Quả thuốc sơn đen là gì

   Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất của Thạch Lam. Đó là một truyện ngắn trữ tình. Truyện không có truyện. Nhân vật là nhân vật trữ tình. Tất cả nội dung của chuyện đều xoay quanh tâm trạng của chị em một cô gái tên Liên, nhân vật chủ yếu của tác phẩm. Nhân vật của Thạch Lam nói chung là thế; không có suy nghĩ sâu sắc, thường chỉ thể hiện những cảm giác, những vui buồn nào đây. Họ thường ngồi yên lặng lắng nghe tiếng nói thầm kín của lòng mình, ít phân tích lí giải đề xuất những khái quát triết lí như thường thấy ở nhân vật Nam Cao.

   Nhưng đằng sau thế giới nhân vật với những tâm trạng như thế, người ta thấy thấp thoáng nhân vật tác giả, người kể chuyện. Nhân vật này thì giàu suy tư, thường phát biểu bằng một giọng nói dịu dàng nhỏ nhẹ những tư tưởng có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc.

- Tác phẩm tự nó chia làm ba đoạn:

+ Đoạn một: Tâm trạng Liên trước cảnh chiều muộn nơi phố huyện.

+ Đoạn hai: Tâm trạng Liên trước cảnh đêm tối nơi phố huyện.

+ Đoạn ba: Tâm trạng chị em Liên khao khát được thấy chuyến tàu đi qua phố huyện. Chính ở đoạn ba này, chủ đề của tác phẩm đã được phát biểu một cách sâu sắc và thấm thìa. Chủ đề đấy chính là lời giải đáp cho câu hỏi: “Tại sao chị em Liên đêm nào cũng cố thức để được nhìn chuyến tàu qua?”.

   Nhưng tác phẩm văn học là một chỉnh thể. Vậy muôn giải đáp câu hỏi trên, nhất thiết phải gắn đoạn ba với đoạn một, đoạn hai của thiên truyện.

   Ba đoạn gắn bó với nhau theo logic tâm trạng của nhân vật Liên để cuối cùng tô đậm tư tưởng của truyện ở đoạn kết thúc.

   Đoạn một thể hiện tâm trạng buồn của Liên trước quan cảnh tàn lụi của cảnh thiên nhiên và những cảnh đời nơi phố huyện lúc chiều muộn.

   Tâm trạng này tác giả đã ghi rõ trong đoạn văn: “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tăm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.

   Ngày tàn trước hết báo hiệu bằng tiếng trống thu không như gọi buổi chiều về. Phương tây tuy đỏ rực như lửa cháy nhưng cũng chỉ là ánh hồng của “hòn than sắp tàn”. Bóng tôi lấn dần, lấn dần... Nhìn xuống mặt đất là cảnh chợ tàn, không có gì vui bằng lúc chợ đông, nhưng cũng không có gì buồn hơn cảnh chợ tàn.

Đâu tiếng làng xa vắng chợ chiều.

Câu thơ trong bài Tràng giang của Huy Cận thật buồn.

   Buồn vì người ta về hết cả, tiếng ồn náo nhiệt cũng tắt. Sự sống như tàn lụi. Cái nghèo phô bày không che đậy ở những rác rưởi bỏ lại, ở mấy đứa trẻ nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh những cái vặt vãnh còn có thể dùng được của những người bán hàng để lại...

   Những con người quen thuộc với chị em Liên nơi phố huyện cũng vậy, đều là những cuộc đời tàn lụi: cái hàng nước lèo tèo của chị Tí thì ế khách [“Ôi chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì”], cửa hàng của chị em Liên cũng vậy [“Hôm nay ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì”]. Hình ảnh cụ Thi điên lảo đảo bước đi càng tô dậm một cảnh ngộ bế tắc: “Cụ đi lần vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng”.

   Đoạn hai thể hiện tâm trạng buồn và chán nản của Liên trước những cuộc đời tối tăm quẩn quanh đơn điệu của những cư dân nơi phố huyện.

   Tất cả đều diễn ra như đúng đêm trước, như hàng trăm đêm trước. Đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối. Các nhà đã đóng cửa im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, chỉ hé một khe ánh sáng. Sau cửa hàng nước chị Tí là gánh hàng bác phở Siêu mà chị em Liên đã biết chắc chắn ngay khi còn ở xa như một chấm lửa nhỏ và vàng “lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện ra”. Rồi đến gia đình bác Xẩm với cái thau sắt trắng chỏng trơ và thằng con bò ra đất nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát. Đúng là những kiếp người không bao giờ biết đến hạnh phúc. Hiện tại thì cực khổ, tương lai thì mù mịt. Sự tồn tại của họ dường như chỉ là để chờ đợi vu vơ một cái gì may mắn không bao giờ xảy đến: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày”.

