Hướng dẫn biến toàn cục php

Biến trong PHP được thể hiện bởi dấu dollar $ và theo sau là tên của biến. Tên biến không phân biệt chữ hoa hay chữ thường. Tên biến phải bắt đầu bằng một chữ cái hay một dấu gạch nối_, theo sau là các chữ cái, chữ số hay là dấu gạch nối. Ví dụ:

var = "Bob";
$Var = "Joe";
echo "$var, $Var";

Trong PHP3 thì các biến phải luôn luôn được gán giá trị. Còn trong PHP4 . PHP5 thì cung cấp thêm một cách khác để gán giá trị cho biến: gán theo tham chiếu. Điều này có nghĩa là một biến mới có thể tham chiếu đến một biến nguyên thuỷ. Sự thay đổi của biến mới sẽ tác động đến biến nguyên thuỷ và ngược lại. Nó cũng có nghĩa là không có sao chép, do đó việc kết gán sẽ diễn ra nhanh hơn. Để thực hiện gán bằng tham chiếu, chỉ cần thêm & ở đầu tên của biến được gán.Ví dụ sau sẽ in ra dòng ‘My name is Bob’ hai lần:

II. PHẠM VI CỦA BIẾN :

Các biến trong PHP có thể là một trong bốn loại phạm vi sau:

  • § Biến cục bộ.
  • § Tham số các hàm.
  • § Biến toàn cục.
  • § Biến static.

1] Biến cục bộ:

Một biến được khai báo trong một hàm thì được xem như là một biến cục bộ và nó chỉ được tham chiếu trong hàm đó. Bất kể việc gán giá trị bên ngoài hàm đều xem như là biến hoàn toàn khác với biến trong hàm đó. Chú ý khi thoát khỏi hàm mà biến cục bộ được khai báo, thì biến và giá trị của nó sẽ bị huỷ bỏ. Biến cục bộ có thuận lợi bởi nó loại bỏ những khả năng của các tác động không dự đoán được làm thay đổi kết quả từ các biến có thể truy cập toàn cục.Ví dụ:

$x = 4;
function assignx [] {
$x = 0;
print "Biến x bên trong funtion là $x. 
"; } assignx[]; print "Biến x bên ngoài hàm là $x.
";

Sau khi thực hiện sẽ có các kết quả như sau:

Biến x bên trong hàm là 0.
Biến x bên ngoài hàm là 4.

2] Tham số của hàm:

Cũng giống như nhiều ngôn ngữ lập trình khác, trong hàm của PHP có chứa tham số, bạn phải khai báo các tham số trong phần đầu của hàm. Mặc dù những tham số này nhận các giá trị đến từ bên ngoài hàm, nhưng chúng sẽ chỉ có thể truy cập một khi hàm tồn tại. Các tham số của hàm được khai báo sau tên hàm và bên trong dấu {. Ví dụ:

function x10 [$value] {
    $value = $value * 10;
    return $value;
}

Điều quan trọng cần phải chú ý là mặc dù bạn có thể truy cập và thao tác với các tham số trong hàm mà nó được khai báo, nhưng nó sẽ bị huỷ bỏ khi hàm kết thúc thực hiện.

3] Biến toàn cục:

Ngược lại với biến cục bộ, biến toàn cục có thể được truy cập từ bất cứ phần nào trong chương trình .Tuy nhiên, để có thể chỉnh sửa biến toàn cục bên trong 1 hàm thì nó phải được khai báo toàn cục sử dụng từ khoá GLOBAL ở phía trước.

Ví dụ:

$somevar = 15;
function addit[] {
  GLOBAL $somevar;
  $somevar++;
  print "Somevar is $somevar";
}
addit[];

Kết quả của $somevar là 16. Tuy nhiên, nếu bạn bỏ dòng lệnh GLOBAL $somevar; thì biến $somevar sẽ chỉ có giá trị là 1, bởi biến $somevar được xem như là biến cục bộ trong hàm addit[ ].
Một cách khác để chỉ định một biến là toàn cục, chúng ta có thể sử dụng mảng $GLOBALS trong hàm. Ví du, khai báo biến $somevar là toàn cục bằng cách sử dụng mảng này như sau :

$somevar = 15;
function addit[] {
    $GLOBALS["somevar"];
    $somevar++;
}
addit[];
print "Somevar is $somevar";

4] Biến static:

Tương phản với các biến cục bộ của hàm là nó sẽ bị huỷ bỏ khi thoát khỏi hàm, thì biến static sẽ không mất giá trị của nó khi thoát khỏi hàm và vẫn giữ nguyên giá trị đó khi hàm được gọi lại lần nữa.

