Vì sao châu á có tỉ lệ gia tăng dân số bằng mức trung bình Nam của thế giới

Qua số liệu bảng 15.1, so sánh số dân, mật độ dân số trung bình, tỉ lệ tăng dân số hằng năm của khu vực Đông Nam Á so với châu Á và thế giới.

Đề bài

Qua số liệu bảng 15.1, so sánh số dân, mật độ dân số trung bình, tỉ lệ tăng dân số hằng năm của khu vực Đông Nam Á so với châu Á và thế giới.

Phương pháp giải - Xem chi tiết

So sánh.

Lời giải chi tiết

- Số dân: Đông Nam Á là khu vực đông dân, chiếm 14,2% dân số châu Á và 8,6% dân số thế giới.

- Mật độ dân số cao [119 người/km2], gấp 1,4 lần châu Á [85 người/km2] và 2,6 lần mật độ dân số thế giới [46 người/km2].

- Tỉ lệ gia tăng tự nhiên cao [1,5%] và lớn hơn mức trung bình của châu Á và thế giới [1,3%].

Loigiaihay.com

  • Dựa vào hình 15.1 và bảng 15.2, hãy cho biết: Đông Nam Á có bao nhiêu nước? Kể tên các nước và thủ đô từng nước. So sánh diện tích, dân số của nước ta với các nước trong khu vực.

    Dựa vào hình 15.1 và bảng 15.2, hãy cho biết: Đông Nam Á có bao nhiêu nước? Kể tên các nước và thủ đô từng nước. So sánh diện tích, dân số của nước ta với các nước trong khu vực. Có những ngôn ngữ nào được dùng phổ biến trong các quốc gia Đông Nam Á. Điều này có ảnh hưởng gì tới việc giao lưu giữa các nước trong khu vực?

  • Quan sát hình 6.1, nhận xét sự phân bố dân cư các nước Đông Nam Á

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 3 trang 51 SGK Địa lí 8

  • Vì sao lại có những nét tương đồng trong sinh hoạt, sản xuất của người dân các nước Đông Nam Á?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 53 SGK Địa lí 8

  • Bài 1 trang 53 SGK Địa lí 8

    Dựa vào lược đồ hình 6.1 [SGK trang 20] và kiến thức đã học, nhận xét và giải thích sự phân bố dân cư của khu vực Đông Nam Á.

  • Bài 2 trang 53 SGK Địa lí 8

    Đọc các thông tin trong bảng 15.2 [SGK trang 52], hãy thống kê các nước Đông Nam Á theo diện tích từ nhỏ đến lớn...

Châu Á trước cơn “địa chấn dân số”

21:54 02/11/2021

Già hóa dân số , tỷ lệ sinh giảm kỷ lục đã trở thành một vấn đề tại những nền kinh tế lớn của châu Á. Các nước Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản đều đang đối diện với bài toán khó này. Đây đều là các nước có tỷ lệ già hóa dân số cao nhất tại châu Á.

  • Tỷ lệ dân số già đe dọa sự cường thịnh của châu Âu

"Địa chấn dân số" là một thuật ngữ được đặt ra bởi tác giả và nhà nhân khẩu học người Anh Paul Wallace. Ông đã sử dụng thuật ngữ này để chỉ sức tàn phá của quá trình già hóa dân số đối với một quốc gia với những hậu quả còn lớn hơn nhiều so với thảm họa tự nhiên như một trận động đất.

Dân số Trung Quốc sẽ giảm đến 50% trong vòng 45 năm tới

Tờ Bưu điện Hoa Nam buổi sáng ngày 1-10 dẫn một nghiên cứu mới công bố dự báo dân số Trung Quốc sẽ giảm nhanh trong 45 năm tới. Dự báo dựa trên tỷ lệ sinh 1,3 con/phụ nữ vào năm ngoái, dưới mức 2 con/phụ nữ cần thiết để duy trì ổn định dân số hiện tại hơn 1,4 tỉ người. Nếu tỷ lệ sinh giảm xuống 1, dân số sẽ giảm 50% trong 29 năm. Theo các nhà nghiên cứu, những thông tin này đã cho thấy những thay đổi và xu hướng phát triển dân số trong tương lai ở Trung Quốc.

