Khi xây dựng mô hình kinh tế các nhà kinh tế học thường bỏ qua

Mô hình kinh tế [tiếng Anh: Economic model] là mô hình liên kết hai hay nhiều biến số kinh tế.

Hình minh họa. Nguồn: oxfordeconomics

Định nghĩa

Mô hình kinh tế trong tiếng Anh gọi là Economic model. Mô hình kinh tế là mô hình liên kết hai hay nhiều biến số kinh tế.

Đặc trưng

- Mô hình kinh tế được hình thành trên cơ sở quan sát các sự kiện hay biến cố kinh tế xảy ra trên thực tế. 

Mô hình kinh tế kết quả của tư duy, là tri thức kinh tế học mà con người có được khi nghiên cứu về hiện thực. 

- Các mô hình luôn luôn dựa vào các giả định đơn giản hóa.

Khi xây dựng các mô hình, người ta bao giờ cũng phải bỏ qua nhiều chi tiết thực của đối tượng nghiên cứu để có thể tập trung vào những chi tiết được coi là quan trọng nhất, có ý nghĩa nhất.

Các giả định không thể đưa ra một cách tùy tiện, vì nếu bỏ qua những chi tiết chính yếu, then chốt, có liên quan đến bản chất của đối tượng, chúng ta sẽ không thể hiểu được một cách thực chất về đối tượng.

Nhiệm vụ

- Mô hình kinh tế có thể biểu thị mối quan hệ giữa các nhóm người trong nền kinh tế hay giữa các biến số kinh tế.

Ví dụ: 

Mô hình về vòng chu chuyển của nền kinh tế biểu thị mối quan hệ tương tác giữa những hộ gia đình và các doanh nghiệp trên các thị trường đầu vào, đầu ra cho chúng ta một hình dung đơn giản về sự hoạt động của cả nền kinh tế.

Mô hình về sự lựa chọn của người tiêu dùng thể hiện mối quan hệ giữa lượng hàng hóa mà người tiêu dùng muốn mua về một loại hàng hóa với thu nhập, sở thích của người tiêu dùng và giá cả của chính hàng hóa này...

- Xác định được mối liên quan giữa các chủ thể kinh tế hay các biến số kinh tế, cụ thể:

+ Chỉ ra được mối quan hệ tương đối ổn định giữa chúng [do đó, chúng ta cần bỏ qua những mối quan hệ ngẫu nhiên]

+ Làm rõ mối liên hệ nhân quả giữa chúng [cái gì quyết định cái gì? cái gì là nguyên nhân, cái gì là kết quả?

+ Lượng hóa ở mức có thể các mối quan hệ này [khi một biến số thay đổi thì nó ảnh hưởng như thế nào đến sự thay đổi của một biến số khác cả về mặt định tính lẫn mặt định lượng]

Ý nghĩa

Mô hình kinh tế là những công cụ hữu ích để phân tích các hành vi kinh tế của con người cũng như sự vận hành của nền kinh tế. 

Ví dụ như người ta dùng bản đồ địa chất để hình dung về các mỏ khoáng sản, dùng mô hình giải phẫu cơ thể người để hình dung về con người dưới góc nhìn sinh học.

Liên hệ thực tiễn

Do được chắt lọc từ thực tế nhằm diễn giải thực tế ở những điểm chính yếu nhất, mô hình kinh tế là công cụ hữu ích để phân tích về các vấn đề kinh tế trong đời sống thực. 

Tuy nhiên, do dựa vào các giả định đơn giản hóa, các mô hình kinh tế không phải là đời sống kinh tế thực. Khi phân tích một vấn đề kinh tế cụ thể, đôi khi chúng ta vẫn phải tính đến những điều đã bị bỏ qua trong các giả định để có thể đưa ra được những kiến giải cụ thể. 

Các giả định kinh tế luôn là những giả định liên quan đến hành vi của con người. Khi những hoàn cảnh kinh tế chi phối các hành vi này thay đổi, cách thức ứng xử của con người cũng sẽ thay đổi. Đây là lúc các giả định, dù trước đó thường được công nhận, cần được xem xét lại. Vì lí do này mà cần có những mô hình kinh tế tốt hơn.

[Tài liệu tham khảo: Giáo trình Kinh tế vi mô, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân]

Minh Lan

Mô hình [model] là sự đơn giản hóa hiện thực một cách có chủ định. Nó cho phép nhà nghiên cứu bỏ qua các mặt thứ yếu để tập trung vào phương diện chủ yếu, có ý nghĩa quan tọng đối với vấn đề nghiên cứu.

