Mơ bài giá trị nhân đạo Chí Phèo

Trung bình: 5

Đánh giá: 4

Bạn đánh giá: Chưa

    Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn của Việt Nam. Ông chuyên viết về đề tài người nông dân nghèo khổ, bần cùng, bị áp bức trong xã hội cũ. Thân phận của họ luôn bị các thế lực vùi dập, họ không chỉ nghèo mà thậm chí còn bị đẩy vào bước đường cùng, bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính. Điển hình trong đó là tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. Qua tấn bi kịch nghiệt ngã trong cuộc đời, Chí từ một chàng thanh niên hiền lành chịu khó trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại, Nam Cao không những nói lên sự thật cay đắng về số phận của những người nông dân bất hạnh và bất lực dưới ách thống trị tàn ác của thực dân phong kiến, mà còn thể hiện giá trị nhân đạo rất sâu sắc. Ông cảm thương và xót xa cho những mảnh đời cơ cực.

    Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri. Ông sinh ra trong một gia đình trung nông, đông con tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân, tỉnh Hà Nam. Nam Cao là người con duy nhất được ăn học tử tế. Sau khi học hết bậc Thành chung, ông bôn ba kiếm sống nhiều nơi. Nhưng do sức khoẻ yếu, ông phải trở về quê kiếm sống bằng nghề dạy học và viết văn. Nam Cao là một người có đời sống nội tâm vô cùng phong phú. Đằng sau cái bề ngoài vụng về, hiền lành, ít nói là một tâm hồn nóng bỏng, luôn diễn ra cuộc đáu tranh giữa cái tốt và cái xấu. Ông là người có tấm lòng nhân hậu, có tấm lòng thương yêu đối với những con người nghèo khổ bị áp bức. Mỗi tác phẩm của ông là sự đồng cảm sâu sắc, là sự chia sẻ đầy ân tình đối với những số phận bất hạnh và là sự khẳng định bản chất tốt đẹp bất diệt của người lao động. Tác phẩm của Nam Cao xoay quanh hai mảng đề tài chính là người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Nhân vật của Nam Cao dù là ai cũng đều rơi vào tình trạng bị tha hoá, tất cả vì miếng cơm manh áo, vì bị áp bức, dồn ép đến đường cùng. Tác phẩm Chí Phèo là một thành công của Nam Cao viết về đề tài người nông dân. Lúc đầu, Nam Cao đặt tên truyện là Cái lò gạch cũ . Nhà xuất bản Đời mới năm 1941, sau đổi thành Đôi lứa xứng đôi. Năm 1946 tác giả đổi tên truyện thành Chí Phèo.

     Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản nhất của tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nỗi khổ đau con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp tâm hồn bên trong con người. Đồng thời tác phẩm  cũng đã đứng về phía các nạn nhân và lên án thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền hạnh phúc, quyền được sống của con người. Giá trị nhân đạo trong tác phẩm trước hết được nhà văn biểu hiện ở nỗi khổ bị đày đọa, cự tuyệt quyền làm người của người nông dân lương thiện. Nam Cao đồng cảm sâu sắc với nỗi khổ đó của nhân vật. Chí dù không cha không mẹ nhưng Chí vẫn là một con người lương thiện. Chí làm thuê cuốc mướn, chịu thương chịu khó kiếm sống nuôi bản thân. Nhưng đời vốn dĩ lắm truân chuyên, Chí bị gia đình Bá Kiến đẩy vào tù. Năm tháng chịu cảnh tù đày của bọn thực dân thêm lòng hận thù biến Chí trở thành một con người hoàn toàn khác từ ngoại hình cho đến tính cách. Chí xăm trổ những hình thù quái dị, "cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn… trông gớm chết". Qua sự tha hóa của Chí sau khi ra tù, tác giả đã lên án gay gắt đối với bọn thống trị tàn ác, nhà tù thực dân, những thành kiến, định kiến vô nhân đạo đã gây nên tấn bi kịch cho Chí Phèo. Trong xã hội ấy có rất nhiều người như thế, Chí chỉ là nhân vật điển hình trong số ấy. Qua đó, Nam Cao đã bày tỏ lòng thương đối với Chí và những con người bất hạnh như Chí.

