Trái cảnh về việc chồng nghĩa là gì

Hôn nhân là một sự hợp nhất được công nhận về mặt văn hóa giữa những người, được gọi là vợ chồng. Hôn nhân tạo ra quyền lợi và nghĩa vụ giữa họ, cũng như giữa họ và con cái của họ, và giữa họ và gia đình của người kia.[2] Định nghĩa về hôn nhân khác nhau trên khắp thế giới, không chỉ giữa các nền văn hóa và giữa các tôn giáo, mà còn trong suốt lịch sử của bất kỳ nền văn hóa và tôn giáo nào. Theo thời gian, hôn nhân đã được mở rộng và cũng bị hạn chế về mặt ai và những gì được bao gồm trong khái niệm này. Thông thường, nó là một thiết chế trong đó các mối quan hệ giữa các cá nhân, thường là tình dục, được thừa nhận hoặc bị xử phạt. Trong một số nền văn hóa, hôn nhân được khuyến nghị hoặc coi là bắt buộc trước khi theo đuổi bất kỳ hoạt động tình dục nào. Khi được định nghĩa rộng rãi, hôn nhân được coi là một phổ quát văn hóa. Một nghi lễ đánh dấu hôn nhân được gọi là một đám cưới.

Nhiều vợ nhiều chồng hoàn toàn ngoài vòng pháp luật/bị bãi bỏ và truy cứu trách nhiệm hình sự
Tình trạng hợp pháp không rõ
Nhiều vợ nhiều chồng nhìn chung là không hợp pháp, nhưng thực tế thì không hình sự hóa hoàn toàn
Chấp nhận hôn nhân nhiều vợ nhiều chồng
Chú thích: 1Philippines, Singapore, Sri Lanka: không hợp pháp ở tất cả các dạng trừ người theo Đạo Hồi.
2Liêng bang Eritrea: luật cấm hôn nhân nhiều vợ nhiều chồng nhưng một số nước và vùng lãnh thổ nhất định với Sharia cho phép nó. Người theo Đạo Hồi chỉ có thể có hợp hờng hôn nhân đa thê.
3Mauritius: nhiều vợ nhiều chồng không được công nhận hợp pháp. Đàn ông Đạo Hồi có thể "cưới" đến 4 vợ, những người phụ nữ này không được hưởng tư cách pháp lý của người vợ.

Một vợ một chồngSửa đổi

Một vợ một chồng là một hình thức hôn nhân mà trong đó mỗi cá nhân chỉ có một người hôn phối trong suốt cuộc đời của họ hoặc bất kỳ thời điểm nào đang xét đến. Đây là hình thức hôn nhân phổ biến nhất trên thế giới.

Một nghiên cứu so sánh về hôn nhân của nhà nhân chủng học Jack Goody trên thế giới sử dụng Ethnographic Atlas đã phát hiện một mối tương quan chặt chẽ giữa của hồi môn, nông nghiệp cày cấy thâm canh và chế độ một vợ một chồng. Hình thức này được tìm thấy trong một khu vực rộng lớn của các xã hội Á-Âu từ Nhật Bản đến Ireland. Phần lớn các xã hội châu Phi cận Sahara thực hiện nông nghiệp cuốc nhiều, thì ngược lại, thể hiện mối tương quan giữa "Bride price" và một vợ một chồng.[13] Một nghiên cứu sâu thêm đã vẽ thêm vào Át-lát nhân chủng học thể hiện tương quan thống kê giữa sự gia tăng kích thước của xã hội, sự tin tưởng vào "các đấng thánh tối cao" để hỗ trợ cho đạo đức con người, và một vợ một chồng.[14]

Ở những quốc gia không cho phép đa thê đa phu, một người kết hôn với một người trong khi vẫn kết hôn hợp pháp với người khác phạm tội vi phạm hôn nhân một vơ một chồng. Trong mọi trường hợp, cuộc hôn nhân thứ hai được coi là vô hiệu về mặt pháp lý. Bên cạnh các cuộc hôn nhân thứ hai và sau đó là vô hiệu, những người vi phạm cũng phải chịu các hình phạt khác, cũng khác nhau giữa các khu vực pháp lý.