Ví dụ, mô hình xác định sản lượng cân bằng bỏ qua nhiều yếu tố tác động vào tổng sản lượng của nền kinh tế, chỉ giữ lại các thành tố lớn của tổng cầu, nhưng rất hữu ích đối với việc nghiên cứu nguyên nhân gây ra tình trạng suy thoái, vì trong nhiều trường hợp, tình trạng suy thoái có nguyên nhân ở sự biến động trong các thành tố của tổng cầu, đặc biệt đầu tư. Cần chú ý rằng xét về bản chất, mô hình kinh tế cũng là lý thuyết kinh tế, vì cả hai đều bỏ qua những mặt thứ yếu, tập trung vào mối quan hệ giữa các yếu tố chủ yếu.

Một số mô hình trong kinh tế học

Mô hình Heckscher-Ohlin, nhiều khi được gọi tắt là Mô hình H-O, là một mô hình toán cân bằng tổng thể trong lý thuyết thương mại quốc tế và phân công lao động quốc tế dùng để dự báo xem quốc gia nào sẽ sản xuất mặt hàng nào trên cơ sở những yếu tố sản xuất sẵn có của quốc gia.

Mô hình IS-LM, cũng được biết đến như là mô hình Hicks-Hansen, được nhà kinh tế học người Anh John Hicks [1904-1989] và nhà kinh tế học của Hoa Kỳ Alvin Hansen [1887-1975] đưa ra và phát triển. Mô hình IS-LM đã được sử dụng để kết hợp các hoạt động khác nhau của nền kinh tế: nó là sự kết hợp của thị trường tài chính [tiền tệ] với thị trườnghàng hóa và dịch vụ. Trong nền kinh tế đóng thì mô hình không chịu ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài nền kinh tế: xuất khẩu ròng [NX], tỷ giá hối đoái,lãi suất thế giới...

Mô hình Solow-Swan là mô hình tăng trưởng ngoại sinh, một mô hình kinh tế về tăng trưởng kinh tế dài hạn được thiết lập dựa trên nền tảng và khuôn khổ của kinh tế học tân cổ điển. Mô hình này được đưa ra để giải thích sự tăng trưởng kinh tế dài hạn bằng cách nghiên cứu quá trình tích lũy vốn, lao động hoặc tăng trưởng dân số, và sự gia tăng năng suất, thường được gọi là tiến bộ công nghệ. Bản chất của nó là hàm tổng sản xuất tân cổ điển, thường là dưới dạng hàm Cobb-Douglas, cho phép mô hình “ liên kết được với kinh tế học vi mô”.

Mô hình tổng cầu và tổng cung hay còn gọi là mô hình AD-AS là mô hình dùng để giải thích hai biến số. Biến số thứ nhất là tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ được đo bằng GDP thực tế. Biến số thứ hai là mức giá được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng CPI hay chỉ số điều chỉnh GDP.

Mô hình Mundell-Fleming là một mô hình kinh tế học vĩ mô sử dụng 2 đường IS và LM để phân tích tác động của các chính sách kinh tế vĩ môđược thực hiện trong một nền kinh tế mở cửa.

[Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân]

Trong kinh tế học, mô hình là một cấu trúc lý thuyết đại diện cho các quá trình kinh tế bằng một tập hợp các biến và một tập hợp các mối quan hệ logic và/hoặc định lượng giữa chúng. Mô hình kinh tế là một khung đơn giản, thường là toán học, được thiết kế để minh họa các quy trình phức tạp. Thường xuyên, các mô hình kinh tế đặt ra các tham số cấu trúc.[1] Một mô hình có thể có các biến ngoại sinh khác nhau và các biến đó có thể thay đổi để tạo ra các phản ứng khác nhau theo các biến kinh tế. Phương pháp sử dụng các mô hình bao gồm: điều tra, lý thuyết hóa và lý thuyết phù hợp với thế giới.[2]

Sơ đồ mô hình IS / LM

Nói chung, các mô hình kinh tế có hai chức năng: thứ nhất là đơn giản hóa và trừu tượng hóa từ dữ liệu quan sát và thứ hai là phương tiện lựa chọn dữ liệu dựa trên mô hình nghiên cứu kinh tế lượng.

Đơn giản hóa là đặc biệt quan trọng đối với kinh tế do sự phức tạp khổng lồ của các quá trình kinh tế.[3] Sự phức tạp này có thể được quy cho sự đa dạng của các yếu tố quyết định hoạt động kinh tế; những yếu tố này bao gồm: quá trình quyết định cá nhân và hợp tác, hạn chế tài nguyên, hạn chế về môi trường và địa lý, yêu cầu về thể chế và pháp lý và biến động hoàn toàn ngẫu nhiên. Do đó, các nhà kinh tế phải đưa ra lựa chọn hợp lý về biến nào và mối quan hệ nào giữa các biến này là có liên quan và cách phân tích và trình bày thông tin này sao cho có ích.