Kinh tế Trung Quốc đang dần đánh mất lợi thế “dân số vàng”.

Theo kết quả điều tra dân số, năm 2020, số người từ 60 tuổi trở lên của Trung Quốc lên tới 264 triệu người, chiếm 18,7% dân số, trong đó số người từ 65 tuổi trở lên đạt 190 triệu người, chiếm 13,5% dân số. Đáng nói là ở thời điểm có tỉ lệ người già như Trung Quốc hiện nay, thu nhập bình quân đầu người của Mỹ, Nhật Bản, hay Hàn Quốc đều cao gấp 2,5 - 3 lần so với Trung Quốc. Mặt khác, dự kiến năm sau, Trung Quốc sẽ bước vào giai đoạn già hóa dân số nghiêm trọng, khi tỉ lệ người từ 65 tuổi trở lên chiếm trên 14% dân số. Như vậy, tỉ lệ người từ 65 tuổi trở lên tăng từ 7% lên 14% dân số chỉ trong 21 năm, mức nhanh nhất trên thế giới từ trước tới nay.

Từ nay đến năm 2050 được dự báo là thời kỳ cao điểm già hóa dân số ở Trung Quốc. Và đây cũng là thời kỳ then chốt của quá trình hiện đại hóa đất nước. Do đó, vấn đề già hóa dân số được xác định là một trong những thách thức lớn nhất của Trung Quốc trong quá trình thực hiện mục tiêu 100 năm lần thứ hai, trở thành cường quốc hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ.

Khoảng 15% tăng trưởng kinh tế trong 20 năm qua, được cho là nhờ sự đóng góp của lý do “dân số vàng” này. Có thể nói Trung Quốc đã rất thành công trong khoảng thời gian qua nhờ tận dụng rất tốt lợi thế về quy mô và cơ cấu “dân số vàng”. Chính vì vậy, những lo ngại về mất cân đối cơ cấu dân số, sự già nhanh của xã hội, đang đặt áp lực lớn cho nước này. Bắc Kinh đang chịu áp lực cần thực hiện những biện pháp gồm từ bỏ các chính sách kế hoạch hóa gia đình, thay đổi mô hình kinh tế vốn dựa vào dân số khổng lồ và lực lượng lao động dồi dào, đồng thời lấp đầy những khoảng trống trong y tế và lương hưu.

Đại dịch COVID-19 có thể ảnh hưởng đến việc sinh con, nhưng các chuyên gia cho rằng nhìn chung khó có khả năng tỷ lệ sinh tăng trở lại tại Trung Quốc, nhất là do số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm. Sau hơn 35 năm thực hiện chế độ sinh 1 con, năm 2016 Trung Quốc cho phép sinh 2 con. Nhưng liên tiếp 4 năm, nước này ghi nhận trẻ em ra đời giảm mạnh theo từng năm.

Nhiều nghiên cứu cho thấy các yếu tố kinh tế là lực cản chính với tỷ lệ sinh. Người dân không dám sinh con vì áp lực kinh tế gia tăng. Các dịch vụ nuôi con và chăm sóc con cũng thiếu nghiêm trọng. Nghiên cứu cho thấy ở Trung Quốc, cứ mỗi mét vuông đất tăng 1.000 nhân dân tệ thì tỷ lệ người dân sinh 1 con giảm 2%, sinh 2 con giảm 5%.

