Trên cơ sở của văn hóa Óc Eo một quốc gia cổ đã được hình thành có tên gọi là gì

Bộ sưu tập hiện vật vàng thuộc nền văn hóa Óc Eo được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Long An. [Ảnh: Bùi Giang/TTXVN]

Là tên một gò đất trên cánh đồng phía Đông Nam núi Ba Thê, thuộc xã Vọng Thê - huyện Thoại Sơn - tỉnh An Giang, Óc Eo đi vào lịch sử khảo cổ học Việt Nam như một vùng đất văn hóa khảo cổ đầy hấp dẫn.

Văn hóa Óc Eo hình thành và phát triển từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII sau Công nguyên.

Đây là một nền văn hóa lớn trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với đất nước - con người ở vùng đồng bằng - châu thổ hạ lưu sông Mekong; đồng thời, nó còn có quan hệ mật thiết với lịch sử Đông Nam Á thời cổ.

Vùng này phân bố trên một khu vực rất rộng ở miền châu thổ sông Cửu Long, trong miền đất trũng Tây sông Hậu bao gồm nhiều vùng sinh thái khác nhau của các tỉnh An Giang [Óc Eo-Ba Thê], Kiên Giang [Đá Nổi, Nền Chùa, Tân Long], Đồng Tháp [vùng Đồng Tháp Mười], vùng ven biển Tây Nam [U Minh, Năm Căn] kéo đến vùng rừng Sác duyên hải [Cần Giờ, Giồng Am...] và vươn ra tận Biển Đông [khu vực từ cửa sông Tiền đến Cà Mau].

Ngoài ra, khảo cổ học đã phát hiện nhiều di tích, di vật thuộc văn hóa Óc Eo ở các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, một phần Long An, Bình Thuận và Thành phố Hồ Chí Minh.

[Thu được 20.000 mẫu di vật của nền Văn hóa Óc Eo tại An Giang]

Một mảnh vàng trong bộ sưu tập có khắc dòng chữ bằng tiếng Phạn cổ. [Ảnh: Bùi Giang/TTXVN]

Ngay từ đầu thế kỷ 20, những cổ vật đầu tiên của văn hóa Óc Eo đã được phát hiện trên cánh đồng Óc Eo-Ba Thê thuộc xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

Do sự phong phú của loại hình, sự độc đáo của chất liệu và vẻ đẹp rực rỡ của mỹ thuật chế tác nên ngay từ lúc bấy giờ, các di vật của văn hóa Óc Eo đã lôi cuốn sự chú ý của nhiều học giả nổi tiếng người Pháp như G.Coedès, L.Malleret, H.Parmentier…

Tuy nhiên công cuộc nghiên cứu văn hóa này chỉ thực sự bắt đầu bằng cuộc khai quật của L.Malleret tại di tích Óc Eo vào năm 1944 và những năm sau đó. L.Malleret đã công bố kết qủa khám phá và nghiên cứu của mình trong bộ sách có nhan đề “Khảo cổ học ở đồng bằng sông Cửu Long” lần lượt xuất bản từ 1959-1964.

Công trình này được coi là thành tựu Khảo cổ học chủ yếu về Văn hóa Óc Eo cho đến trước năm 1975.

Trên cơ sở các cuộc khai quật vào năm 1944, Louis Malleret cho rằng cánh đồng Óc Eo là một thành thị cổ và đặt tên là thành thị Óc Eo hay thị cảng Óc Eo, có diện tích rộng tới 450ha với một tiền cảng có tên là Tà Keo, cách Óc Eo 12km về phía Tây Nam.

Vùng này không chỉ có hình ảnh của một đô thị quy củ mà còn có nhiều dấu tích của một trung tâm tôn giáo-văn hóa lớn với 3 cụm quần thể kiến trúc là Vùng Linh Sơn Tự, vùng Đông Bắc núi Ba Thê và vùng Giồng Cát, Giồng Xoài.

Trong các cuộc khảo sát và khai quật đã tìm thấy ở các di chỉ thuộc văn hóa Óc Eo các loại tượng to nhỏ, nhẫn, hoa tai, hạt đá quý, mã não, hạt thủy tinh, con dấu, bùa đeo, công cụ bằng đồng và bằng đá; các loại hiện vật bằng đất nung như dọi xe sợi, bếp lò, đĩa đèn, chậu, nồi, vò…

Các sưu tập hiện vật của Óc Eo thể hiện tính phong phú và đa dạng của nền văn hóa này; tính bản địa, sự giao thoa và đan xen giữa các nền văn hóa trong khu vực cũng như với các vùng khác.

