Tư bản khả biến tư bản bất biến là gì

Phân biệt tư bản bất biến và tư bản khả biến là những phần nội dung quan trọng trong môn triết học. Để đạt được điểm cao các bạn cần phải hiểu rõ nội dung “tư bản bất biến là gì? Tư bản khả biến là gì?” rồi từ đó rút ra điểm khác biệt giữa chúng. Hãy cùng theo dõi bài viết này để làm bài tốt nhất nhé!

Tìm hiểu về vấn đề phân biệt tư bản bất biến và tư bản khả biến

Để có thể sản xuất ra giá trị thặng dư, nhà tư bản cần phải ứng trước tư bản ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động. Trong quá trình sản xuất, giá trị của tư liệu sản xuất sẽ được lao động [cụ thể là người công nhân] chuyển vào để sản xuất ra sản phẩm mới và lượng giá trị của chúng không bị đổi. Bộ phận tư bản này không có sự biến đổi về giá trị nên được gọi là tư bản bất biến.

Đối với bộ phận tư bản được dùng để mua sức lao động thì trong quá trình sản xuất, bằng nhũng lao động trừu tượng của mình, người công nhân đã tạo ra một giá trị mới bù đắp đủ giá trị cho sức lao động của họ và tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà tư bản. Như vậy, bộ phận tư bản này đã có sự biến đổi về lượng nên được gọi là tư bản khả biến.

Nhằm giúp các bạn đọc có thể dễ dàng phân biệt được tư bản bất biến và tư bản khả biến, chúng tôi sẽ đưa ra một số tiêu chí thể hiện rõ sự khác nhau. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu kỹ ở dưới đây.

Phân biệt giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến
  • Tư bản bất biến là giá trị của tư liệu sản xuất được lao động đưa vào sản xuất ra sản phẩm mới và giá trị của nó trong sản phẩm mới không bị thay đổi. Còn tư bản khả biến lại là bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện rõ nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân mà tăng lên, tức là đã có sự biến đổi về lượng.
  • Việc phân chia thành tư bản bất biến và tư bản khả biến là dựa vào nhiệm vụ của từng bộ phận trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. Tư bản bất biến chính là điều kiện không thể thiếu được trong sản xuất để sinh ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến lại là nguồn gốc để tạo ra giá trị thặng dư. Tư bản khả biến có vai trò quan trọng quyết định trong quá trình sản xuất đó vì nó chính là một bộ phận tư bản lớn lên.

Việc phân chia thành tư bản bất biến và tư bản khả biến có ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Cụ thể như sau: 

Sức lao động của công nhân chính là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư
  • Giúp chúng ta vạch rõ được bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Chỉ có sự lao động của công nhân làm thuê mới có thể tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
  • Vạch rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư là do chính lao động làm thuê của công nhân tạo ra và bị các nhà tư bản chiếm không. Giai cấp tư sản sử dụng các máy móc hiện đại tự động hóa cho quá trình sản xuất của một số sản phẩm. Trong điều kiện sản xuất như vậy thì tư bản bất biến có vai trò quyết định việc tăng năng suất lao động cũng không thể được coi là nguồn gốc của giá trị thặng dư. Suy cho cùng, bộ phận tư bản khả biến luôn tồn tại dưới hình thức sức lao động cả chân tay và trí óc mới là nguồn gốc sinh ra các giá trị thặng dư của tư bản chủ nghĩa.

Bên trên là những thông tin chúng tôi chia sẻ cho các bạn về phân biệt tư bản bất và tư bản khả biến. Hy vọng bài viết giúp các bạn làm bài tốt và đạt được điểm kiểm tra cao.

Tư bản bất biến, tư bản khả biến

Muốn tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng tư bản [bỏ vốn] ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động, tức là biến tư bản tiền tệ thành các yếu tố của quá trình sản xuất, thành các hình thức tồn tại khác nhau của tư bản sản xuất. Các bộ phận khác nhau đó của tư bản có vai trò khác nhau trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư.

-     Trước hết, xét bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất.