Lựa chọn rất quan trọng vì bản chất của một mô hình kinh tế thường sẽ xác định những sự thật nào sẽ được xem xét và cách chúng sẽ được biên soạn. Ví dụ, lạm phát là một khái niệm kinh tế chung, nhưng để đo lường lạm phát đòi hỏi phải có mô hình hành vi, để một nhà kinh tế có thể phân biệt giữa thay đổi giá tương đối và thay đổi giá được quy cho lạm phát.

Ngoài mục đích học tập chuyên nghiệp, việc sử dụng các mô hình bao gồm:

  • Dự báo hoạt động kinh tế theo cách kết luận có liên quan logic với các giả định;
  • Đề xuất chính sách kinh tế để sửa đổi hoạt động kinh tế trong tương lai;
  • Trình bày các lý lẽ hợp lý để biện minh chính trị chính sách kinh tế ở cấp quốc gia, để giải thích và ảnh hưởng đến chiến lược của công ty ở cấp độ của công ty, hoặc đưa ra lời khuyên thông minh cho các quyết định kinh tế hộ gia đình ở cấp hộ gia đình.
  • Lập kế hoạch và phân bổ, trong trường hợp các nền kinh tế kế hoạch tập trung, và ở quy mô nhỏ hơn trong hậu cần và quản lý doanh nghiệp.
  • Trong tài chính, các mô hình dự đoán đã được sử dụng từ những năm 1980 để giao dịch [đầu tư và đầu cơ]. Ví dụ, trái phiếu thị trường mới nổi thường được giao dịch dựa trên các mô hình kinh tế dự đoán sự tăng trưởng của quốc gia đang phát triển phát hành chúng. Từ những năm 1990, nhiều mô hình quản lý rủi ro dài hạn đã kết hợp các mối quan hệ kinh tế giữa các biến mô phỏng trong nỗ lực phát hiện các kịch bản tương lai tiếp xúc cao [thường thông qua phương pháp Monte Carlo].

Một mô hình thiết lập một khung lập luận để áp dụng logic và toán học có thể được thảo luận và kiểm tra độc lập và có thể được áp dụng trong các trường hợp khác nhau. Các chính sách và lập luận dựa trên các mô hình kinh tế có cơ sở rõ ràng cho sự đúng đắn, cụ thể là tính hợp lệ của mô hình hỗ trợ.

Các mô hình kinh tế trong sử dụng hiện tại không giả vờ là lý thuyết của mọi thứ kinh tế; bất kỳ giả vờ nào như vậy sẽ ngay lập tức bị cản trở bởi tính không khả thi tính toán và tính không hoàn chỉnh hoặc thiếu lý thuyết cho các loại hành vi kinh tế khác nhau. Do đó, kết luận rút ra từ các mô hình sẽ là đại diện gần đúng của các sự kiện kinh tế. Tuy nhiên, các mô hình được xây dựng đúng có thể loại bỏ thông tin bên ngoài và cô lập các xấp xỉ hữu ích của các mối quan hệ chính. Theo cách này có thể hiểu nhiều hơn về các mối quan hệ trong câu hỏi hơn là cố gắng hiểu toàn bộ quá trình kinh tế.

Các chi tiết xây dựng mô hình thay đổi theo loại mô hình và ứng dụng của nó, nhưng một quy trình chung có thể được xác định. Nói chung, bất kỳ quy trình mô hình hóa nào cũng có hai bước: tạo mô hình, sau đó kiểm tra độ chính xác của mô hình [đôi khi được gọi là chẩn đoán]. Bước chẩn đoán rất quan trọng vì một mô hình chỉ hữu ích ở mức độ nó phản ánh chính xác các mối quan hệ mà nó có ý định mô tả. Tạo và chẩn đoán một mô hình thường là một quá trình lặp đi lặp lại trong đó mô hình được sửa đổi [và hy vọng được cải thiện] với mỗi lần lặp lại chẩn đoán và thay số. Khi một mô hình thỏa đáng được tìm thấy, nó cần được kiểm tra lại bằng cách áp dụng nó cho một tập dữ liệu khác.

  1. ^ Moffatt, Mike. [2008] About.com Structural Parameters Economics Glossary; Terms Beginning with S. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2008.
  2. ^ Mary S. Morgan, 2008 "models," The New Palgrave Dictionary of Economics, 2nd Edition, Abstract.
       Vivian Walsh 1987. "models and theory," The New Palgrave: A Dictionary of Economics, v. 3, pp. 482–83.
  3. ^ Friedman, M. [1953]. “The Methodology of Positive Economics”. Essays in Positive Economics. Chicago: University of Chicago Press.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Mô_hình_kinh_tế&oldid=68470499”

Video liên quan

Chủ Đề