Trình bày sự hiểu biết của em về giao thức giao thức đang được sử dụng trên Internet là gì

Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.

Bộ giao thức TCP/IP, [tiếng Anh: TCP/IP protocol suite] hay còn gọi là bộ giao thức Internet [tiếng Anh: Internet protocol suite hoặc IP suite] là một mô hình khái niệm [conceptual model] và một tập hợp các giao thức truyền thông dùng trong mạng Internet và các hệ thống mạng máy tính tương tự. Tên gọi TCP/IP đến từ hai giao thức nền tảng của bộ giao thức là TCP [Transmission Control Protocol] và IP [Internet Protocol].[1] TCP và IP cũng là hai giao thức đầu tiên được định nghĩa.[cần dẫn nguồn]

Như nhiều bộ giao thức khác, bộ giao thức TCP/IP có thể được coi là một tập hợp các tầng, mỗi tầng giải quyết một tập các vấn đề có liên quan đến việc truyền dữ liệu, và cung cấp cho các giao thức tầng cấp trên một dịch vụ được định nghĩa rõ ràng dựa trên việc sử dụng các dịch vụ của các tầng thấp hơn. Về mặt logic, các tầng trên gần với người dùng hơn và làm việc với dữ liệu trừu tượng hơn, chúng dựa vào các giao thức tầng cấp dưới để biến đổi dữ liệu thành các dạng mà cuối cùng có thể được truyền đi một cách vật lý.

Mô hình OSI miêu tả một tập cố định gồm 7 tầng mà một số nhà sản xuất lựa chọn và nó có thể được so sánh tương đối với bộ giao thức TCP/IP. Sự so sánh này có thể gây nhầm lẫn hoặc mang lại sự hiểu biết sâu hơn về bộ giao thức TCP/IP.

Bộ giao thức liên mạng xuất phát từ công trình DARPA, từ những năm đầu thập niên kỷ 1970. Sau khi đã hoàn thành việc xây dựng ARPANET tiên phong, DARPA bắt đầu công việc trên một số những kỹ thuật truyền thông dữ liệu khác. Vào năm 1972, Robert E. Kahn đã được thuê vào làm việc tại Văn phòng kỹ thuật điều hành tin tức [Information Processing Technology Office] của DARPA, phòng có chức năng liên quan đến mạng lưới truyền thông dữ liệu thông qua vệ tinh và mạng lưới truyền thông bằng sóng radio trên mặt đất. Trong quá trình làm việc tại đây Kahn đã phát hiện ra giá trị của việc liên thông giữa chúng. Vào mùa xuân năm 1973, Vinton Cerf, kỹ sư thiết kế bản giao thức NCP hiện dùng [chương trình ứng dụng xử lý mạng lưới truyền thông - nguyên tiếng Anh là "Network Control Program"], được phân công cùng làm việc với Kahn trên các mô hình liên kết nối kiến trúc mở [open-architecture interconnection models] với mục đích thiết kế giao thức sắp tới của ARPANET.

Vào mùa hè năm 1973, Kahn và Cerf đã nhanh chóng tìm ra một phương pháp tái hội nhập căn bản, mà trong đó những khác biệt của các giao thức liên kết mạng được che lấp đi bằng một giao thức liên kết mạng chung, và thay vì mạng lưới truyền thông phải chịu trách nhiệm về tính đáng tin cậy, như trong ARPANET, thì các máy chủ [hosts] phải chịu tránh nhiệm [Cerf ghi công của Hubert Zimmerman và Louis Pouzin [thiết kế viên của mạng lưới truyền thông CYCLADES] là những người có ảnh hưởng lớn trong bản thiết kế này.]

Với nhiệm vụ là một mạng lưới truyền thông bị hạ cấp tới mức cơ bản tối thiểu, khiến việc hội nhập với các mạng lưới truyền thông khác trở nên hầu như bất khả thi, mặc dầu đặc tính của chúng là gì, và vì thế, giải đáp nan đề đầu tiên của Kahn. Một câu nói cửa miệng vì thế mà TCP/IP, sản phẩm cuối cùng do những cống hiến của Cerf và Kahn, sẽ chạy trên "đường dây nối giữa hai ống bơ rỉ", và quả nhiên nó đã được thực thi dùng các con chim bồ câu đưa thư [homing pigeons]. Một máy vi tính được dùng là cổng nối [gateway] [sau này đổi thành bộ định tuyến [router] để tránh nhầm với những loại cổng nối khác] được thiết bị một giao diện với từng mạng lưới truyền thông, truyền tải gói dữ liệu qua lại giữa chúng.

Ý tưởng này được nhóm nghiên cứu mạng lưới truyền thông của Cerf, tại Stanford, diễn giải ra tỉ mỉ, cụ thể vào khoảng thời gian trong năm 1973-1974. Những công trình về mạng lưới truyền thông trước đó tại Xerox PARC, nơi sản sinh ra bộ giao thức PARC Universal Packet, phần lớn được dùng vào thời kỳ đó, cũng gây ảnh hưởng về kỹ thuật không ít.