Tư liệu sản xuất có nhiều loại:

+ Có loại được sử dụng toàn bộ trong quá trình sản xuất, nhưng chỉ hao mòn dần, do đó chuyển dần từng phần giá trị của nó vào sản phẩm như máy móc, thiết bị, nhà xưởng...

+ Có loại khi đưa vào sản xuất thì chuyển toàn bộ giá trị của nó trong một chu kỳ sản xuất như nguyên liệu, nhiên liệu. Song, giá trị của bất kỳ tư liệu sản xuất nào cũng đều nhờ có lao động cụ thể của công nhân mà được bảo toàn và di chuyển vào sản phẩm, nên giá trị đó không thể lớn hơn giá trị tư liệu sản xuất đã bị tiêu dùng để sản xuất ra sản phẩm. Cái bị tiêu dùng của tư liệu sản xuất là giá trị sử dụng, kết quả của việc tiêu dùng đó là tạo ra một giá trị sử dụng mới. Giá trị tư liệu sản xuất dược bảo toàn dưới dạng giá trị sử dụng mới chứ không phải là được sản xuất ra.

Khái niệm: bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo toàn và chuyển vào sản phẩm, không thay đổi về lượng giá trị của nó, được C. Mác gọi là tư bản bất biến, và ký hiệu là c.

-    Xét bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động:

+ Một mặt, giá trị của nó biến thành các tư liệu sinh hoạt của người công nhân và mất đi trong tiêu dùng của công nhân.

+ Mặt khác, trong quá trình lao động, bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.

Như vậy, bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã không ngừng chuyển hoá từ đại lượng bất biến thành một đại lượng khả biến, tức là đã tăng lên về lượng trong quá trình sản xuất.

Khái niệm: bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến đổi về lượng, được C. Mác gọi là tư bản khả biến, và ký hiệu là v.

Ý nghĩa của việc phân chia cặp phạm trù trên.

Việc phân chia cặp phạm trù trên sẽ vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.

Loigiaihay.com

Học thuật

Tư bản bất biến [constant capital] là khái niệm của Mác dùng để chỉ tư liệu sản xuất, nguyên liệu - những thứ không làm tăng giá trị sản lượng vì giá trị được định nghĩa là lượng lao động xã hội cần thiết vật hóa trong sản lượng.

[Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân]

Tư bản bất biến mang những đặc điểm sau:

  • Là một bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất và không thay đổi lượng giá trị trong quá trình sản xuất.
  • Nhằm phân tích một cách khoa học bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa, Mác là người đầu tiên phân chia tư bản thành tư bản bấy biến và tư bản khả biến. Cơ sở của sự phân chia này là không phải toàn bộ tư bản mà chỉ có một bộ phận tư bản dùng để trả công cho sức lao động mới là nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư và làm tăng thêm tư bản.
  • Giá trị của tư bản bất biến được lao động cụ thể của công nhân chuyển hóa dần dần từng phần vào hàng hoá mới được sản xuất ra, theo mức độ hao mòn của tư liệu sản xuất trong quá trình lao động.
  • Tư bản không phải là nguồn gốc của giá trị thặng dư, mà là điều kiện để tạo ra giá trị thặng dư và để nhà tư bản thu giá trị thặng dư.
  • Từng bộ phận của tư bản bất biến chuyển giá trị của mình một cách khác nhau vào hàng hoá vừa mới làm ra. Theo tính chất chu chuyển, một bộ phận tư bản bất biến [nhà xưởng, thiết bị và máy móc] hình thành nên tư bản cố định được sử dụng trong nhiều chu kì sản xuất thì chuyển dần từng phần giá trị của mình. Bộ phận tư bản bất biến khác [nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ] hình thành nên một bộ phận của tư bản lưu động thì bị tiêu dùng hoàn toàn qua một thời kì sản xuất trong quá trình sản xuất hàng hoá và chuyển toàn bộ giá trị của mình vào sản phẩm vừa mới làm ra.