   Được tô đậm nhất ở đoạn này là hình ảnh những kiếp sống tối tăm. Điều đáng chú ý ở đây là cái tối tăm lại được diễn tả bằng ánh sáng, thứ ánh sáng leo lét của ngọn đèn con nơi chõng hàng nước của chị Tí, đối chọi một cách yếu ớt đến thảm hại trước “vũ trụ thăm thẳm bao la” trùm lên cái phố huyện nghèo; không phải ngẫu nhiên mà thiên truyện ngắn vẻn vẹn chỉ có mấy trang mà hình ảnh ngọn đèn hàng nước chị Tý được nhắc đi nhắc lại tới bảy lần. Nó trở thành một biểu tượng về những kiếp sống mù tối, lắt lay của những cư dân nghèo khổ tưởng chừng bị chôn vùi đến cùng đời mãn kiếp trong bóng tối của phố huyện tiêu điều đã bị cuộc sống bỏ quên này.

   Hai đoạn trên chuẩn bị cho đoạn ba. Buồn chán trước cảnh đời phố huyện, chị em Liên cuối cùng cũng tìm ra được một lối thoát: trông đợi để thấy được một chuyến tàu đi qua phố huyện.

   Một lôi thoát không phải trong thực tế mà trong tưởng tượng. Bởi vì con tàu đi qua đem theo nó một thế giới khác hẳn với cái thế giới của cái phố huyện: “Một thế giới sáng rực, huyên náo, vui vẻ và sang trọng. Đó là thế giới họ hằng mơ tưởng". Bỗng chốc họ sống với thế giới ấy nghĩa là được thoát ra khỏi cuộc sống tối tăm, vắng lặng xơ xác, nhàm chán và bế tắc của cái phố huyện nghèo. Nhưng cuộc thoát li, dù chỉ bằng tưởng tượng cũng chỉ diễn ra trong chốc lát. Đêm tối và sự im lặng mênh mông lại bao bọc lấy tất cả. Nỗi buồn chán lại trở về cùng với ngọn đèn con của chị Ti leo lét giữa đêm đen. “Liên đến bên em nằm xuống. Chị gối đầu lên tay nhắm mắt lại [...] Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.

   Qua diễn biến tâm trạng của Liên, tác giả muốn nói gì với người đọc? Lời phát biểu của Thạch Lam, như đã nói, bao giờ cũng thầm kín, dịu dàng nhưng cứ  thấm thìa mãi trong lòng người mà ám ảnh mãi tâm trí người đọc: ấy là tiếng nói đầy xót thương với những kiếp người nhỏ bé, cơ cực, sống quẩn quanh bế tắc, không hạnh phúc, không tương lai, những con người như bị chôn vùi trong kiếp sống vô danh, vô nghĩa trong xã hội cũ. Trong xã hội ấy có biết bao người đã phải sống như thế: không bao giờ biết ánh sáng và hạnh phúc. Đến trong giấc mơ cũng không biết ước mơ gì hơn một chuyên tàu đêm vụt đi qua một phố huyện tiêu điều xơ xác của cuộc đời mình.

   Đây là một khía cạnh mới của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam từ khoảng 1930 - 1945, khi xuất hiện những nhà văn thức tỉnh về ý thức cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời. Họ hết sức nhạy cảm đối với thân phận những con người, không biết sống là vui, những kiếp sống tù mù, dật dờ trong bóng tối.

Hai đứa trẻ là một truyện ngắn xuất sắc của Thạch Lam. Tác phẩm được giới thiệu trong chương trình học môn Ngữ Văn lớp 11. Dưới đây là chi tiết soạn bài hai đứa trẻ

==>> Soạn bài hai đứa trẻ chi tiết và bài phân tích hay nhất của học sinh chuyên văn

Mobitool sẽ cung cấp tài liệu Soạn văn 11: Hai đứa trẻ, mời bạn đọc tham khảo nội dung chi tiết được giới thiệu sau đây.

– Thạch Lam [1910 – 1942] tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh [sau đổi thành Nguyễn Tường Lân] sinh tại Hà Nội, trong một gia đình công chức gốc quan lại.