Vật đeo bằng vàng của cư dân Óc Eo. [Nguồn: Báo ảnh Việt Nam]

Sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ ở Óc Eo rất đậm nét, biểu hiện qua các đề tài trang trí, qua kiểu mũ hay tư thế ngồi của các pho tượng, qua con dấu với dòng chữ viết bằng các kiểu văn tự Ấn Độ…

Tính bản địa của nền văn hóa này được thể hiện qua đồ gốm, qua nồi nấu kim loại, khuôn đúc và các công cụ chế tác.

Nguồn gốc xuất xứ của văn hóa Óc Eo bắt nguồn từ trong văn hóa Đồng Nai. Mối liên hệ tiếp nối văn hóa Đồng Nai-Óc Eo được minh chứng bởi sự hiện diện ở văn hóa Óc Eo hàng loạt loại hình hiện vật đã có mặt trong văn hóa Đồng Nai.

Đó là các đồ dùng, vật dụng sinh hoạt bằng gốm, dụng cụ thủ công [bàn xoa, bàn dập, bàn mài…]; đồ đồng, đồ sắt [lục lạc, mũi dùi, rìu]; đồ trang sức [hạt chuỗi thủy tinh, mã não]; nhà sàn trên cọc gỗ…

Văn hóa Óc Eo có những giao lưu văn hóa rộng lớn với những nền văn minh thời cổ đại như với văn minh Đông Sơn [những hoa văn trang trí và những hiện vật đồng kiểu tương tự như văn minh Đông Sơn]; với Ấn Độ [những tượng thờ thuộc Ấn Độ giáo, Phật giáo, đồ trang sức, hoa văn chạm chìm, con dấu, văn tự…]; với thế giới Địa Trung Hải và Trung Đông [huy chương La Mã, hoa văn trang trí, hình chạm chìm, tượng đồng, hạt chuỗi La Mã, hình tượng vua Ba Tư…]; và với Trung Hoa [mảnh gương đồng, tượng phật nhỏ].

Óc Eo là một di tích rất lớn, một trung tâm văn hóa cổ của đồng bằng sông Cửu Long, một hình mẫu của sự kết hợp những yếu tố nội sinh và ngoại sinh trong sự phát triển; một vốn quý và điểm chốt quan trọng trong việc nghiên cứu những vấn đề lịch sử văn hóa của đất nước và khu vực Đông Nam Á.

Do đó, cần phải bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Óc Eo - một di sản văn hóa - lịch sử quan trọng của Việt Nam nói riêng và của Đông Nam Á nói chung./.


[Vietnam+]

Trên nền tảng của những yếu tố nội sinh và ngoại sinh, văn hóa Óc Eo hình thành và phát triển mạnh ở khu vực đồng bằng Nam Bộ trong khoảng 10 thế kỷ đầu Công nguyên. Năm 1879, những cổ vật đầu tiên của nền văn hóa này đã được bác sĩ A.Corre thông báo trong tập san “Excursions et Reconnaisances”. Từ năm 1937, L.Malleret đã tiến hành khảo sát, nghiên cứu một vài địa điểm văn hóa Óc Eo trong vùng Ba Thê và ghi nhận hàng loạt di tích phân bố trên các gò thấp, hệ thống kênh cổ. Nhờ nghiên cứu không ảnh, ông đã xác định được dấu vết của thành phố cổ Óc Eo. Và, qua khai quật khảo cổ, L.Malleret cũng đã xác định được vòng thành cổ và nhận định, đây là một đô thị cổ, hay còn gọi là thị cảng Óc Eo. Tên gọi văn hóa Óc Eo được đặt theo tên địa điểm gò Óc Eo, được phát hiện và công bố năm 1942.

Di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Óc Eo - Ba Thê gồm các loại hình tiêu biểu sau:

Di tích kiến trúc: thường có niên đại kéo dài từ giai đoạn tiền Óc Eo đến giai đoạn hậu kỳ Óc Eo, phân bố ở quanh sườn và chân núi Ba Thê, Linh Sơn Nam, Linh Sơn Bắc, gò Danh Sang...

- Linh Sơn tự [chùa Linh Sơn] được xây dựng bên trên nền móng của một công trình kiến trúc cổ. Trong chùa hiện đang lưu giữ tượng thần Vishnu, hai bia đá và nhiều hiện vật có giá trị. Chùa Linh Sơn đã được Bộ Văn hóa - Thông tin [nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch] xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 1988.

