn để đánh cho người chơi golf với tốc độ xoay chậm hơn. Nếu bạn có tốc độ xoay nhanh hơn thì bạn sẽ có thêm khoảng cách với một câu lạc bộ phóng thấp hơn một chút.G410 is higher launching and will be easier to hit for golfers with slower swing speeds. If you have a faster swing speed then you’ll get more distance with a slightly lower launching club.

Một điều cần lưu ý là bạn có thể điều chỉnh gác xép nhưng nó chỉ tăng hoặc giảm 1 độ. Đó là lý do tại sao tôi nghĩ rằng nó rất quan trọng để có được 5 gỗ thay vì 3 gỗ.

  • Mua mới hoặc được sử dụng trên golf toàn cầu.

Ưu điểm

  • Chuyến bay bóng cao.
  • Nó là một trong những khu rừng tha thứ hơn.
  • Bạn có thể đánh nó từ tất cả những lời nói dối.

Nhược điểm

  • Có những điều chỉnh tối thiểu.
  • Nó không phải là tốt nhất để định hình bóng.

Cobra F9 Speedback

Nếu bạn đang tìm kiếm một loại gỗ fairway vững chắc có thể được sử dụng khi bạn trở nên tốt hơn, thì đây cũng có thể là một lựa chọn tốt. Tôi đã không thấy nó ra mắt cao như Cleveland hoặc tha thứ như Callaway, nhưng nó khá gần., this could also be a good option. I didn’t find it as high launching as the Cleveland or as forgiving as the Callaway, but it was pretty close.

Câu lạc bộ có hai đường ray ở phía dưới và điều đó giúp ra khỏi khu vực thô. Trong số tất cả các khu rừng, Cobra có lẽ là tốt nhất trong số những người thô lỗ và tốt cho những người đánh sau quả bóng.hit out of the rough. Out of all the woods, the Cobra was probably the best out of the rough and is good for people who hit behind the ball.

Có rất nhiều điều chỉnh như một số nhưng có nhiều hơn G410. Trên Speedback, bạn có thể điều chỉnh gác xép của 3 gỗ trong khoảng thời gian từ 14-16 và 5 gỗ từ 17-20 độ.5-wood from 17-20 degrees.

Tôi đã đề cập rằng câu lạc bộ này là dài. Đó chắc chắn là trường hợp nhưng nó không phải là dặm so với những người khác. Hầu hết các câu lạc bộ đã xuất hiện trong 5 năm qua đánh bóng rất giống nhau.long. That was definitely the case but it wasn’t miles above the others. Most clubs that have come out over the past 5 years hit the ball very similar distances.

Bạn có thể chọn từ màu vàng và xám hoặc bạc và xám. Tôi thích vẻ ngoài của con rắn hổ mang bạc, nhưng tôi cũng không quan tâm đến vẻ ngoài của phiên bản màu vàng.

  • Kiểm tra giá tốc độ trên Amazon.

  • Mua mới hoặc được sử dụng trên golf toàn cầu.

Ưu điểm

  • Chuyến bay bóng cao.
  • Nó là một trong những khu rừng tha thứ hơn.
  • Bạn có thể đánh nó từ tất cả những lời nói dối.

Nhược điểm

  • Nó không phải là tốt nhất để định hình bóng.
  • Cobra F9 Speedback
  • Nếu bạn đang tìm kiếm một loại gỗ fairway vững chắc có thể được sử dụng khi bạn trở nên tốt hơn, thì đây cũng có thể là một lựa chọn tốt. Tôi đã không thấy nó ra mắt cao như Cleveland hoặc tha thứ như Callaway, nhưng nó khá gần.
  • Câu lạc bộ có hai đường ray ở phía dưới và điều đó giúp ra khỏi khu vực thô. Trong số tất cả các khu rừng, Cobra có lẽ là tốt nhất trong số những người thô lỗ và tốt cho những người đánh sau quả bóng.
  • Có rất nhiều điều chỉnh như một số nhưng có nhiều hơn G410. Trên Speedback, bạn có thể điều chỉnh gác xép của 3 gỗ trong khoảng thời gian từ 14-16 và 5 gỗ từ 17-20 độ.
  • Tôi đã đề cập rằng câu lạc bộ này là dài. Đó chắc chắn là trường hợp nhưng nó không phải là dặm so với những người khác. Hầu hết các câu lạc bộ đã xuất hiện trong 5 năm qua đánh bóng rất giống nhau.

Bạn có thể chọn từ màu vàng và xám hoặc bạc và xám. Tôi thích vẻ ngoài của con rắn hổ mang bạc, nhưng tôi cũng không quan tâm đến vẻ ngoài của phiên bản màu vàng.

Kiểm tra giá tốc độ trên Amazon.

Câu lạc bộ này dài.

Tha thứ thực sự tốt.

Gỗ 5 được xếp hạng cao nhất là gì?

5 khu rừng tốt nhất trên thị trường vào năm 2022..
Ben Hogan GS53 5 Gỗ. 5 Gỗ tốt nhất cho người khuyết tật giữa ..
Callaway Epic Max5 Wood. 5 Gỗ tốt nhất cho người khuyết tật cao ..
Ping G425 SFT 5 Gỗ. Phần còn lại của 5 khu rừng tốt nhất cho năm 2022 ..

Câu lạc bộ nào sẽ thay thế một câu lạc bộ nào?

Người đứng đầu câu lạc bộ lớn hơn của một gỗ fairway so với một bàn ủi giúp dễ dàng đạt được khoảng cách hơn mà không cần vung quá nhiều.Như một nguyên tắc thô, một loại gỗ 4 sẽ thay thế một loại sắt 2, một gỗ 5 bằng sắt 3, một gỗ 7 bằng sắt 4 và một gỗ 9 sắt.3-iron, a 7 wood the 4-iron and a 9 wood the 5 iron.

Dễ nhất để đánh 5 gỗ là gì?

Gỗ 5 dễ nhất để đánh là gì?Theo chúng tôi, thợ phóng Cleveland HB Turbo Fairway Wood là một trong những khu rừng fairway tốt nhất cho người mới bắt đầu vì dễ dàng của gỗ và cũng là sự tha thứ cực độ.Nếu bạn là người chơi gôn mới bắt đầu, bạn sẽ muốn có một trọng tâm thấp [CG] và một số cân bằng thực sự tốt.Cleveland Launcher HB Turbo Fairway Wood is one of the best fairway woods for beginners because of the ease of the wood and also extreme forgiveness. If you're a beginner golfer, you're going to want a low center of gravity [CG] and some really good balance.

Gỗ tốt nhất trên thị trường là gì?

8 3 khu rừng tốt nhất năm 2022..
Titleist TSI2 [tốc độ tối đa và khả năng điều chỉnh].
PING G425 MAX [Vô cùng tha thứ và công nghệ cao].
Callaway Rogue St Max [Draw Bias và lần thứ nhất sử dụng vonfram cho Callaway Woods].
Taylormade lén lút / tàng hình cộng với [cực kỳ nóng / dài].
Mizuno St-Z [đầu quá khổ để truyền cảm hứng cho sự tự tin].

Chủ Đề