Chế độ một vợ một chồng nối tiếpSửa đổi

Các chính phủ hỗ trợ chế độ một vợ một chồng cũng có thể cho phép ly hôn dễ dàng. Ở một số nước phương Tây tỷ lệ ly hôn lên tới 50%. Những người tái hôn làm như vậy trung bình ba lần. Ly hôn và tái hôn có thể dẫn đến "chế độ một vợ một chồng nối tiếp", tức là có nhiều cuộc hôn nhân nhưng chỉ có một người phối ngẫu hợp pháp tại một thời điểm. Điều này có thể được hiểu là một hình thức giao phối số nhiều, cũng như những xã hội bị chi phối bởi các gia đình có nữ giới ở Caribbean, Mauritius và Brazil, nơi thường xuyên có sự luân chuyển của các đối tác chưa kết hôn. Tổng cộng, những thứ này chiếm từ 16 đến 24% trong danh mục "hôn nhân một vợ một chồng".[15]

Chế độ một vợ một chồng tạo ra một loại họ hàng mới, "nhà vợ/nhà chồng". Ví dụ, "vợ cũ" vẫn là một phần tích cực của cuộc sống của "chồng cũ" hoặc "vợ cũ" của họ, vì họ có thể bị ràng buộc với nhau bằng cách chuyển tài nguyên [cấp dưỡng nuôi con] hoặc nuôi dưỡng con chung. Bob Simpson lưu ý rằng trong trường hợp của Anh, chế độ một vợ một chồng tạo ra một "gia đình mở rộng" - một số hộ gia đình gắn bó với nhau theo cách này, bao gồm cả những đứa trẻ di động [những người cũ có thể bao gồm vợ cũ, anh rể cũ, v.v., nhưng không phải là "con cũ"]. Những "gia đình không rõ ràng" này không phù hợp với khuôn mẫu của gia đình hạt nhân một vợ một chồng. Là một loạt các hộ gia đình được kết nối, họ đến giống với mô hình đa dạng của các hộ gia đình riêng biệt được duy trì bởi các bà mẹ có con, bị ràng buộc bởi một người đàn ông mà họ đã kết hôn hoặc ly dị.[16]

Hôn nhân đa thê và đa phuSửa đổi

Chế độ đa phu thê là một cuộc hôn nhân bao gồm nhiều hơn hai vợ chồng.[17] Khi một người đàn ông kết hôn với nhiều vợ cùng một lúc, mối quan hệ được gọi là đa thê, và không có sự ràng buộc hôn nhân giữa các bà vợ; và khi một người phụ nữ kết hôn với nhiều người chồng cùng một lúc, điều đó được gọi là đa phu, và không có sự ràng buộc hôn nhân giữa các ông chồng. Nếu một cuộc hôn nhân bao gồm nhiều chồng hoặc vợ, nó có thể được gọi là kết hôn theo nhóm.[17]

Một nghiên cứu di truyền phân tử về sự đa dạng di truyền của con người trên toàn cầu cho rằng đa thê tình dục là điển hình của mô hình sinh sản của con người cho đến khi chuyển sang các cộng đồng nông nghiệp định cư khoảng 10.000 đến 5.000 năm trước ở châu Âu và châu Á, và gần đây là ở châu Phi và châu Mỹ.[18] Như đã lưu ý ở trên, nghiên cứu so sánh về hôn nhân trên khắp thế giới của nhà nhân chủng học Jack Goody sử dụng Atlas dân tộc học cho thấy phần lớn các xã hội châu Phi cận Sahara thực hành nông nghiệp hoe rộng rãi cho thấy mối tương quan giữa " Giá cô dâu " và chế độ đa thê.[19] Một cuộc khảo sát các mẫu đa văn hóa khác đã xác nhận rằng sự vắng mặt của máy cày là yếu tố dự báo duy nhất của chế độ đa thê, mặc dù các yếu tố khác như tỷ lệ tử vong nam cao trong chiến tranh [trong các xã hội ngoài quốc doanh] và căng thẳng mầm bệnh [trong xã hội nhà nước] có một số ảnh hưởng.[20]