     Tư tưởng nhân đạo đặc sắc, độc đáo của nhà văn Nam Cao còn thể hiện ở thái độ trân trọng, nâng niu những nét đẹp của người nông dân. Nhà văn còn khám phá ra những phẩm chất lương thiện của họ ẩn giấu đằng sau những u mê, cọc cằn. Chí Phèo vốn là người nông dân lương thiện, khỏe mạnh về thể xác, lành mạnh về tâm hồn. Giàu lòng tự trọng, biết "không thích cái gì người ta khinh", biết phân biệt giữa tình yêu cao thượng và cảm giác nhục dục thấp hèn. Hắn đã từng ước mơ rất bình dị "Có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải...nuôi một con lợn để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Khi bị nhà tù biến thành "con quỷ dữ của làng Vũ Đại", hắn phá phách, rạch mặt ăn vạ...nhưng ẩn đằng sau đó tâm hồn hắn vẫn lấp lánh ánh sáng nhân phẩm. Sau khi gặp Thị Nở, hắn khát khao tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Biết yêu thương, biết "say sưa", "rưng ưng" và "bẽn lẽn", nhận ra hương vị cháo hành "Trời ơi mới thơm làm sao". Đó là hương vị của tình người, của tình yêu chân thành, của hạnh phúc giản dị và thấm thía đầu tiên của Chí được hưởng. Chí khát khao muốn được trở lại làm người lương thiện "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng...của những người lương thiện". Khi bị Thị Nở cự tuyệt hắn đến thẳng nhà Bá Kiến, vung lưỡi dao căm hờn lên giết chết Bá Kiến để đòi lại quyền làm người lương thiện của mình. Sau đó hắn đã tự sát vì tuyệt vọng, hắn không muốn sống cuộc sống tăm tối, làm con thú dữ ấy nữa.

     Bên cạnh đó, tư tưởng nhân đạo của nhà văn còn được biểu hiện ở việc phát hiện ra vẻ đẹp của nhân vật Thị Nở - một người có bề ngoài xấu ma chê quỷ hờn. Dưới ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở trở thành một người phụ nữ giàu tình thương. Đằng sau vẻ ngoià xấu xí và tính "dở hơi" còn ẩn chứa một trái tim nhân hậu. Khi Chí say, Thị Nở đã chăm sóc tận tình. Với bàn tay dịu dàng, Thị Nở đã đem đến cho Chí một bát cháo hành đầy tình người. Và chính bát cháo hành ấy đã đánh thức tính người trong con người của Chí Phèo. Cũng như những người phụ nữ khác, Thị Nở vẫn luôn khát khao có một tình yêu hạnh phúc. Cuộc gặp gỡ của hai kẻ khốn khổ đã tạo nên sự đồng cảm, Thị Nở đã yêu Chí Phèo và ao ước được sống chung với Chí Phèo. Tình yêu đã làm cho người đàn bà "xấu ma chê quỷ hờn" ấy biến đổi một cách kì diệu, biết yêu và khao khát được hạnh phúc. Để phát hiện ra một vẻ đep khuất lấp như thế, chắc chắn tác giả đã có một con mắt nhìn thật sâu sắc.

          Bằng việc xây dựng hình tượng nhân vật điển hình, nhà văn Nam Cao đã dựng lên một Chí Phèo mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm Chí Phèo thể hiện tấm lòng yêu thương của Nam Cao đối với những người dân lao động khốn khổ, bần cùng bị chèn ép tận đáy xã hội. Chí Phèo đã chết nhưng vẫn còn đó những câu hỏi đầy ai oán không có lời giải đáp, cùng với chị Dậu, anh Pha, Chí Phèo đã khẳng định phải có một cuộc cách mạng để thay đổi cuộc sống lúc bấy giờ. Đồng thời những nhân vật ấy nhắc nhở chúng ta phải biết trân trọng hơn những hạnh phúc mà mình đang có, song cũng phải biết cống hiến để xây dựng cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn.