Sau đó DARPA ký hợp đồng với BBN, Stanford, và Trường đại học chuyên nghiệp Luân Đôn [The University College London - viết tắt là UCL] kiến tạo một số phiên bản của giao thức làm việc được, trên các nền tảng phần cứng khác nhau. Có bốn phiên bản đã được xây dựng - TCP v1, TCP v2. Phiên bản 3 được tách ra thành hai phần TCP v3 và IP v3, vào mùa xuân năm 1978, và sau đó ổn định hóa với phiên bản TCP/IP v4 - giao thức tiêu chuẩn hiện dùng của Internet ngày nay.

Vào năm 1975, cuộc thử nghiệm thông nối hai mạng lưới TCP/IP, giữa Stanford và UCL đã được tiến hành. Vào tháng 11 năm 1977, một cuộc thử nghiệm thông nối ba mạng lưới TCP/IP, giữa Mỹ, Anh và Na Uy đã được chỉ đạo. Giữa năm 1978 và 1983, một số những bản mẫu của TCP/IP đã được thiết kế tại nhiều trung tâm nghiên cứu. Ngày 1 tháng 1 năm 1983, ARPANET đã hoàn toàn được chuyển hóa sang dùng TCP/IP.[2]

Vào tháng 3 năm 1982,[3] Bộ Quốc phòng Mỹ chấp thuận TCP/IP thành một tiêu chuẩn cho toàn bộ mạng lưới vi tính truyền thông quốc phòng. Vào năm 1985, Uỷ ban kiến trúc Internet [Internet Architecture Board] đã dành 3 ngày hội thảo về TCP/IP cho công nghiệp điện toán, với sự tham dự của 250 đại biểu từ các công ty thương mại. Cuộc hội thảo này đã làm tăng thêm uy tín và sự nổi tiếng của giao thức, khiến nó ngày càng phổ biến trên thế giới.

Ngày 9 tháng 11 năm 2005 Kahn và Cerf đã được tặng thưởng Huy chương Tự do Tổng thống [Presidential Medal of Freedom] cho những thành tích cống hiến của họ đối với nền văn hóa của Mỹ.[4]

 

IP suite stack showing the physical network connection of two hosts via two routers and the corresponding layers used at each hop

Bộ giao thức IP dùng sự đóng gói dữ liệu hòng trừu tượng hóa [thu nhỏ lại quan niệm cho dễ hiểu] các giao thức và các dịch vụ. Nói một cách chung chung, giao thức ở tầng cao hơn dùng giao thức ở tầng thấp hơn để đạt được mục đích của mình. Chồng giao thức Internet gần giống như các tầng cấp trong mô hình của Bộ quốc phòng Mỹ:

4 Tầng ứng dụng DNS, TFTP, TLS/SSL, FTP, HTTP, IMAP, IRC, NNTP, POP3, SIP, SMTP, SNMP, SSH, TELNET, ECHO, BitTorrent, RTP, PNRP, rlogin, ENRP, …
Các giao thức định tuyến như BGP và RIP, vì một số lý do, chạy trên TCP và UDP - theo thứ tự từng cặp: BGP dùng TCP, RIP dùng UDP - còn có thể được coi là một phần của tầng ứng dụng hoặc tầng mạng.
3 Tầng giao vận TCP, UDP, DCCP, SCTP, IL, RUDP, …
Các giao thức định tuyến như OSPF [tuyến ngắn nhất được chọn đầu tiên], chạy trên IP, cũng có thể được coi là một phần của tầng giao vận, hoặc tầng mạng. ICMP [Internet control message protocol| - tạm dịch là Giao thức điều khiển thông điệp Internet] và IGMP [Internet group management protocol - tạm dịch là Giao thức quản lý nhóm Internet] chạy trên IP, có thể được coi là một phần của tầng mạng.
2 Tầng mạng IP [IPv4, IPv6]
ARP [Address Resolution Protocol| - tạm dịch là Giao thức phân giải địa chỉ] và RARP [Reverse Address Resolution Protocol - tạm dịch là Giao thức tìm địa chỉ ngược lại] hoạt động ở bên dưới IP nhưng ở trên tầng liên kết [link layer], vậy có thể nói là nó nằm ở khoảng trung gian giữa hai tầng.
1 Tầng liên kết Ethernet, Wi-Fi, Token ring, PPP, SLIP, FDDI, ATM, Frame Relay, SMDS, …

Những tầng gần trên nóc gần với người sử dụng hơn, còn những tầng gần đáy gần với thiết bị truyền thông dữ liệu. Mỗi tầng có một giao thức để phục vụ tầng trên nó, và một giao thức để sử dụng dịch vụ của tầng dưới nó [ngoại trừ giao thức của tầng đỉnh và tầng đáy].

Cách nhìn các tầng cấp theo quan niệm: hoặc là cung cấp dịch vụ, hoặc là sử dụng dịch vụ, là một phương pháp trừu tượng hóa để cô lập các giao thức của tầng trên, tránh quan tâm đến thực chất của vấn đề, như việc truyền tải từng bit qua Ethernet chẳng hạn, và phát hiện xung đột [collision detection], trong khi những tầng dưới không cần phải biết đến chi tiết của mỗi một chương trình ứng dụng và giao thức của nó.