Hôn nhân được phân loại theo số lượng vợ/chồng hợp pháp mà một cá nhân có. Hậu tố "-gamy" đề cập cụ thể đến số lượng người phối ngẫu, như trong bi-gamy [hai người phối ngẫu, nói chung là bất hợp pháp ở hầu hết các quốc gia] và đa chủng tộc [nhiều hơn một người phối ngẫu].

Các xã hội thể hiện sự chấp nhận khác nhau về đa phu thê. Theo Ethnographic Atlas, trong số 1.231 xã hội được ghi nhận, 186 là kiểu một vợ một chồng; 453 có đa thê; 588 có đa thê thường xuyên hơn; và 4 có đa phu.[21] Tuy nhiên, theo Miriam Zeitzen, sự chịu đựng của một xã hội về đa thê thì khác với việc thực hiện đa thê, vì nó đòi hỏi sự giàu có để có được một gia đình có nhiều vợ. Thực tế về đa thê trong một xã hội thoải mái về vấn đề này có thể là thấp, với phần lớn những người mong muốn đa thê lại thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Việc theo dõi sự xuất hiện đa thê thì phức tạp hơn ở các nước nơi mà chế độ này bị cấm, nhưng vẫn tiếp tục diễn ra.[22]

Zeitzen cũng lưu ý rằng nhận thức của phương Tây về xã hội châu Phi và mô hình hôn nhân bị thiên vị bởi "mối quan tâm trái ngược về nỗi nhớ về văn hóa truyền thống châu Phi so với phê phán chế độ đa phu thê là áp bức phụ nữ hoặc gây bất lợi cho sự phát triển." [23] Chế độ đa phu thê đã bị lên án là một hình thức lạm dụng quyền con người, với những lo ngại về lạm dụng trong nước, hôn nhân cưỡng ép và bỏ bê gia đình. Đại đa số các quốc gia trên thế giới, bao gồm hầu như tất cả các quốc gia phát triển của thế giới, không cho phép đa phu thê. Đã có những lời kêu gọi bãi bỏ chế độ đa phu thê ở các nước đang phát triển.

Hôn nhân đồng tínhSửa đổi

Bài chi tiết: Hôn nhân đồng giới

Một thực tế tương đối mới đối để chấp nhận các căp cùng giới tính về mặt luật pháp như những cặp hôn nhân khác giới, trong lịch sử cũng ghi nhận một vài trường hợp kết hợp cùng giới trên thế giới.[24][25] Sự kết hợp cùng giới từng được tổ chức ở một vài nơi tại Trung Quốc thời phong kiến như ở Phúc Kiến[26] Mối quan hệ đồng giới Hy Lạp cổ đại giống như hôn nhân hiện đại, không giống như cuộc hôn nhân khác nhau giới tính của họ trong đó hai vợ chồng đã có vài mối quan hệ tình cảm, và người chồng có quyền tự do tham gia vào quan hệ tình dục bên ngoài. Cộng hòa Rome dành công nhận hôn nhân đồng tính về mặt pháp lý.[27] Sự chấp nhận này đã kết thúc dưới đế chế La Mã, Khi Theodosian Code [ C. Th 9.7.3] phê chuẩn năm 342 áp đặt hình phạt nặng hoặc tử hình đối với các mối quan hệ đồng tính[28] nhưng mục đích chính xác của pháp luật và mối quan hệ với thực tiễn xã hội không rõ ràng, ví dụ trên chỉ là một trong vài ví dụ về hôn nhân đồng tính trong văn hóa đã tồn tại.[29]

Hôn nhân tạmSửa đổi

Bài chi tiết: Sống thử

Ở Việt NamSửa đổi

Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: "Hôn nhân là sự kết hợp đặc biệt dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tiến bộ, một vợ một chồng nhằm xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc và bền vững".