Bài mẫu

   Là nhà văn trung thành với chủ nghĩa hiện thực, cũng như các cây bút tả chân đương thời, Nam Cao quan tâm trước hết tới việc đi sâu thể hiện tình cảnh khốn khổ của người nghèo bị áp bức, trong đó có Chí Phèo. Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về bức tranh đời sống xã hội nông thôn. Đó là hệ thống tôn ti trật tự của làng Vũ Đại; là ấn tượng về tình trạng khép kín của làng xã phong kiến. Đặc biệt nó đã phơi bày các mối quan hệ xã hội phức tạp của hiện thực, đã miêu tả trung thực những quan hệ thực [Ăng-ghen]. Đồng thời là tình thương đối với những con người bị xã hội đẩy vào con đường tha hóa, bị hắt hủi... Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo của Chí Phèo.

   Nam Cao được coi là nhà văn của nông dân trước hết vì ông có Chí Phèo. Chí Phèo có phạm vi hiện thực phản ánh trải ra cả bề rộng không gian và bề dài thời gian. Làng Vũ Đại trong tác phẩm chính là hình ảnh thu nhỏ của xả hội nông dân Việt Nam đương thời.

   Ngòi bút Nam Cao tỏ ra sắc sảo khi vạch ra mối quan hệ thực trạng nội bộ bọn cường hào. Chẳng phải vì đất làng Vũ Đại có cái thế quần ngư tranh thực như lời ông thầy địa lí nói nên bọn cường hào chia năm bè bảy cánh đối nghịch nhau, mà do chúng là một đàn cá tranh mồi, mồi thì ngon đấy, nhưng năm bè bảy mối. Ngoài mặt tử tế với nhau nhưng trong bụng muốn cho nhau lụi bại. Đây là hiện tượng có tính quy luật ở nông thôn, ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống xã hội - ruồi muỗi phải chết oan uổng khi trâu bò húc nhau.

   Dựng nên bức tranh xã hội ở nông thôn, trước hết Nam Cao tập trung làm nổi bật xung đột giai cấp giữa địa chủ cường hào với người nông dân bị áp bức - phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp. Nó làm nên giá trị nhận thức và sức mạnh phê phán to lớn.

   Nam Cao đã xây dựng hình tượng điển hình về giai cấp thống trị ở nông thôn: Bá Kiến - lão cường hào cáo già với giọng quái rất sang, cái cười Tào Tháo cho thấy bản chất gian hùng, khôn róc đời. Và tư cách nhem nhuốc của cụ tiên chỉ: thói ghen tuông, Bá Kiến nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra phương châm: mềm nắn, rắn buông, bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu, thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ cố cùng liều thân... Với chính sách: lấy thằng đầu bò trị thằng đầu bò, thu dụng những thằng bạt mạng, không sợ chết, không sợ đi tù.

   Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế, tô tức, tham nhũng mà ở Chí Phèo Nam Cao đi vào phương diện: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt về nhân tính, bị phủ nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ của Chí Phèo không phải ở chỗ cuộc đời Chí Phèo chỉ là số không: không nhà cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không tấc đất cắm dùi... mà chính là ở chỗ Chí Phèo bị xã hội rạch nát bộ mặt, cướp đi linh hồn, bị loại khỏi xã hội loài người, sống kiếp quỷ dữ.

   Mở đầu tác phẩm là hình ảnh Chí Phèo ngật ngưỡng vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau chân dung gã say rượu có cái gì như là sự vật vã của một linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ. Tuy say, nhưng vẫn mơ hồ thấm thìa nỗi khổ của thân phận. Chí Phèo là điển hình cho một bộ phận cố nông bị đẩy vào con đường lưu manh hóa. Chí Phèo trước hết là hiện tượng có tính quy luật của tình trạng áp bức bóc lột tàn bạo ở nông thôn Việt Nam. Lúc bây giờ. Đó là hiện tượng những người nông dân bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng con đường lưu manh. Nam Cao khốn khổ giành lấy sự tồn tại bằng việc bán cả nhân phẩm đã trở thành lực lượng mù quáng dễ dàng bị bọn thống trị lợi dụng. Vì thế, Chí Phèo từ chỗ liều chết với bố con lão, chỉ cần lời nói và mấy hào chỉ trở thành tay sai mới của lão. Sức mạnh tố cáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết đã làm nổi bật hiện tượng có quy luật diễn ra ở nông thôn - hiện tượng lưu manh hóa. Song ý nghĩa khái quát của hình tượng Chí Phèo còn ở cấp độ cao hơn: sự hủy diệt, nhân tính trong xã hội độc ác, không cho con người được làm người.