– Ông là em ruột của Nhất Linh và Hoàng Đạo, cả ba đều là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn.

– Khi còn nhỏ, Thạch Lan sống ở quê là phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Sau đó ông theo cha chuyển sang tỉnh Thái Bình.

– Ông học ở Hà Nội, sau khi thi đỗ tú tài phần thứ nhất thì ra làm báo viết văn.

– Thạch Lam thường viết “những truyện không có chuyện”, chủ yếu là khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ trong cuộc sống thường ngày.

– Văn của ông trong sáng, giản dị mà thâm trầm sâu lắng.

– Một số tác phẩm:

  • Truyện ngắn: Gió lạnh đầu mùa [1937], Nắng trong vườn [1938], Sợi tóc [1942]
  • Tiểu thuyết: Ngày mới [1939]
  • Tùy bút: Hà Nội băm sáu phố phường [1943]…

1. Hoàn cảnh sáng tác

Truyện được in trong tập “Nắng trong vườn” [1938] là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của Thạch Lam.

2. Tóm tắt

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” xoay quanh số phận những con người nơi phố huyện nghèo qua lời kể của nhân vật Liên. Liên và An sống tại một phố huyện nghèo, được mẹ giao nhiệm vụ trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ. Trước đây gia đình Liên sống ở Hà Nội, nhưng bố bị mất việc nên phải chuyển về quê sống. Mẹ con chị Tí bán hàng nước , gánh phở của Bác Siêu, sập hát của bác Xẩm… đều là những kiếp người nhỏ bé, nghèo khổ nơi phố huyện nghèo. Liên cũng như bao người dân sống ở đây, ngày ngày họ đều trông ngóng để được ngắm chuyến tàu chạy qua phố huyện. Hình ảnh chuyến tàu ấy đi qua mang theo những âm thanh và ánh sáng gợi lên trong nhân vật Liên những ngày ở Hà Nội và những khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Xem thêm Tóm tắt truyện ngắn Hai đứa trẻ

3. Bố cục

Gồm 3 phần:

  • Phần 1: Từ đầu đến “tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng”. Cảnh phố huyện khi chiều xuống.
  • Phần 2. Tiếp theo đến “Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Cảnh phố huyện khi về đêm.
  • Phần 3. Còn lại. Cảnh đợi tàu của những người dân phố huyện.

1. Cảnh phố huyện khi chiều xuống

a. Bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện:

  • Điểm nhìn: Toàn bộ cảnh vật được cảm nhận qua cái nhìn của Liên.
  • Âm thanh: Tiếng trống thu không gọi chiều về, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve.
  • Hình ảnh, màu sắc: “Phương tây đỏ rực như lửa cháy”, “Những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”.
  • Đường nét: Dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời.

=> Khung cảnh thiên nhiên đượm buồn, đồng thời thấy được sự cảm nhận tinh tế

b. Cảnh chợ tàn và những kiếp người nơi phố huyện

– Cảnh chợ tàn:

  • Chợ đã vãn từ lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng mất.
  • Chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía.

– Con người:

  • Mấy đứa trẻ con nhà nghèo tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại ở chợ.
  • Mẹ con chị Tí: với cái hàng nước đơn sơ, vắng khách.
  • Bà cụ Thi: hơi điên đến mua rượu lúc đêm tối rồi đi lần vào bóng tối.
  • Bác Siêu với gánh hàng phở – một thứ quà xa xỉ.
  • Gia đình bác xẩm mù sống bằng lời ca tiếng đàn và lòng hảo tâm của khách qua đường.

=> Sự nghèo đói bao trùm lên khu phố huyện nghèo.

c. Tâm trạng của Liên

  • Ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen, đôi mắt bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ.
  • Lòng buồn man mát trước cái giờ khắc của ngày tàn.
  • Thương những đứa trẻ nhà nghèo nhưng không có tiền mà cho chúng.
  • Xót thương mẹ con chị Tí: ngày mò cua bắt tép, tối dọn cái hàng nước chè tươi chả kiếm được bao nhiêu, xót thương bà cụ Thi điên

=> Một tâm hồn giàu lòng trắc ẩn, yêu thương con người.

2. Cảnh phố huyện khi về đêm

a. Sự đối lập giữa “bóng tối” và “ánh sáng”

– Phố huyện ngập chìm trong bóng tối:

  • “Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”.
  • “Tối hết con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa”.