Những ai đang tìm hiểu về triết học chắc chắn không thể không tự đặt ra câu hỏi tư sản bất biến và tư bản khả biến khác nhau như thế nào? Khacnhaugiua.vn sẽ giúp các bạn đi tìm câu trả lời ngay trong bài viết dưới đây! Tham khảo ngay nhé!

1. Khái niệm 

Khái niệm về tư bản bất biến và tư bản khả biến chính là tiêu chí đầu tiên giúp bạn phân biệt được chúng.

Giá trị của tư liệu sản xuất được lao động cụ thể của người công nhân chuyển vào sản phẩm mới, lượng giá trị của chúng không đổi là tư bản bất biến.

Cụ thể, đối với Tư bản bất biến, để sản xuất ra giá trị thặng dư, nhà tư bản phải ứng trước tư bản [bỏ vốn] ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động.

Trong quá trình sản xuất , giá trị của tư liệu sản xuất được lao động cụ thể của người công nhân chuyển vào sản phẩm mới, lượng giá trị của chúng không đổi. Bộ phận tư bản ấy được gọi là Tư bản bất biến.

Trong khi đó, đối với bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động thì trong quá trình sản xuất, bằng lao động trừu tượng của mình, người công nhân tạo ra một giá trị mới không chỉ bù đắp đủ giá trị sức lao động của công nhân mà còn tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Như vậy, bộ phận tư bản này đã có sự biến đổi về lượng và được gọi là Tư bản khả biến

2. Ý nghĩa

Ý nghĩa của tư bản bất biến và tư bản khả biến là một trong những yếu tố dùng để phân biệt sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến. 

Cụ thể, theo chủ nghĩa Mác-Lênin, việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động thể hiện trong hàng hoá đã giúp Mác xác định sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến. 

Sự phân chia này dựa trên vai trò khác nhau của các bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Vì thế, nó vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.

Việc phân chia tư bản ứng trước thành tư bản bất biến và tư bản khả biến chính là dựa vào vai trò của từng bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. 

Tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để sản xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá trình đó, vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên.

Và cũng theo đó, việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến vạch rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư là do lao động làm thuê của công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Giai cấp tư sản sử dụng máy móc hiện đại tự động hóa quá trình sản xuất đối với một số sản phẩm. Trong điều kiện sản xuất như vậy, tư bản bất biến có vai trò quan trọng quyết định việc tăng năng suất lao động, nhưng cũng không thể coi đó là nguồn gốc của giá trị thặng dư. Suy đến cùng, bộ phận tư bản khả biến tồn tại dưới hình thức sức lao động [chân tay và trí óc] mới là nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa.

Việc phân chia tư bản ứng trước thành tư bản bất biến và tư bản khả biến chính là dựa vào vai trò của từng bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. 

Ở đây việc phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động là đặc điểm riêng của tư bản sản xuất và căn cứ của sự phân chia là phương thức chuyển dịch giá trị của chúng vào sản phẩm trong quá trình sản xuất, hay dựa vào phương thức chu chuyển của tư bản.

Người công nhân tạo ra một giá trị, xét về quy mô thì vượt quá những chi phí về tiền lương, nghĩa là tạo ra giá trị thặng dư trong xí nghiệp tư bản chủ nghĩa. Do đó, giá trị của tư bản ứng trước không những được bảo tồn trong quá trình tạo ra giá trị mới, mà còn tăng thêm một đại lượng bằng đại lượng của giá trị thặng dư. 

Mác là người đầu tiên tìm ra việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến. Giá trị thặng dư chỉ là số tăng thêm của tư bản khả biến điều đó đã chỉ rõ nguồn gốc thực sự của việc tạo ra giá trị thặng dư. Tư bản khả biến còn là một tham số để tính tỷ suất giá trị thặng dư [m’]

Trên đây là những điểm khác nhau cơ bản giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến được Khacnhaugiua.vn tổng hợp lại được. Hy vọng bài viết này sẽ mang đến cho các bạn độc giả những kiến thức triết học thật bổ ích. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào, vui lòng gửi câu hỏi về cho Khacnhaugiua.vn.

Video liên quan

Chủ Đề