Sự trừu tượng hóa này cho phép những tầng trên cung cấp những dịch vụ mà các tầng dưới không thể làm được, hoặc cố ý không làm. Chẳng hạn IP được thiết kế với độ đáng tin cậy thấp, và được gọi là giao thức phân phát với khả năng tốt nhất [thay vì với "độ tin cậy cao" hoặc "đảm bảo nhất"]. Điều đó có nghĩa là tất cả các tầng giao vận đều phải lựa chọn, hoặc là cung cấp dịch vụ đáng tin cậy, hoặc là không, và ở mức độ nào. UDP đảm bảo sự toàn vẹn của dữ liệu [bằng cách dùng kiểm tra tổng [checksum]], song không đảm bảo sự phân phát dữ liệu tới đích; TCP cung cấp cả hai, sự toàn vẹn của dữ liệu, và đảm bảo sự phân phát dữ liệu tới đích [bằng cách truyền tải lại gói dữ liệu, cho đến khi nơi nhận nhận được gói dữ liệu].

 

Sample encapsulation of data within a UDP datagram within an IP packet

Mô hình này còn thiếu sót một cái gì đó.

  1. Trong liên kết đa điểm, với hệ thống điền địa chỉ riêng của mình [ví dụ như Ethernet], một giao thức để đối chiếu địa chỉ [address mapping protocol] là một cái cần phải có. Những giao thức như vậy được coi là ở dưới tầng IP, song lại ở trên hệ thống liên kết hiện có.
  2. ICMP và IGMP hoạt động bên trên IP song không truyền tải dữ liệu như UDP hoặc TCP.
  3. Thư viện SSL/TLS hoạt động trên tầng giao vận [sử dụng TCP] song ở dưới các giao thức trình ứng dụng.
  4. Ở đây, tuyến liên kết được coi như là một cái hộp kín. Nếu chúng ta chỉ bàn về IP thì việc này hoàn toàn có thể chấp nhận được [vì bản chất của IP là nó có thể truyền tải trên bất cứ cái gì], song nó chẳng giúp được gì mấy, khi chúng ta cân nhắc đến mạng truyền thông như một tổng thể.

Ví dụ thứ ba và thứ tư có thể được giải thích rõ hơn dùng mô hình OSI, trong khi hai ví dụ đầu tiên còn nhiều vấn đề phải đề cập đến.

So sánh với mô hình OSI

Bộ giao thức IP [và chồng giao thức tương ứng] đã được sử dụng, trước khi mô hình OSI được thành lập, và từ đó, rất nhiều lần trong sách in cũng như trong lớp học, chồng giao thức IP đã được so sánh với mô hình OSI rất nhiều lần. Các tầng cấp của OSI cũng thường được dùng để diễn tả chức năng của các thiết bị mạng.

Hai cái có liên quan ít nhiều, song không phải là hoàn toàn giống nhau. Điểm khác biệt đầu tiên dễ thấy nhất là số lượng của các tầng cấp. Mô hình của Bộ Quốc phòng Mỹ [DoD model], với chồng giao thức IP, chỉ có bốn hoặc năm tầng [tầng liên kết có thể được coi như là một tầng riêng biệt, song cũng có thể được phân tách ra thành hai tầng, tầng vật lý và tầng liên kết dữ liệu, trong khi đó mô hình OSI lại dùng bảy tầng. So sánh tên của chúng một cách chặt chẽ cho chúng ta thấy rằng, hai tầng "mới" có tên là tầng trình diễn và tầng phiên. Nhiều sự so sánh đã gộp hai tầng này lại với tầng ứng dụng của OSI, và coi nó tương tự như tầng ứng dụng của giao thức IP.

Tương tự như chồng giao thức IP, các tầng dưới của mô hình OSI không có nhiều chức năng, đủ để nắm bắt được thực trạng công việc của bộ giao thức IP. Chẳng hạn, chúng ta cần phải có một "tầng liên kết mạng" gắn vào khoảng trống giữa tầng mạng và tầng giao vận, để chỉ ra nơi tồn tại của ICMP [Internet Control Message Protocol - Giao thức điều khiển thông điệp Internet] và IGMP [Internet Group Management Protocol - Giao thức quản lý nhóm Internet]. Thêm vào đó, chúng ta cũng cần phải có một tầng ở giữa tầng mạng và tầng liên kết dữ liệu dành cho ARP [Address Resolution Protocol - Giao thức tìm địa chỉ] và RARP [Reverse Address Resolution Protocol - Giao thức tìm địa chỉ ngược lại]. Không những thế, nó còn chịu ảnh hưởng của việc thiết kế chỉ nhắm vào một cài đặt đơn giản của mạng lưới, với một tầng liên kết dữ liệu mà thôi [chẳng hạn người dùng ADSL dùng giao thức đường hầm [tunnelling protocol] để "đào hầm" thông vào mạng lưới của công ty liên hiệp, dùng IP trên PPTP, hơn là dùng IP trên PPPoA, thông qua liên kết ADSL].

Một ví dụ cho thấy mô hình OSI có tác dụng là việc chỉ ra nơi thích hợp nhất của SSL/TLS. Thông thường SSL/TLS được dùng như một giao thức phiên [session protocol], tức là một giao thức tầng cấp trên [upper layer protocol] dành cho TCP hoặc UDP, song lại là một giao thức tầng cấp dưới [lower layer protocol] đối với rất nhiều các giao thức khác [HTTP, SFTP,...], hoặc bất cứ một chương trình ứng dụng nào hoạt động trên một stunnel hoặc trên một mạng riêng ảo bảo an [secure virtual private network].