=> Bóng tối xâm nhập, bám sát mọi sinh hoạt của những con người nơi phố huyện.

– Ánh sáng chỉ còn leo lét ở một vài nơi:Đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đền hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu, đàn dây sáng xanh trong hiệu khách, ngọn đèn trong cửa hiệu của Liên…

=>Ánh sáng chỉ còn là khe sánh, quầng sáng, chấm lửa nhỏ, hột sáng…

=> Biểu tượng cho những kiếp người nhỏ bé sống leo lét, tàn lụi trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ.

b. Cuộc sống của những kiếp người nghèo khổ

– Những công việc hằng ngày lặp đi lặp lại:

  • Chị Tí dọn hàng nước.
  • Bác Siêu hàng phở thổi lửa.
  • Gia đình Xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, cái thau sắt để trước mặt”, “Góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong im lặng”.
  • Liên, An trông coi cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu.

– Những suy nghĩ cũng lặp đi lặp lại hằng ngày: Chị Tí “mong những người phu gạo, phu xe, mấy chú lính lệ vào hàng uống bát chè tươi và hút điếu thuốc lào”. Mơ ước: “Chừng ấy người trong bóng tối đang mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ”.

=> Dù cuộc sống quẩn quanh, bế tắc nhưng con người nơi vẫn không ngừng mơ ước về một tương lai đổi khác.

3. Cảnh đợi tàu của những người dân phố huyện

– Lí do đợi tàu của Liên và An:

  • Để bán hàng theo lời mẹ dặn.
  • Để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua hoạt động cuối cùng của đêm khuya.

– Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với dấu hiệu đầu tiên:

  • Liên trông thấy “ngọn lửa xanh biếc”…
  • Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi.

– Khi tàu đến:

  • Các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường.
  • Những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng.
  • Liên mơ về Hà Nội trong kí ức đầy ánh sáng.

– Khi tàu đi:

  • Để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt.
  • Chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.
  • Cả phố huyện bây giờ mới thật hết náo động, chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn.
  • Chị Tí sửa soạn chuẩn bị ra về, bác Siêu gánh hàng vào trong làng, vợ chồng bác xẩm ngủ trên manh chiếu từ bao giờ…
  • Tất cả chìm trong màn đêm với ngọn đèn tù mù chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ đi vào giấc ngủ chập chờn của Liên.

=> Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với âm thanh sôi động và ánh sáng rực rỡ. Qua đó, Thạch Lam muốn thể hiện ước mơ thoát khỏi cuộc sống hiện tại, khao khát hướng tới một cuộc sống tươi sáng hơn, ý nghĩa hơn của những người dân nghèo.

Tổng kết: 

  • Nội dung: Truyện ngắn Hai đứa trẻ đã thể hiện niềm xót thương đối với những kiếp người sống cơ cực, quanh quẩn, tăm tối ở phố huyện nghèo trước Cách mạng. Đồng thời, ông cũng thể hiện sự trân trọng trước ước mơ mong đổi đời tuy còn mơ hồ của họ.
  • Nghệ thuật: Cốt truyện đơn giản, hình ảnh giàu tính biểu tượng, giọng văn nhẹ nhàng…

Câu 1. Cảnh vật trong truyện được miêu tả trong thời gian và không gian như thế nào?

  • Thời gian: chiều tà, thời điểm kết thúc của một ngày.
  • Không gian: phố huyện nghèo với những hình ảnh quen thuộc như tiếng trống thu không, dãy tre làng…

Câu 2. Thạch Lam miêu tả cuộc sống và hình ảnh những người dân phố huyện ra sao?

– Cảnh ngày tàn: tiếng trống, tiếng côn trùng, tiếng muỗi vo ve với bóng tối bắt đầu tràn ngập trong con mắt Liên.

– Cảnh chợ tàn: chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu; người về hết và tiếng ồn ào cũng mất; trên đất chỉ còn rác rưởi vỏ bưởi, lá nhãn và lá mía; mùi ẩm mốc quen thuộc…

– Hình ảnh người dân phố huyện:

  • Mấy đứa trẻ con nhà nghèo tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại ở chợ.
  • Chị Tí mò cua bắt tép, tối đến dọn hàng nước dưới gốc bàng; dọn hàng từ chập tối cho đến đêm “chả kiếm được bao nhiêu”. Thằng cu bé con chị Tí xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra trông thật tội nghiệp.
  • Bà cụ Thi hơi điên, cười khanh khách, ngửa cổ ra đằng sau, uống một hơi cạn sạch cút rượu, lảo đảo lần vào bóng tối.
  • Vợ chồng bác xẩm “tiếng đàn bầu bần bật”, “thằng con bò ra đất”…
  • Bác phở Siêu gánh hàng đi trong đêm, tiếng đòn gánh kĩu kịt, bóng bác mênh mang… Phở của bác là món quà xa xỉ mà chị em Liên không bao giờ mua được.

