Trống chùa
Trống một mặt, bịt bằng bong bóng lợn, đường kính khoảng 20 cm, tang trống bằng gỗ, cao 5 cm, có một tay cầm 12 cm. Âm thanh cao, trong trẻo, thanh thoát. Dùng để điểm nhịp cho người tụng kinh.Trống mảnh
Trống Sấm
Trống đại, Trống cái
Trống lớn gần bằng đứa trẻ 10 tuổi.Trống đại và trống cái to gần như trống sấm, có hình dáng như trống sấm. Tiếng trống to, trầm, vang xa. Đình chùa nào cũng có trống đại. Trống được đánh xen với chuông đồng hay chiêng lớn. Khi có mặt trong đám rước, vì quá lớn nên trống đại phải đặt trên giá xe chở đi.Trống đại, trống cái được dùng trong đời sống hằng ngày với nhiệm vụ thông báo, gọi là trống ngũ liên báo động có trộm cướp, vỡ đê, hỏa hoạn.Trong ngày lễ chùa, trống đặt trên xe đi trong đám rước
Không có đám ma nào mà không có tiếng trống cái...Tiếng trống to, vang xa nhưng không trầm bằng trống đại. Trống cái cũng có mặt trong các dàn nhạc cung đình Đường Thượng Chi Nhạc, Đại Nhạc, Nhã Nhạc, Nhạc Huyền, Nhạc Tuồng, Chèo, Bài Chòi, Nhạc Lễ, Đội Trống Ngũ Lôi.Hiện nay, trống cái hay là trống đại được sử dụng trong các ban nhạc gọi là tổng hợp vì nhạc cụ của cả hai vùng cao, vùng suôi được hoà tấu chung.[click :] Nghe một bài trống phụ hoạ cho một bản nhạc du dương trong đoàn Múa Rối Nước Thăng Long Hà Nội.[click :] Nghe một bài trống khác phụ hoạ cho một bản nhạc náo nhiệt.[click :] Nghe hai chi tiết câu trống thường được dùng trong mọi điệu trống Việt Nam.
Trống chầu
Trống của sân khấu Tuồng, Chèo, trông giống như trống cái nhưng được làm công phu hơn. Chỉ gõ bằng một dùi để điểm câu hát [1 tiếng tùng], khen ngợi [2 hay 5 tiếng tùng] hay chê bai [1 tiếng tịch = 1 tay chặn, 1 dùi đánh] đào kép, góp ý với thầy tuồng [1 tiếng các = đánh vào tang trống].Trống chiến, trống trận
Như trống cái nhưng nhỏ hơn, âm thanh nghe rộn ràng, khoẻ vang.Trống Cái trong Hát Tuồng [chụp cuối thế kỷ 19]Là trụ cột của ban nhạc Tuồng, mở câu, chấm câu, thôi thúc xuất trận hay làm đối âm cho câu hát. Trống này cho người đánh nhiều âm khác nhau :
Thùng = đánh giữa mặt trống
Tang = đánh rìa mặt trống
Rụp = đánh 2 dùi ở mặt trống
Tịch = 1 dùi chặn, 1 dùi đánh
Tòng = đánh nhóm dùi vào mặt trống
Các = đánh vào tang gỗ.Vào khoảng năm 1956, tôi có thu thanh được một số điệu trống trong Hát Bộ Bình Định. Những điệu này có công dụng phụ hoạ cho diễn viên Tuồng trong các vai trò, hành động... của mình.Điệu Trống Chiến phụ hoạ cho đào kép sửa soạn nói lối.Điệu Trống Đâm Bang được khua lên khi tướng ra trận.Điệu Trống Đổ, khi diễn viên sửa soạn ngâm.Điệu Trống Đổ Chiêu khi đào kép đi vòng tròn, sau mỗi đoạn hát.Điệu Trống Giao Chiến khi hai bên chuẩn bị đánh nhau.Điệu Trống Đổ Xây Tá dùng khi tướng say rượu.Điệu Trống Rụp Đổ Xáng dùng khi tướng nói lối.Điệu Trống Tẩu Mã, khi vai tướng đuổi giặc đánh giặc...Tôi cũng sưu tập được bức hình một ban hát ở nhà quê chụp vào cuối thế kỷ 19, không biết gọi là ban gì, bởi vì ta thấy có người đánh đàn đáy, có thiếu nữ ngồi gõ phách và hai người đứng múa. Đặc biệt có một nhạc công giơ tay đánh cái trống lớn ở giữa hình.