   Tác phẩm Chí Phèo không dừng ở đó mà với câu chuyện về mối tình Chí - Thị, bằng giọng văn bông lơn, có lúc như chế giễu chuyện tình của hạng nửa người nửa ngợm thì đây vẫn là chuyện có nội dung nghiêm túc, chứa đựng tư tường nhân đạo mới mẻ.

   Giữa lúc cả làng Vũ Đại không chấp nhận giao tiếp, xem Chí như quỷ dữ, thì một người đàn bà thuộc dòng giống ma hủi, xấu đến ma chê quỷ hờn lại có tấm lòng vàng, thấy Chí hiền lành, Thị Nở chính là chiếc cầu nối đưa Chí ở đáy sâu của sự tha hóa thức tỉnh bản chất người lao động. Bằng sự chăm sóc giản dị, tình yêu thương mộc mạc mà chân thành của người đàn bà khốn khổ đã khơi dậy linh hồn Chí Phèo. Chí nghe thấy những âm thanh cuộc sống thường ngày mà bấy lâu nay vùi trong những cơn say nên Chí không biết đến. Nó vang động sâu xa trong lòng Chí, trở thành tiếng gọi cuộc sống khẩn thiết, làm Chí nhớ đến ước mơ nho nhỏ ngày xưa. Có lẽ đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm Chí tỉnh táo để tự ý thức về thân phận. Để rồi nhận ra sự tác oai, tác quái của mình bấy lâu nay. Và mong muốn giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?... Hay mình sang ở với tớ một nhà cho vui? Khi Thị Nở bê bát cháo hành đến hắn ngạc nhiên bởi đây là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Hắn nhận ra hương cháo hành - hương vị tình yêu thương chân thành, hạnh phúc giản dị mà có thật. Hắn thèm lương thiện, làm hòa với mọi người. Tình yêu của Thị Nở cũng sẽ hé mở cho hắn con dường trở lại làm người. Hai con người bị làng Vũ Đại xua đuổi đã đến với nhau, tình yêu chân chính đã nhân đạo hóa con người. Chẳng phải tình yêu có phần thô lỗ của người đàn bà xấu xí đã gọi dậy linh hồn người trong con quỷ dữ đó sao?

   Giá trị nhân đạo còn thể hiện ở tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người. Khi hiểu ra xã hội không công nhận mình, bà cô Thị Nở - định kiến xã hội đã không chấp nhận cho cháu bà đến với Chí. Chí vật vã đau đớn. Hắn càng uống càng tỉnh hắn ôm mặt khóc rưng rức. Chí quằn quại, đau đớn vì tuyệt vọng, thấm thía về tội ác kẻ thù. Chí Phèo trợn mắt chỉ tay vào Bá Kiến đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát. Kẻ thù bị đền tội, và sau đó Chí tự sát. Chí phải chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, không chấp nhận kiếp thú vật. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống, Chí chết quằn quại trong vũng máu, trong khao khát được làm người lương thiện. Ai cho tao lương thiện là lời nói đanh thép, phẫn nộ, làm người đọc sững sờ và day dứt. Đó vẫn là một câu hỏi lớn không lời đáp.

   Chí Phèo của Nam Cao được đánh giá cao chính ở giá trị tố cáo. Thông qua số phận Chí Phèo, Nam Cao phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ và thực trạng người nông dân bị đày đọa, đè nén và âm thầm chịu đựng rồi tuyệt vọng, liều lĩnh phản ứng cực đoan. Nam Cao cũng bày tỏ niềm cảm thông, tình thương yêu đối với người nông dân bị đẩy vào con đường lưu manh hóa, phát hiện bản chất tốt đẹp vốn có của họ. Song cũng như các nhà văn hiện thực cùng thời, chưa tìm được cho nhân vật của mình lối thoát. Sau này, bằng con đường cách mạng, Tô Hoài, Kim Lân đã tìm cho nhân vật mình một hướng đi riêng.

Xem các bài tham khảo khác tại đây:

Bài tham khảo số 2

Bài tham khảo số 3

Bài tham khảo số 4

Loigiaihay.com

Video liên quan

Chủ Đề