=> Con người nơi phố huyện sống lặng lẽ, nghèo khổ.

Câu 3. Phân tích tâm trạng Liên, An trước khung cảnh thiên nhiên và bức tranh đời sống phố huyện.

– Ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen, đôi mắt bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ. Lòng buồn man mát trước cái giờ khắc của ngày tàn.

– Liên cảm thấy cái “mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc” là “cái mùi riêng của đất, của quê hương này”.

– Liên lặng lẽ quan sát những gì đang diễn ra ở phố huyện với một cảm giác buồn mênh mang. Thương mấy đứa trẻ nghèo nhưng không có tiền mà cho chúng…

Câu 4. Hình ảnh đoàn tàu trong truyện đã được miêu tả như thế nào? Vì sao chị em Liên và An cố thức để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua phố huyện?

– Tàu xuất hiện với những toa đèn sáng trưng, với “đèn ghi xanh biếc”, vơi “tiếng còi xe lửa”, làm khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếng hành khách khạc ồn ào khe khẽ và rồi nó xa dần rồi mất hút trong đêm tối mênh mông. Tàu được miêu tả chi tiết từ dấu hiệu đầu tiên cho đến khi tàu đến và khi tàu qua. Tàu là hình ảnh của Hà Nội, của hạnh phúc, của những kí ức tuổi thơ êm đềm.

– Chị em Liên và An cố thức để đợi tàu vì:

  • Chuyến tàu sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya.
  • Chuyến tàu mang đến một thế giới khác lạ [ánh sáng xa lạ, các toa đèn sáng trưng, âm thanh náo nức, tiếng hành khách ồn ào…] đối lập với cuộc sống buồn tẻ của nơi phố huyện nghèo.
  • Chuyến tàu từ Hà Nội gợi nhớ về một tuổi thơ sung sướng của hai chị em: “Một Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực và huyên náo”.

Câu 5. Anh chị có nhận xét gì về nghệ thuật miêu tả và giọng văn của Thạch Lam?

  • Thạch Lam đã lựa chọn những chi tiết tiêu biểu, đặc sắc.
  • Miêu tả nội tâm tinh tế, sâu sắc.
  • Giọng văn nhẹ nhàng mà sâu lắng.

Câu 6. Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, Thạch Lam muốn phát biểu tư tưởng gì?

Truyện ngắn Hai đứa trẻ đã thể hiện niềm xót thương đối với những kiếp người sống cơ cực, quanh quẩn, tăm tối ở phố huyện nghèo trước Cách mạng. Đồng thời, ông cũng thể hiện sự trân trọng trước ước mơ mong đổi đời tuy còn mơ hồ của họ.

Câu 1. Anh chị có ấn tượng sâu sắc nhất với nhân vật nào với chi tiết nghệ thuật nào trong truyện “Hai đứa trẻ”? Vì sao?

  • Nhân vật ấn tượng nhất là Liên. Đây là nhân vật được Thạch Lam xây dựng với những diễn biến tâm lí tinh tế, sâu sắc.
  • Chi tiết nghệ thuật ấn tượng nhất là hình ảnh đoàn tàu. Vì qua chi tiết này Thạch Lam đã gửi gắm được dụng ý nghệ thuật của mình.

Câu 2. Hãy nêu những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Thạch Lam qua truyện Hai đứa trẻ.

  • Ngôn ngữ mộc mạc, giàu tính biểu cảm
  • Nghệ thuật miêu tả đặc sắc: tả cảnh, tâm lí nhân vật.
  • Giọng văn nhẹ nhàng mà sâu lắng.
  • Xây dựng những chi tiết, hình ảnh giàu tính biểu tượng…

Hai đứa trẻ là một truyện ngắn xuất sắc của Thạch Lam. Tác phẩm được giới thiệu trong chương trình học môn Ngữ Văn lớp 11.