7 Tầng ứng dụng HTTP, SMTP, SNMP, FTP, Telnet, ECHO, SIP, SSH, NFS, RTSP, XMPP, Whois, ENRP
6 Tầng trình diễn XDR, ASN.1, SMB, AFP, NCP
5 Tầng phiên ASAP, TLS, SSH, ISO 8327 / CCITT X.225, RPC, NetBIOS, ASP
4 Tầng giao vận TCP, UDP, RTP, SCTP, SPX, ATP, IL
3 Tầng mạng IP, ICMP, IGMP, IPX, BGP, OSPF, RIP, IGRP, EIGRP, ARP, RARP, X.25
2 Tầng liên kết dữ liệu Ethernet, Token ring, HDLC, Frame relay, ISDN, ATM, 802.11 WiFi, FDDI, PPP
1 Tầng vật lý 10BASE-T, 100BASE-T, 1000BASE-T, SONET/SDH, T-carrier/E-carrier, các tầng vật lý khác thuộc 802.11

Chim bồ câu đưa thư [Carrier pigeon] cũng có thể được nhóm vào tầng vật lý, song đây là cách dùng không được chấp nhận [ngoại tiêu chuẩn].

Có một vài những câu dễ nhớ để giúp các bạn nhớ được tên và trật tự của những tầng cấp trong mô hình OSI.

Sau đây là miêu tả từng tầng trong bộ giao thức TCP/IP.

Tầng ứng dụng

Tầng ứng dụng là nơi các chương trình mạng thường dùng làm việc nhất nhằm liên lạc giữa các nút trong một mạng.

Giao tiếp xảy ra trong tầng này là tùy theo các ứng dụng cụ thể và dữ liệu được truyền từ chương trình, trong định dạng được sử dụng nội bộ bởi ứng dụng này, và được đóng gói theo một giao thức tầng giao vận.

Do chồng TCP/IP không có tầng nào nằm giữa ứng dụng và các tầng giao vận, tầng ứng dụng trong bộ TCP/IP phải bao gồm các giao thức hoạt động như các giao thức tại tầng trình diễn và tầng phiên của mô hình OSI. Việc này thường được thực hiện qua các thư viện lập trình.

Dữ liệu thực để gửi qua mạng được truyền cho tầng ứng dụng, nơi nó được đóng gói theo giao thức tầng ứng dụng. Từ đó, dữ liệu được truyền xuống giao thức tầng thấp tại tầng giao vận.

Hai giao thức tầng thấp thông dụng nhất là TCP và UDP. Mỗi ứng dụng sử dụng dịch vụ của một trong hai giao thức trên đều cần có cổng. Hầu hết các ứng dụng thông dụng có các cổng đặc biệt được cấp sẵn cho các chương trình phục vụ [server][HTTP - Giao thức truyền siêu văn bản dùng cổng 80; FTP - Giao thức truyền tệp dùng cổng 21, v.v..] trong khi các trình khách [client] sử dụng các cổng tạm thời [ephemeral port].

Các thiết bị định tuyến và thiết bị chuyển mạch không sử dụng tầng này nhưng các ứng dụng điều chỉnh thông lượng [bandwidth throttling] thì có dùng.

Tầng giao vận

Trách nhiệm của tầng giao vận là kết hợp các khả năng truyền thông điệp trực tiếp [end-to-end] không phụ thuộc vào mạng bên dưới, kèm theo kiểm soát lỗi [error control], phân mảnh [fragmentation] và điều khiển lưu lượng. Việc truyền thông điệp trực tiếp hay kết nối các ứng dụng tại tầng giao vận có thể được phân loại như sau:

  • 1. định hướng kết nối [connection-oriented], ví dụ TCP
  • 2. phi kết nối [connectionless], ví dụ UDP

Tầng giao vận có thể được xem như một cơ chế vận chuyển thông thường, nghĩa là trách nhiệm của một phương tiện vận tải là đảm bảo rằng hàng hóa/hành khách của nó đến đích an toàn và đầy đủ.

Tầng giao vận cung cấp dịch vụ kết nối các ứng dụng với nhau thông qua việc sử dụng các cổng TCP và UDP. Do IP chỉ cung cấp dịch vụ phát chuyển nỗ lực tối đa [best effort delivery], tầng giao vận là tầng đầu tiên giải quyết vấn đề độ tin cậy.

Ví dụ, TCP là một giao thức định hướng kết nối. Nó giải quyết nhiều vấn đề độ tin cậy để cung cấp một dòng byte đáng tin cậy [reliable byte stream]:

  • dữ liệu đến đích đúng thứ tự
  • sửa lỗi dữ liệu ở mức độ tối thiểu
  • dữ liệu trùng lặp bị loại bỏ
  • các gói tin bị thất lại/loại bỏ được gửi lại
  • có kiểm soát tắc nghẽn giao thông dữ liệu

Tuy các giao thức định tuyến động [dynamic routing protocol] khớp về kỹ thuật với tầng giao vận trong bộ giao thức TCP/IP [do chúng chạy trên IP], nhưng chúng thường được xem là một phần của tầng mạng. Một ví dụ là giao thức OSPF [số hiệu giao thức IP là 89].