Theo nguyên tắc này tại hiến pháp, vợ - chồng tại Việt Nam bình đẳng với nhau trước pháp luật. Đồng thời, nguyên tắc một vợ - một chồng có nghĩa rằng các dạng thức hôn nhân khác như đa thê [nhiều vợ - một chồng] hoặc hôn nhân đồng tính [không có vợ hoặc không có chồng] là vi hiến và pháp luật Việt Nam không công nhận.

Hôn nhân được khởi đầu bằng một sự kiện pháp lý là đăng ký kết hôn và kết thúc bằng một sự kiện pháp lý là ly hôn [hoặc một trong hai người chết/mất tích].

Xem thêmSửa đổi

  • Lễ cưới
  • Tảo hôn
  • Ly hôn
  • Gia đình

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ Martha C. Nussbaum, "The Incomplete Feminism of Musonius Rufus, Platonist, Stoic, and Roman," in The Sleep of Reason: Erotic Experience and Sexual Ethics in Ancient Greece and Rome [University of Chicago Press, 2002], p. 300; Sabine MacCormack, "Sin, Citizenship, and the Salvation of Souls: The Impact of Christian Priorities on Late-Roman and Post-Roman Society," Comparative Studies in Society and History 39.4 [1997], p. 651.
  2. ^ Haviland, William A.; Prins, Harald E.L.; McBride, Bunny; Walrath, Dana [2011]. Cultural Anthropology: The Human Challenge [ấn bản 13]. Cengage Learning. ISBN978-0-495-81178-7. "A nonethnocentric definition of marriage is a culturally sanctioned union between two or more people that establishes certain rights and obligations between the people, between them and their children, and between them and their in-laws."
  3. ^ Country Reports on Human Rights Practices for 2008, Vol. 1, p. 1353, US Department of State.
  4. ^ Vucheva, Elitsa. [ngày 30 tháng 7 năm 2013] / Social Affairs / Europeans marry older, less often. Euobserver.com. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2013.
  5. ^ a b c Bell, Duran [1997]. Defining Marriage and Legitimacy [PDF]. Current Anthropology. 38 [2]: 23754. doi:10.1086/204606. JSTOR2744491.
  6. ^ Gerstmann, Evan. Same-sex Marriage and the Constitution, p. 22 [Cambridge University Press, 2004].
  7. ^ Westermarck, Edward [ngày 1 tháng 4 năm 2003]. History of Human Marriage 1922 [bằng tiếng Anh]. Kessinger Publishing. tr.71. ISBN978-0-7661-4618-1.
  8. ^ Westermarck, Edward [1936]. The Future of Marriage in Western Civilisation [bằng tiếng Anh]. Books for Libraries Press. tr.3. ISBN978-0-8369-5304-6.
  9. ^ Notes and Queries on Anthropology. Royal Anthropological Institute. 1951. tr.110.
  10. ^ Gough, E. Kathleen [1959]. The Nayars and the Definition of Marriage. Royal Anthropological Institute of Great Britain and Ireland. 89 [1]: 2334. doi:10.2307/2844434. JSTOR2844434. Nuer female-female marriage is done to keep property within a family that has no sons. It is not a form of lesbianism.
  11. ^ Gough, Kathleen [1968]. The Nayars and the Definition of Marriage. Trong Paul Bohannan & John Middleton [biên tập]. Marriage, Family and Residence. New York: Natural History Press. tr.68.
  12. ^ Leach, Edmund [tháng 12 năm 1955]. Polyandry, Inheritance and the Definition of Marriage. Man. 55 [12]: 183. doi:10.2307/2795331. JSTOR2795331.
  13. ^ Goody, Jack [1976]. Production and Reproduction: A Comparative Study of the Domestic Domain. Cambridge: Cambridge University Press. tr.7.
  14. ^ Roes, Frans L. [1992]. The Size of Societies, Monogamy, and Belief in High Gods Supporting Human Morality. Tijdschrift voor sociale wetenschappen. 37 [1]: 5358.