Bạn có thể khai báo một biến là static bằng cách dùng từ khoá STATIC đặt trước tên biến.
Ví dụ:

function keep_track[] {
    STATIC $count = 0;
    $count++;
    print $count;
    print "
"; } keep_track[]; keep_track[]; keep_track[];

Kết quả là :

Gợi ý : Bạn là người mới và muốn tìm hiểu về Bitcoin nhưng không biết bắt đầu từ đâu? Click xem ngay Hướng Dẫn Đầu Tư Bitcoin Cho Người Mới nhé!

1
2
3

III. TRUY CẬP BIẾN TỪ TRÌNH DUYỆT

Khi dùng PHP, cũng như các phần mềm trung gian khác, thông tin được cung cấp tuỳ chọn dựa vào tham chiếu người dùng. Dĩ nhiên thông tin sẽ đến thông qua “form”. Thông tin cũng có thể đến từ những nơi khác, như “cookie” hay “sessions”.

1.Biến form:

Một trong những cách phổ biến là chuyển biến thông qua “form”. Mỗi thành phần trong form của chúng ta sẽ được gán tên và thuộc tính giá trị. Khi form được “submit” thì name=value sẽ được chuyển đến PHP. Chúng ta có thể chuyển đến PHP bởi phương pháp GET hoặc POST, tùy thuộc chúng ta chọn gì trong thuộc tính hành động của “form”. Một khi form được “submit”, những thành phần của form sẽ tự động trở thành những biến toàn cục trong PHP.

2.Sessions:

PHP cũng giống như ASP và ColdFusion đều hỗ trợ sessions. Vậy sessions là gì? Về cơ bản nó là một cách khác để duy trì trạng thái giữa các trang Web. Chúng ta bắt đầu một sessions bởi hàm start_session[]. Khi đó PHP sẽ đăng ký một session ID duy nhất và gửi session ID đó về cho người dùng thông qua cookie. PHP sẽ tạo những tệp đáp trả trên server để có thể lưu giữ dấu vết của bất kỳ biến nào. Những tệp này có cùng tên với session ID.
Một khi session được tạo chúng ta có thể đăng ký bất kỳ biến số nào. Giá trị của nó sẽ được giữ trên một tệp ở máy chủ. Và như vậy trong thời gian sống của session những biến này sẽ được thực hiện bởi bất cứ trang nào trong cùng một tên miền mà không cần truy cập đến chúng.
Tuy nhiên có một số người dùng không cho phép cookie, khi đó PHP giữ dấu vết các session ID qua các querystring. Chúng ta có thể làm điều này bằng tay bằng cách cho sessiong ID phụ thuộc queryString, hoặc thay đổi tuỳ chọn cấu hình. Để thêm session Id đến querystring, ta dùng . Nó sẽ tự động in ra một chuỗi như sau:

PHPSESSID=07e935k3kkjr0986s9d89fr9trg8rgrg20

Đoạn mã sau sẽ đăng ký một session ID và gán cho nó giá trị là: hello world

0

c.Cookies:

Cookies là một mẩu thông tin nhỏ được lưu trữ trên máy tính người dùng. Một cookies chứa một đoạn văn bản nhỏ có thể đọc bởi máy chủ Web. Cookies cung cấp cách để có thể giữ dấu vết người sử dụng thông qua một số dịch vụ. Chúng ta phải nhớ rằng Web là môi trường trạng thái. Máy chủ Web sẽ không biết ai yêu cầu thông tin, cookies sẽ giúp chúng ta giữ thông tin người dùng khi họ di chuyển quanh site. Khi họ tồn tại , cookies trở thành một phần của yêu cầu HTTP gửi đến cho máy chủ Web. Những trước hết chúng ta cần thiết lập một cookies. Những người phát triển sẽ làm điều này, giống như mọi thứ khác trong PHP, chúng rất đơn giản. Dùng hàm setcookie[] với những tham số theo sau:

Chủ Đề