Mobitool sẽ cung cấp tài liệu Soạn văn 11: Hai đứa trẻ, mời bạn đọc tham khảo nội dung chi tiết được giới thiệu sau đây.

– Thạch Lam [1910 – 1942] tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh [sau đổi thành Nguyễn Tường Lân] sinh tại Hà Nội, trong một gia đình công chức gốc quan lại.

– Ông là em ruột của Nhất Linh và Hoàng Đạo, cả ba đều là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn.

– Khi còn nhỏ, Thạch Lan sống ở quê là phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Sau đó ông theo cha chuyển sang tỉnh Thái Bình.

– Ông học ở Hà Nội, sau khi thi đỗ tú tài phần thứ nhất thì ra làm báo viết văn.

– Thạch Lam thường viết “những truyện không có chuyện”, chủ yếu là khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ trong cuộc sống thường ngày.

– Văn của ông trong sáng, giản dị mà thâm trầm sâu lắng.

– Một số tác phẩm:

  • Truyện ngắn: Gió lạnh đầu mùa [1937], Nắng trong vườn [1938], Sợi tóc [1942]
  • Tiểu thuyết: Ngày mới [1939]
  • Tùy bút: Hà Nội băm sáu phố phường [1943]…

1. Hoàn cảnh sáng tác

Truyện được in trong tập “Nắng trong vườn” [1938] là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của Thạch Lam.

2. Tóm tắt

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” xoay quanh số phận những con người nơi phố huyện nghèo qua lời kể của nhân vật Liên. Liên và An sống tại một phố huyện nghèo, được mẹ giao nhiệm vụ trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ. Trước đây gia đình Liên sống ở Hà Nội, nhưng bố bị mất việc nên phải chuyển về quê sống. Mẹ con chị Tí bán hàng nước , gánh phở của Bác Siêu, sập hát của bác Xẩm… đều là những kiếp người nhỏ bé, nghèo khổ nơi phố huyện nghèo. Liên cũng như bao người dân sống ở đây, ngày ngày họ đều trông ngóng để được ngắm chuyến tàu chạy qua phố huyện. Hình ảnh chuyến tàu ấy đi qua mang theo những âm thanh và ánh sáng gợi lên trong nhân vật Liên những ngày ở Hà Nội và những khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Xem thêm Tóm tắt truyện ngắn Hai đứa trẻ

3. Bố cục

Gồm 3 phần:

  • Phần 1: Từ đầu đến “tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng”. Cảnh phố huyện khi chiều xuống.
  • Phần 2. Tiếp theo đến “Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Cảnh phố huyện khi về đêm.
  • Phần 3. Còn lại. Cảnh đợi tàu của những người dân phố huyện.

1. Cảnh phố huyện khi chiều xuống

a. Bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện:

  • Điểm nhìn: Toàn bộ cảnh vật được cảm nhận qua cái nhìn của Liên.
  • Âm thanh: Tiếng trống thu không gọi chiều về, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve.
  • Hình ảnh, màu sắc: “Phương tây đỏ rực như lửa cháy”, “Những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”.
  • Đường nét: Dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời.

=> Khung cảnh thiên nhiên đượm buồn, đồng thời thấy được sự cảm nhận tinh tế

b. Cảnh chợ tàn và những kiếp người nơi phố huyện

– Cảnh chợ tàn:

  • Chợ đã vãn từ lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng mất.
  • Chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía.

– Con người:

  • Mấy đứa trẻ con nhà nghèo tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại ở chợ.
  • Mẹ con chị Tí: với cái hàng nước đơn sơ, vắng khách.
  • Bà cụ Thi: hơi điên đến mua rượu lúc đêm tối rồi đi lần vào bóng tối.
  • Bác Siêu với gánh hàng phở – một thứ quà xa xỉ.
  • Gia đình bác xẩm mù sống bằng lời ca tiếng đàn và lòng hảo tâm của khách qua đường.

=> Sự nghèo đói bao trùm lên khu phố huyện nghèo.

c. Tâm trạng của Liên

  • Ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen, đôi mắt bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ.
  • Lòng buồn man mát trước cái giờ khắc của ngày tàn.
  • Thương những đứa trẻ nhà nghèo nhưng không có tiền mà cho chúng.
  • Xót thương mẹ con chị Tí: ngày mò cua bắt tép, tối dọn cái hàng nước chè tươi chả kiếm được bao nhiêu, xót thương bà cụ Thi điên

=> Một tâm hồn giàu lòng trắc ẩn, yêu thương con người.