  15. ^ Fox, Robin [1997]. Reproduction & Succession: Studies in Anthropology, Law and Society. New Brunswick, NJ: Transaction Publishers. tr.34.
  16. ^ Simpson, Bob [1998]. Changing Families: An Ethnographic Approach to Divorce and Separation. Oxford: Berg.
  17. ^ a b Zeitzen, Miriam Koktvedgaard [2008]. Polygamy: a cross-cultural analysis. Berg. tr.3. ISBN978-1-84520-220-0.
  18. ^ Dupanloup I, Pereira L, Bertorelle G, Calafell F, Prata MJ, Amorim A, Barbujani G [2003]. A recent shift from polygyny to monogamy in humans is suggested by the analysis of worldwide Y-chromosome diversity. J Mol Evol. 57 [1]: 8597. Bibcode:2003JMolE..57...85D. CiteSeerX10.1.1.454.1662. doi:10.1007/s00239-003-2458-x. PMID12962309.
  19. ^ Goody, Jack [1976]. Production and Reproduction: A Comparative Study of the Domestic Domain. Cambridge: Cambridge University Press. tr.7.
  20. ^ Ember, Carol R. [2011]. What we know and what we don't know about variation in social organization: Melvin Ember's approach to the study of kinship. Cross-Cultural Research. 45 [1]: 2730. doi:10.1177/1069397110383947.
  21. ^ Ethnographic Atlas Codebook Lưu trữ 2012-11-18 tại Wayback Machine derived from George P. Murdocks Ethnographic Atlas recording the marital composition of 1231 societies from 1960 to 1980
  22. ^ Zeitzen, Miriam Koktvedgaard [2008]. Polygamy: A Cross-Cultural Analysis. Oxford: Berg. tr.5. ISBN1847886175.
  23. ^ Zeitzen, Miriam Koktvedgaard [2008]. Polygamy: A Cross-Cultural Analysis. Oxford: Berg. tr.5. ISBN978-1-84788-617-0.
  24. ^ Neill, James [2009]. The Origins and Role of Same-sex Relations in Human Societies. McFarland. ISBN978-0-7864-3513-5.
  25. ^ Alderson, Kevin; Lahey, Kathleen A. [2004]. Same-Sex Marriage: The Personal and the Political. Insomniac Press. tr.16. ISBN978-1-894663-63-2.
  26. ^ Hinsch, Bret [1990]. Passions of the Cut Sleeve: The Male Homosexual Tradition in China. Reed Business Information, Inc. ISBN0-520-07869-1.
  27. ^ Eskridge, William N. [1993]. A History of Same-Sex Marriage. Virginia Law Review. 79 [7]: 144546. doi:10.2307/1073379.
  28. ^ ubi scelus est id, quod non proficit scire, ubi venus mutatur in alteram formam, ubi amor quaeritur nec videtur, iubemus insurgere leges, armari iura gladio ultore, ut exquisitis poenis subdantur infames, qui sunt vel qui futuri sunt rei.Ancientrome.ru "where that crime is found, which is unfit even to know, we command the law to arise armed with an avenging sword that the infamous men who are, or shall in future be guilty of it, may undergo the most severe punishments." translation by Lord Blackstone, Commentaries on the Laws of England [Oxford: Clarendon Press, 1769, Vol. IV, pp. 215216.
  29. ^ Kuefler, Mathew [2007]. The Marriage Revolution in Late Antiquity: The Theodosian Code and Later Roman Marriage Law. Journal of Family History. 32 [4]: 343370. doi:10.1177/0363199007304424.

Liên kết ngoàiSửa đổi

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Hôn nhân.
  • Hôn nhân tại Từ điển bách khoa Việt Nam
  • Luật số 22/2000/QH10 của Quốc hội: Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam Nông Đức Mạnh ban hành 9/6/2000
  • Nghị định 69/2006/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
  • Nghị định số 68/2002/NĐ-CP
  • Marriage tại Encyclopædia Britannica [tiếng Anh]

Video liên quan

Chủ Đề