Tạm gọi là ban Hát Chèo Thôn Ổ có nhạc công giơ cái dùi đánh trống cái...Ở Trung Bộ, Nam Bộ, trống chiến có mặt trong ban nhạc lễ, khi có lễ đình, lễ tang...
Trống ban
Trống nhỏ, đường kính 20 cm, cao 26 cm, âm thanh vui tươi, giòn, vang. 4 trống ban ghép với 1 trống cái thành ban trống ngũ lôi, dùng trong các cuộc vui, ngày hội. Khi có mặt trong đám rước thì, theo nhịp trống cái, 4 người đeo trống ban trước bụng vừa đánh trống với hai dùi, vừa đi, vừa đổi chỗ cho nhau.Trống đế
Nghe Nhạc Chèo có Trống Đế
Trống chầu
[click :] Tiếng Trống Chầu và Hát Nói
Hai bức ảnh trên và dưới, cách nhau nửa thế kỷ.
Trống bản
Loại trống dẹt, đánh bằng 2 dùi gỗ. Dùng trong ban nhạc tang lễ hay tế thần. Khi 4 trống bản cộng với 1 trống khẩu, 1 thanh la và 1 trống cái dẫn nhịp thì trở thành ban nhạc cà rùng, với âm thanh rinh tùng rinh, làm cho đám rước thêm náo nhiệt.Trống khẩu, trống lệnh
Trống khẩu thuộc loại âm cao, khổ 18X8 cm, có thêm một cái chuôi dài 12 cm, đánh bằng 1 dùi. Tiếng trống tươi vui, đĩnh đạc, dùng cùng ban nhạc cà rùng trong đám rước kiệu. Trống khẩu điều khiển kiệu đi nhanh, đi chậm, giữ thăng bằng. Cũng có khi đánh theo điệu hát, chỉ huy điệu múa. Người Dao cũng có trống tương tự như trống khẩu, cùng với ban nhạc gồm trống cái, chuông, thanh la, chũm choẹ dùng trong hội hè hoặc dùng là đạo cụ cho những vũ khúc.Trống bồng, trống cơm
Thuộc loại trống nhỡ, không lớn, không nhỏ, có thể đặt trên đùi hay đeo vào người để vừa đi hay vừa múa vừa đánh trống là trống bồng, trống cơm...Nhạc học gia Trần Văn Khê cho rằng loại trống này có mặt tại nước ta từ trước thời nhà Lý, và có thể ảnh hưởng từ trống Ấn Độ. Tại Chùa Phật Tích ở làng Vạn Phúc, tỉnh Bắc Ninh được xây cất vào khoảng thế kỷ XI... có những tượng nhỏ chạm trên bệ các cột chùa, trong đó có tượng người đánh trống giống như trống bồng hay trống cơm.Trống bỏi
Trống của trẻ em người vùng núi cũng như người vùng đồng bằng. Giống như trống khẩu nhưng nhỏ hơn và có chuôi, đặc biệt có hai viên đất nung gắn vào hai đầu hai sợi dây, hai dây này buộc vào tang trống. Khi cầm chuôi lắc đi lắc lại thì hai viên đất nung đập vào mặt trống, âm thanh nghe giòn giã nhưng ít ngân vang. Ở Triều Tiên, có trống tương tự nhưng to hơn nhiều.Trống nhạc
Trống của người miền đồng bằng Nam Bộ là một cặp trống có tên là trống văn, trống võ [hay trống đực, trống cái]. Âm thanh to và khoẻ, dùng trong dàn nhạc lễ.Ban Nhạc Lễ Nam Bộ với hai trống văn, trống võTrống này cũng được dùng trong ban Đại Nhạc [triều Nguyễn]
Ban Nhạc
Phạm Duy