Giao thức mới hơn, SCTP [Stream Control Transmission Protocol|], cũng là một cơ chế giao vận định hướng kết nối "đáng tin cậy". Giao thức này định hướng dòng [stream-oriented], chứ không định hướng byte như TCP, và cung cấp nhiều dòng đa công [multiplexed] trên một kết nối. Nó còn hỗ trợ multi-homed, trong đó một đầu của kết nối có thể được đại diện bởi nhiều địa chỉ IP [đại diện cho nhiều giao diện vật lý], sao cho, nếu một giao diện vật lý thất bại thì kết nối vẫn không bị gián đoạn. Giao thức này ban đầu được phát triển dành cho các ứng dụng điện thoại [để vận chuyển SS7 trên giao thức IP], nhưng nó cũng có thể được sử dụng cho các ứng dụng khác.

UDP là một giao thức datagram phi kết nối. Cũng như IP, nó là một giao thức nỗ lực tối đa hay "không đáng tin cậy". Vấn đề duy nhất về độ tin cậy mà nó giải quyết là sửa lỗi dữ liệu [dù chỉ bằng một thuật toán tổng kiểm yếu]. UDP thường được dùng cho các ứng dụng như các phương tiện truyền thông theo dòng [streaming media] chứa âm thanh và hình ảnh, v.v.., trong đó, vấn đề gửi đến đúng giờ có vai trò quan trọng hơn độ tin cậy, hoặc cho các ứng dụng truy vấn/đáp ứng đơn giản như tra cứu tên miền, trong đó, phụ phí của việc thiết lập một kết nối đáng tin cậy lớn một cách không cân xứng.

Giao thức DCCP hiện đang được phát triển bởi IETF [Internet Engineering Task Force]. Nó cung cấp nội dung điều khiển lưu lượng của TCP, trong khi đối với người dùng, nó giữ bề ngoài như mô hình dịch vụ datagram của UDP.

Cả TCP và UDP được dùng cho một số ứng dụng bậc cao [high-level]. Các ứng dụng tại các địa chỉ mạng cho trước được phân biệt bởi cổng TCP hay UDP của nó. Theo quy ước, các cổng "nổi tiếng" được liên kết với một số ứng dụng cụ thể. [Xem Danh sách cổng TCP và UDP.]

RTP [Real-time Transport Protocol - giao thức giao vận thời gian thực] là một giao thức datagram được thiết kế cho dữ liệu thời gian thực [real-time], chẳng hạn hình và tiếng được truyền theo dòng ['streaming audio and video']. RTP là một giao thức tầng phiên sử dụng định dạng gói tin UDP làm căn bản. Tuy nhiên, nó được đặt vào tầng giao vận của chồng giao thức TCP/IP.

Tầng mạng

Theo định nghĩa ban đầu, tầng mạng giải quyết các vấn đề dẫn các gói tin qua một mạng đơn. Một số ví dụ về các giao thức như vậy là X.25, và giao thức Host/IMP của mạng ARPANET.

Với sự xuất hiện của khái niệm liên mạng, các chức năng mới đã được bổ sung cho tầng này, đó là chức năng dẫn đường cho dữ liệu từ mạng nguồn đến mạng đích. Nhiệm vụ này thường đòi hỏi việc định tuyến cho gói tin quan một mạng lưới của các mạng máy tính, đó là liên mạng.

Trong bộ giao thức liên mạng, giao thức IP thực hiện nhiệm vụ cơ bản dẫn đường dữ liệu từ nguồn tới đích. IP có thể chuyển dữ liệu theo yêu cầu của nhiều giao thức tầng trên khác nhau; mỗi giao thức trong đó được định danh bởi một số hiệu giao thức duy nhất: giao thức ICMP [Internet Control Message Protocol] là giao thức 1 và giao thức IGMP [Internet Group Management Protocol] là giao thức 2.

Một số giao thức truyền bởi IP, chẳng hạn ICMP [dùng để gửi thông tin chẩn đoán về truyền dữ liệu bằng IP] và IGMP [dùng để quản lý dữ liệu đa truyền [multicast]], được đặt lên trên IP nhưng thực hiện các chức năng của tầng liên mạng, điều này minh họa một sự bất tương thích giữa liên mạng và chồng TCP/IP và mô hình OSI. Tất cả các giao thức định tuyến, chẳng hạn giao thức BGP [Border Gateway Protocol], giao thức OSPF, và giao thức RIP [Routing information protocol|], đều thực sự là một phần của tầng mạng, mặc dù chúng có thể có vẻ thuộc về phần trên của chồng giao thức.

Tầng liên kết

Các giao thức thuộc tầng liên kết được sử dụng để chuyển các gói tin từ tầng mạng tới các máy chủ [host] khác nhau.[5][6] Các quá trình truyền các gói tin trên một liên kết cho trước và nhận các gói tin từ một liên kết cho trước có thể được điều khiển cả trong phần mềm điều vận thiết bị [device driver] dành cho card mạng, cũng như trong firmware hay các chipset chuyên dụng. Những thứ đó sẽ thực hiện các chức năng liên kết dữ liệu chẳng hạn như bổ sung một tín đầu [packet header] để chuẩn bị cho việc truyền gói tin đó, rồi thực sự truyền frame dữ liệu qua một môi trường vật lý.