2. Cảnh phố huyện khi về đêm

a. Sự đối lập giữa “bóng tối” và “ánh sáng”

– Phố huyện ngập chìm trong bóng tối:

  • “Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”.
  • “Tối hết con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa”.

=> Bóng tối xâm nhập, bám sát mọi sinh hoạt của những con người nơi phố huyện.

– Ánh sáng chỉ còn leo lét ở một vài nơi:Đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đền hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu, đàn dây sáng xanh trong hiệu khách, ngọn đèn trong cửa hiệu của Liên…

=>Ánh sáng chỉ còn là khe sánh, quầng sáng, chấm lửa nhỏ, hột sáng…

=> Biểu tượng cho những kiếp người nhỏ bé sống leo lét, tàn lụi trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ.

b. Cuộc sống của những kiếp người nghèo khổ

– Những công việc hằng ngày lặp đi lặp lại:

  • Chị Tí dọn hàng nước.
  • Bác Siêu hàng phở thổi lửa.
  • Gia đình Xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, cái thau sắt để trước mặt”, “Góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong im lặng”.
  • Liên, An trông coi cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu.

– Những suy nghĩ cũng lặp đi lặp lại hằng ngày: Chị Tí “mong những người phu gạo, phu xe, mấy chú lính lệ vào hàng uống bát chè tươi và hút điếu thuốc lào”. Mơ ước: “Chừng ấy người trong bóng tối đang mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ”.

=> Dù cuộc sống quẩn quanh, bế tắc nhưng con người nơi vẫn không ngừng mơ ước về một tương lai đổi khác.

3. Cảnh đợi tàu của những người dân phố huyện

– Lí do đợi tàu của Liên và An:

  • Để bán hàng theo lời mẹ dặn.
  • Để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua hoạt động cuối cùng của đêm khuya.

– Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với dấu hiệu đầu tiên:

  • Liên trông thấy “ngọn lửa xanh biếc”…
  • Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi.

– Khi tàu đến:

  • Các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường.
  • Những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng.
  • Liên mơ về Hà Nội trong kí ức đầy ánh sáng.

– Khi tàu đi:

  • Để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt.
  • Chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.
  • Cả phố huyện bây giờ mới thật hết náo động, chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn.
  • Chị Tí sửa soạn chuẩn bị ra về, bác Siêu gánh hàng vào trong làng, vợ chồng bác xẩm ngủ trên manh chiếu từ bao giờ…
  • Tất cả chìm trong màn đêm với ngọn đèn tù mù chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ đi vào giấc ngủ chập chờn của Liên.

=> Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với âm thanh sôi động và ánh sáng rực rỡ. Qua đó, Thạch Lam muốn thể hiện ước mơ thoát khỏi cuộc sống hiện tại, khao khát hướng tới một cuộc sống tươi sáng hơn, ý nghĩa hơn của những người dân nghèo.

Tổng kết: 

  • Nội dung: Truyện ngắn Hai đứa trẻ đã thể hiện niềm xót thương đối với những kiếp người sống cơ cực, quanh quẩn, tăm tối ở phố huyện nghèo trước Cách mạng. Đồng thời, ông cũng thể hiện sự trân trọng trước ước mơ mong đổi đời tuy còn mơ hồ của họ.
  • Nghệ thuật: Cốt truyện đơn giản, hình ảnh giàu tính biểu tượng, giọng văn nhẹ nhàng…

Câu 1. Cảnh vật trong truyện được miêu tả trong thời gian và không gian như thế nào?

  • Thời gian: chiều tà, thời điểm kết thúc của một ngày.
  • Không gian: phố huyện nghèo với những hình ảnh quen thuộc như tiếng trống thu không, dãy tre làng…

Câu 2. Thạch Lam miêu tả cuộc sống và hình ảnh những người dân phố huyện ra sao?

– Cảnh ngày tàn: tiếng trống, tiếng côn trùng, tiếng muỗi vo ve với bóng tối bắt đầu tràn ngập trong con mắt Liên.