- Tại địa điểm gò Út Trạnh, các nhà khảo cổ đã phát hiện một tổng thể kiến trúc gạch, gồm ba hạng mục chính, được xây thẳng hàng và cách đều nhau, dàn trải theo trục Bắc- Nam, cửa quay hướng Đông... Kiến trúc này nằm trong hệ thống tường bao hình chữ nhật, có diện tích khoảng 500m2. Đây là một loại hình kiến trúc tôn giáo hoàn toàn mới tại khu vực Óc Eo - Ba Thê và miền Tây Nam Bộ, được xây dựng và sử dụng vào thế kỷ VII và thế kỷ VIII - IX sau Công nguyên.

- Gò Cây Trôm [Dwl Samron], thuộc địa phận ấp Trung Sơn, xã Vọng Thê. Khi tiến hành khai quật tại đây, các nhà khảo cổ đã phát hiện được dấu tích một công trình kiến trúc cổ, xây bằng gạch và nhiều hiện vật gắn với hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng [con dấu, bùa đeo]. Ngoài ra, các nhà khảo cổ còn phát hiện được 01 linga bằng đá, cao 1,7m, niên đại thế kỷ V - VII.

Di chỉ cư trú: phân bố trên địa bàn rộng, tiêu biểu như ở các địa điểm: Ba Thê, gò Tư Trâm, gò Cây Me 2, gò Cây Da... Các di chỉ này đều có tầng văn hóa dày trung bình từ 1m trở lên, nằm dưới lớp đất màu xám đen chứa mảnh gốm, gạch vỡ, xương động vật, công cụ bằng gỗ, bát gáo dừa, cọc gỗ, vò gốm thô, chum nhỏ, nồi đáy tròn. Đặc biệt, tại di tích gò Cây Da đã phát hiện dấu vết của kiến trúc nhà sàn [có thể được dựng trên mặt đất hoặc trên mặt nước], với những cọc gỗ tập trung thành nhóm trên cánh đồng, ven chân gò và cả dưới lòng lung...

Di chỉ mộ táng gồm các loại hình sau:

Mộ vò gốm: phát hiện ở khu vực Linh Sơn Nam, với miệng loe xiên, thành miệng rộng, có nắp đậy, bên trong chứa năm hạt chuỗi bằng vàng, một hạt chuỗi mã não [bị vỡ], niên đại vào khoảng những năm 40 - 70 sau Công nguyên.

- Mộ huyệt đất: mộ phát hiện ở khu vực gò Tư Trâm có hình chữ nhật, dọc theo hai bờ vách vẫn còn dấu vết của những thân gỗ mục, in dấu tấm đệm đan bằng cỏ lác trải rộng khắp bề mặt; đáy mộ có dấu vết xương cốt bị phân hủy. Những phát hiện trên đã chỉ ra rằng, ngôi mộ này có cùng niên đại với tầng văn hóa cư trú sớm nhất ở trên gò.

- Mộ hỏa táng: phát hiện tại các khu vực gò Cây Cóc, gò Ông Côn, gò Đôi, gò A7, thường có hình vuông hoặc hình chữ nhật, được xây bằng gạch, hoặc xếp đá, chính giữa để một lỗ vuông thông suốt, bên dưới lớp cát trắng chứa các lá vàng, chuỗi hạt bằng đá quý...

Di chỉ xưởng: những chuỗi hạt thành phẩm và bán thành phẩm, đá thủy tinh với đủ loại hình, màu sắc, chất liệu và kích thước khác nhau phát hiện tại gò Óc Eo chứng tỏ nơi đây đã từng tồn tại những xưởng thủ công có quy mô lớn.

Hệ thống giao thông thủy: lung Giếng Đá còn có tên gọi khác là lung Lớn [Antun Bhtak Kay], dài 30km, chạy theo hướng Bắc - Đông Bắc, Nam - Tây Nam, từ Tráp Đá qua vịnh Thái Lan, đến Nền Chùa [Tà Kèv]. Trong lòng lung đã phát hiện được nhiều hiện vật khảo cổ, như cọc gỗ, gốm cổ, vật dụng, đồ trang sức bằng đồng và gỗ…

Baray [hồ chứa nước]: nằm trong khu đất nhà bà Út Nguyên, thuộc ấp Trung Sơn, thị trấn Óc Eo. Hồ có hình vuông, bao quanh bởi bờ kè, hai bên hồ nước có hai dòng suối chảy vào.

Vì những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Óc Eo - Ba Thê là Di tích quốc gia đặc biệt [Quyết định số 1419/QĐ-TTg].

Cảnh Toàn [Theo Hồ sơ xếp hạng di tích, tư liệu Cục Di sản văn hóa]

Video liên quan

Chủ Đề