Đối với truy nhập Internet qua modem quay số, các gói IP thường được truyền bằng cách sử dụng giao thức PPP. Đối với truy nhập Internet băng thông rộng [broadband] như ADSL hay modem cáp, giao thức PPPoE thường được sử dụng. Mạng dây cục bộ [local wired network'] thường sử dụng Ethernet, còn mạng không dây cục bộ thường dùng chuẩn IEEE 802.11. Đối với các mạng diện rộng [wide-area network], các giao thức thường được sử dụng là PPP đối với các đường T-carrier hoặc E-carrier, Frame relay, ATM [Asynchronous Transfer Mode], hoặc giao thức packet over SONET/SDH [POS].

Tầng liên kết còn có thể là tầng nơi các gói tin được chặn [intercepted] để gửi qua một mạng riêng ảo [virtual private network]. Khi xong việc, dữ liệu tầng liên kết được coi là dữ liệu của ứng dụng và tiếp tục đi xuống theo chồng giao thức TCP/IP để được thực sự truyền đi. Tại đầu nhận, dữ liệu đi lên theo chồng TCP/IP hai lần [một lần cho mạng riêng ảo và lần thứ hai cho việc định tuyến].

Tầng liên kết còn có thể được xem là bao gồm cả tầng vật lý - tầng là kết hợp của các thành phần mạng vật lý thực sự [hub, các bộ lặp [repeater], cáp mạng, cáp quang, cáp đồng trục [coaxial cable], card mạng, cạc HBA [Host Bus Adapter] và các thiết bị nối mạng có liên quan: RJ-45, BNC, etc], và các đặc tả mức thấp về các tín hiệu [mức hiệu điện thế, tần số, v.v..].

  • KA9Q PPJ
  • lwIP

Hiện nay, một số hệ điều hành thương mại có bao gồm và cài đặt sẵn chồng TCP/IP. Đối với đa số người dùng, chúng ta không cần phải lùng tìm bản lập trình thực thi của nó. TCP/IP được bao gồm trong tất cả các phiên bản Unix thương mại và các phân phối của Linux, cũng như với Mac OS X, Microsoft Windows, và Windows Server.

  • Internet Engineering Task Force [1989]. RFC 1122 - Requirements for Internet Hosts -- Communication Layers.
  • F. Kurose, James; W. Ross, Keith [2013]. Computer Networking A Top Down Approach, 6th edition. ISBN 0-13-285620-4.

  1. ^ F Kurose 2013, tr. 5, "The Transmission Control Protocol [TCP] and the Internet Protocol [IP] are two of the most important protocols in the Internet."Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFF_Kurose2013 [trợ giúp]
  2. ^ “Internet History”. livinginternet.com/. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2020.
  3. ^ Ronda Hauben. “A Study of the ARPANET TCP/IP Digest and of the Role of Online Communication in the Transition from the ARPANET to the Internet”. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2020.
  4. ^ “Technology | Net pioneers receive top honour - BBC NEWS”. news.bbc.co.uk. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2020.
  5. ^ F. Kurose 2013, tr. 52, "1.5.1 Layered Architecture Link Layer"Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFF._Kurose2013 [trợ giúp]
  6. ^ Internet Engineering Task Force 1989, tr. 10, 1.1.3 Internet Protocol Suite "Link layer"

  • Andrew S. Tanenbaum. Computer Networks. ISBN 0-13-066102-3
  • Douglas E. Comer. Internetworking with TCP/IP - Principles, Protocols and Architecture. ISBN 86-7991-142-9 [Điều hành liên kết mạng với TCP/IP - nguyên lý, giao thức và kiến trúc]
  • Joseph G. Davies và Thomas F. Lee. Microsoft Windows Server 2003 TCP/IP Protocols and Services. ISBN 0-7356-1291-9 [Giao thức và dịch vụ TCP/IP trong Microsoft Windows Server 2003]
  • Craig Hunt TCP/IP Network Administration. O'Reilly [1998] ISBN 1-56592-322-7 [Quản lý mạng TCP/IP]
  • W. Richard Stevens. The Protocols [TCP/IP Illustrated, Volume 1]. Addison-Wesley Professional; 1st edition [ngày 31 tháng 12 năm 1993]. ISBN 0-201-63346-9 [Giao thức [Minh họa TCP/IP, tập 1]]
  • Ian McLean. Windows[R] 2000 TCP/IP Black Book ISBN 1-57610-687-X [Sổ bìa đen về TCP/IP trong Windows[R] 2000]
  • Mô hình OSI [OSI Model]
  • Mô hình của Bộ Quốc phòng Mỹ [DoD Model]
  • Danh sách các cổng của TCP và UDP [List of TCP and UDP port numbers]

Tiếng Anh:

  • RFC 1180 Hướng dẫn về TCP/IP - tài liệu của Internet Engineering Task Force [tháng 1 năm 1991]
  • TCP/IP Các câu hỏi thường gặp
  • The TCP/IP Guide - Giải thích về các giao thức và các quy trình có liên quan
  • TCP/IP Modem Tutorial Lưu trữ 2006-06-16 tại Wayback Machine
  • Một nghiên cứu của tạp chí ARPANET TCP/IP Digest
  • Sơ đồ dãy TCP/IP
  • Internet thực hành Lưu trữ 2007-08-11 tại Wayback Machine
  • Ateneo Network Research Group Nghiên cứu về TCP/IP tại Đại học Ateneo de Manila
  • Thư mục về TCP/IP & Informational Resource. Lưu trữ 2006-08-13 tại Wayback Machine
  • Một chương[liên kết hỏng] trong cuốn sách "Understanding TCP/IP".
  • TCP/IP Tutorial

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=TCP/IP&oldid=68619791”

Page 2

Bài viết này cần thêm liên kết tới các bài viết khác để giúp nó bách khoa hơn. Xin hãy giúp cải thiện bài viết này bằng cách thêm các liên kết có liên quan đến ngữ cảnh trong văn bản hiện tại.