– Cảnh chợ tàn: chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu; người về hết và tiếng ồn ào cũng mất; trên đất chỉ còn rác rưởi vỏ bưởi, lá nhãn và lá mía; mùi ẩm mốc quen thuộc…

– Hình ảnh người dân phố huyện:

  • Mấy đứa trẻ con nhà nghèo tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại ở chợ.
  • Chị Tí mò cua bắt tép, tối đến dọn hàng nước dưới gốc bàng; dọn hàng từ chập tối cho đến đêm “chả kiếm được bao nhiêu”. Thằng cu bé con chị Tí xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra trông thật tội nghiệp.
  • Bà cụ Thi hơi điên, cười khanh khách, ngửa cổ ra đằng sau, uống một hơi cạn sạch cút rượu, lảo đảo lần vào bóng tối.
  • Vợ chồng bác xẩm “tiếng đàn bầu bần bật”, “thằng con bò ra đất”…
  • Bác phở Siêu gánh hàng đi trong đêm, tiếng đòn gánh kĩu kịt, bóng bác mênh mang… Phở của bác là món quà xa xỉ mà chị em Liên không bao giờ mua được.

=> Con người nơi phố huyện sống lặng lẽ, nghèo khổ.

Câu 3. Phân tích tâm trạng Liên, An trước khung cảnh thiên nhiên và bức tranh đời sống phố huyện.

– Ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen, đôi mắt bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ. Lòng buồn man mát trước cái giờ khắc của ngày tàn.

– Liên cảm thấy cái “mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc” là “cái mùi riêng của đất, của quê hương này”.

– Liên lặng lẽ quan sát những gì đang diễn ra ở phố huyện với một cảm giác buồn mênh mang. Thương mấy đứa trẻ nghèo nhưng không có tiền mà cho chúng…

Câu 4. Hình ảnh đoàn tàu trong truyện đã được miêu tả như thế nào? Vì sao chị em Liên và An cố thức để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua phố huyện?

– Tàu xuất hiện với những toa đèn sáng trưng, với “đèn ghi xanh biếc”, vơi “tiếng còi xe lửa”, làm khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếng hành khách khạc ồn ào khe khẽ và rồi nó xa dần rồi mất hút trong đêm tối mênh mông. Tàu được miêu tả chi tiết từ dấu hiệu đầu tiên cho đến khi tàu đến và khi tàu qua. Tàu là hình ảnh của Hà Nội, của hạnh phúc, của những kí ức tuổi thơ êm đềm.

– Chị em Liên và An cố thức để đợi tàu vì:

  • Chuyến tàu sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya.
  • Chuyến tàu mang đến một thế giới khác lạ [ánh sáng xa lạ, các toa đèn sáng trưng, âm thanh náo nức, tiếng hành khách ồn ào…] đối lập với cuộc sống buồn tẻ của nơi phố huyện nghèo.
  • Chuyến tàu từ Hà Nội gợi nhớ về một tuổi thơ sung sướng của hai chị em: “Một Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực và huyên náo”.

Câu 5. Anh chị có nhận xét gì về nghệ thuật miêu tả và giọng văn của Thạch Lam?

  • Thạch Lam đã lựa chọn những chi tiết tiêu biểu, đặc sắc.
  • Miêu tả nội tâm tinh tế, sâu sắc.
  • Giọng văn nhẹ nhàng mà sâu lắng.

Câu 6. Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, Thạch Lam muốn phát biểu tư tưởng gì?

Truyện ngắn Hai đứa trẻ đã thể hiện niềm xót thương đối với những kiếp người sống cơ cực, quanh quẩn, tăm tối ở phố huyện nghèo trước Cách mạng. Đồng thời, ông cũng thể hiện sự trân trọng trước ước mơ mong đổi đời tuy còn mơ hồ của họ.

Câu 1. Anh chị có ấn tượng sâu sắc nhất với nhân vật nào với chi tiết nghệ thuật nào trong truyện “Hai đứa trẻ”? Vì sao?

  • Nhân vật ấn tượng nhất là Liên. Đây là nhân vật được Thạch Lam xây dựng với những diễn biến tâm lí tinh tế, sâu sắc.
  • Chi tiết nghệ thuật ấn tượng nhất là hình ảnh đoàn tàu. Vì qua chi tiết này Thạch Lam đã gửi gắm được dụng ý nghệ thuật của mình.

Câu 2. Hãy nêu những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Thạch Lam qua truyện Hai đứa trẻ.

  • Ngôn ngữ mộc mạc, giàu tính biểu cảm
  • Nghệ thuật miêu tả đặc sắc: tả cảnh, tâm lí nhân vật.
  • Giọng văn nhẹ nhàng mà sâu lắng.
  • Xây dựng những chi tiết, hình ảnh giàu tính biểu tượng…

Video liên quan

Chủ Đề