Mạng Ethernet trên công nghệ cáp đồng xoắn đôi sử dụng các sợi cáp đồng xoắn đôi trong lớp mạng vật lý của hệ thống kết nối mạng Ethernet cho máy tính. Hệ thống mạng Ethernet cũng có thể sử dụng các loại cáp đồng trục hoặc cáp quang. Những phiên bản tiêu chuẩn đầu tiên được xây dựng vào những năm 1980 cho mạng nội bộ [LAN] hình sao [StarLAN] cho tốc độ 10BASE-T. Trong thập kỷ 90, các công nghệ mạng giá rẻ có mức độ phát triển nhanh bắt đầu xuất hiện. Hiện tại phổ biến nhất là 100BASE-TX [fast Ethernet] và 1000BASE-T [gigabit Ethernet]truyền dẫn tốc độ tương ứng 100 Mbit/giây và 1000 Mbit/giây [1 Gbit/s]. Tất cả các tiêu chuẩn sử dụng đầu nối loại 8P8C. Và các ứng dụng [công nghệ] mới tốc độ cao sẽ phải hỗ trợ hoàn toàn các công nghệ [tiêu chuẩn] tốc độ thấp;điều này cho phép kết hợp nhiều thế hệ thiết bị khác nhau trong cùng một hệ thống mạng. Khả năng truyền dẫn kết hợp cho các kết nối là 10/100 or 10/100/1000 tùy theo thiết bị đầu cuối. Loại cáp thường được sử dụng có 4 đôi dây [với tốc độ 10BASE-T và 100BASE-TX chỉ cần 2 đôi dây]. Cả ba tiêu chuẩn tốc độ này đều hỗ trợ kết nối full-duplex và half-duplex.

Viết Tắt

10BASE-T là một công nghệ trong mạng [Ethernet] cho phép các [máy tính] trong mạng được nối với nhau thông qua cáp đôi xoắn. Tên gọi của 10BASE-T xuất phát từ một vài đặc điểm vật lý, trong đó 10 tương ứng với tốc độ truyền tối đa 10 [Megabit] trên giây [Mb/s], BASE là viết gọn của [baseband], T là loại cáp xoắn đôi [Twisted Pairs]. Vì sử dụng cáp xoắn đôi nên nó có thẻ chạy song công toàn phần [Full duplex].

Cáp mạng

Các tiêu chuẩn Ethernet cho cáp đồng xoắn đôi phần lớn sử dụng cáp được kết nối các đôi dây thẳng"straight through"[chân 1 kết nối tới chân 1, chân 2 tới chân 2 và tương tự cho các chân còn lại], nhưng cũng có vài trường hợp phải kết nối chéo"crossover"các đôi dây[đôi nhận ở một đầu kết nối tới đôi phát ở đầu còn lại và ngược lại].

Tốc độ 10BASE-T và 100BASE-TX chỉ yêu cầu sử dụng 2 đôi dây mà thôi, sử dụng các chân 1, 2, 3, 6. Từ tốc độ 10BASE-T và 100BASE-TX chỉ cần 2 đôi dây và sợi cáp Category 5 có tới 4 đôi dây nên có thể sử dụng 2 đôi dây còn lại cho một nốt mạng khác [tất nhiên điều này không tuân theo một tiêu chuẩn nào] hoặc sử dụng các đôi dây này vào công nghệ PoE [Power over Ethernet - Truyền điện nguồn qua dây mạng] [hoặc sử dụng trên cùng một sợi cáp mạng 1 đường kết nối mạng và 2 đường điện thoại] thông qua sợi cáp Category 5 sử dụng 2 đôi cáp không cần thiết [chân 4–5, 7–8] trong cấu hình tốc độ 10- và 100-Mbit/giây. Trong thực tế để có một hiệu suất tốt nhất đòi hỏi phải tách riêng các đôi cáp trong tốc độ 10/100-Mbit/giây tại các hub, switche và các máy tính PC và không sử dụng các đôi cáp thừa. Hơn nữa tốc độ 1000BASE-T [và 10GBASE-T] yêu cầu sử dụng cả bốn đôi cáp, chân 1, 2, 3, 6 cũng như 4, 5, 7, 8.

Thông thường để kết nối mạng Ethernet tốc độ 10- hoặc 100-Mbit/giây sử dụng tiêu chuẩn T568A hoặc T568B. Hai tiêu chuẩn này khác nhau ở vị trí hoán đổi của hai đôi cáp được sử dụng cho việc phát và nhận [TX/RX], nếu ta đấu một đầu cáp theo kiểu T568A và đầu còn lại theo kiểu T568B thì ta sẽ có một sợi cáp chéo.

Kết nối 10BASE-T và 100BASE-TX trên máy tính PC sử dụng loại đầu nối được gọi là đầu nối giao diện Medium Dependent Interfaces [MDI], phát tín hiệu trên các chân 1, 2 và nhận tín hiệu trên các chân 3, 6 tới các thiết bị mạng sử dụng loại cáp thẳng"straight-through". Trong công nghệ cũ nếu 2 thiết bị mạng cùng cấp [switch kết nối switch hoặc máy tính kết nối máy tính] thường yêu cầu sử dụng cáp chéo"crossover"tại tốc độ 10 hoặc 100 Mbit/giây. Và thông thường một số đầu nối [trên switch] có thể sử dụng loại cáp thẳng"straight-through"được đặt tên là MDI-X port và được xem như là một kết nối chéo ["internal crossover"hoặc"embedded crossover"] có sẵn trong switch. Các cổng Hub và switch đời cũ được kết nối chéo nội tại [internal crossovers] thường được đặt tên là cổng"uplink"hoặc"X". Ví dụ, 3Com thường đặt tên các cổng này là 1X, 2X, và tương tự với các cổng tiếp theo. Trong một vài trường hợp thì có một nút bấm cho phép chuyển đổi một cổng mạng từ cổng thường thành cổng uplink.

Ngày nay các card mạng Ethernet trong các máy tính đời mới có thể tự động nhận ra có một máy tính khác được kết nối với mình bằng cáp thẳng"straight-through"trong khi yêu cầu cần có một kết nối chéo"crossover"và khi đó nó sẽ tự động chuyển đổi cổng mạng của mình thành cổng uplink. Phần lớn các switch đời mới có chức năng chuyển đổi chéo"crossover"[gọi là"auto MDI-X"hoặc"auto-uplink"] cho tất cả các cổng mạng, loại bỏ các cổng switch"uplink"hoặc MDI/MDI-X, cho phép mọi cổng kết nối switch chỉ cần sử dụng cáp thẳng"straight-through". Nhưng nếu cả hai thiết bị được kết nối hỗ trợ tốc độ 1000BASE-T theo tiêu chuẩn thì chúng được kết nối sử cáp mạng như thế nào.

Một đầu phát tốc độ 10BASE-T sẽ phát hai điện áp khác biệt +2.5 V hoặc −2.5 V trên một đôi dây.

Tương tự tốc độ 100BASE-TX sử dụng cùng một đôi dây như 10BASE-T, nhưng có chất lượng truyền dẫn tốt hơn cho phép băng thông tín hiệu cao hơn.

Đầu phát tốc độ 100BASE-TX phát ra 3 mức điện áp là +1 V, 0 V, hoặc −1 V.[6]

Tốc độ 1000BASE-T sử dụng cả bốn đôi cáp phát theo 2 chiều [bi-directionally] hoặc còn gọi là full-duplex và theo tiêu chuẩn thì nó bao gồm cả auto MDI-X. Theo tiêu chuẩn IEEE 802.3ab cho tốc độ 1000BASE-T với cáp đồng xoắn đôi Cat 5e UTP sử dụng mã hoá tín hiệu 4D-PAM5 [4 dimensions using PAM [pulse amplitude modulation]] với 5 mức điện áp −2 V, −1 V, 0 V, +1 V, và +2 V. Khi đó mức điện áp +2 V tới −2 V xuất hiện trên các chân điều khiển, mức điện áp có trên cáp thông thường là +1 V, +0.5 V, 0 V, −0.5 V và −1 V.

Ứng dụng 100BASE-TX và 1000BASE-T được thiết kế với yêu cầu tối thiểu sử dụng cáp Category 5e với chiều dài tối đa là 100 mét.

Không giống như các tiêu chuẩn Ethernet sử dụng cáp đồng trục trước đây như 10BASE5 [thicknet] và 10BASE2 [thinnet], tiêu chuẩn tốc độ 10BASE-T không đưa ra yêu cầu chính xác cho loại cáp phải sử dụng mà thay vào đó nó chỉ định các thông số kỹ thuật mà loại cáp sử dụng phải đạt được. Điều này làm cho tiêu chuẩn 10BASE-T trên hệ thống cáp đồng xoắn đôi có thể không phù hợp với các tiêu chuẩn chỉ định cho hệ thống điện. Một số đặc tính kỹ thuật cụ thể như thông số suy hao [attenuation], trở kháng danh định [characteristic impedance], độ trễ truyền [propagation delay] và các thông số nhiễu [noise]. Các thiết bị kiểm tra cáp mạng được phổ biến rộng rãi để kiểm tra mọi thông số kỹ thuật sau khi hệ thống cáp mạng được lắp đặt. Các thông số kỹ thuật này phải đặt được yêu cầu của tiêu chuẩn với độ dài 100 mét trên đường cáp đồng xoắn đôi không bọc giáp UTP [unshielded twisted-pair cable] có tiết diện lõi đồng là 24AWG [0.511 mm].

  Bài viết liên quan đến điện toán này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=10BASE-T&oldid=68567775”

Video liên quan

Chủ Đề