Lãnh đạo Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia cho biết Trung Quốc sẽ ban hành một loạt các giải pháp hỗ trợ kinh tế - xã hội mạnh mẽ hơn để khuyến khích sinh 3 con. Các chính sách đưa ra sẽ nhắm đến giảm chi tiêu trong thai sản, khám chữa bệnh, học hành. Ngoài ra, một dự án phát triển các trung tâm cộng đồng tại 150 thành phố để tạo ra 500.000 chỗ giữ trẻ cũng nằm trong kế hoạch 5 năm tới.

Hàn Quốc lần đầu tiên suy giảm dân số tự nhiên

Hồi tháng 2, Cơ quan Thống kê Hàn Quốc công bố dữ liệu cho thấy nước này lần đầu tiên ghi nhận suy giảm dân số tự nhiên trong năm 2020 trong bối cảnh phải đối mặt với tình trạng già hóa dân số đang diễn ra nhanh chóng và tỷ lệ sinh thấp kéo dài. Theo số liệu sơ bộ, Hàn Quốc ghi nhận số trẻ chào đời trong năm 2020 ở mức thấp kỷ lục là 272.400 trẻ, giảm 10% so với năm 2019, trong khi số người tử vong lại ở mức cao kỷ lục là 305.100 người, tăng 3,4% so với năm 2019.

Do vậy, dân số nước này giảm 33.000 người trong năm 2020, đánh dấu năm đầu tiên Hàn Quốc ghi nhận suy giảm dân số tự nhiên kể từ năm 1970 khi Cơ quan Thống kê nước này bắt đầu thu thập dữ liệu. Suy giảm dân số tự nhiên là tình trạng số người chết nhiều hơn số trẻ được sinh ra trong cùng một thời điểm

Ngoài ra, tổng tỷ suất sinh [TFR], tức là số con trung bình mà một phụ nữ sinh ra trong đời, tại Hàn Quốc trong năm 2020 ở mức thấp kỷ lục mới là 0,84 con/phụ nữ, giảm so với 0,92 con/phụ nữ trong năm 2019. Đây là năm thứ 3 liên tiếp, tổng tỷ suất sinh ở Hàn Quốc giảm dưới 1%.

Hàn Quốc cũng là nước duy nhất trong số 37 nước thành viên của Tổ chức Hợp tác Phát triển kinh tế [OECD] có tổng tỷ suất sinh dưới 1%. Kể từ năm 2018, tổng tỷ suất sinh trung bình ở các nước thành viên OECD là 1,63 con/phụ nữ. Tổng tỷ suất sinh thấp báo động nhiều vấn đề về nhân khẩu học, trong đó có sự sụt giảm lực lượng lao động do tỉ lệ sinh thấp.

Theo dự báo, Hàn Quốc sẽ vượt qua ngưỡng của một "xã hội siêu già hóa" vào năm 2025. Khi đó, số người già từ 65 tuổi trở lên sẽ chiếm 20% dân số. Trong một tuyên bố đăng tải trên Twitter ngày 23/6, Phó thủ tướng Hàn Quốc Hong Nam-ki nhấn mạnh: “Nếu không có phản ứng triệt để, Hàn Quốc dự kiến sẽ trải qua một cơn địa chấn dân số từ năm 2030 – 2040”.

Hàn Quốc lần đầu suy giảm dân số tự nhiên.

Các nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế [IMF] cho thấy dân số già sẽ kéo tụt năng lực sản xuất của một nền kinh tế, dẫn tới Tổng sản phẩm quốc nội [GDP] sụt giảm. Đối với Hàn Quốc, tỷ lệ sinh thấp và dân số già hóa đặt ra mối lo ngại về thiếu hụt nguồn nhân lực, làm tăng chi phí trợ cấp xã hội, đồng thời giảm triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế lớn thứ 4 châu Á.

Theo Nikkei Asian Review, trong thập kỷ qua, dù đã dành 130.000 tỷ won [tương đương 116 tỷ USD] để ngăn chặn sự suy giảm tỷ lệ sinh nhưng Chính phủ Hàn Quốc vẫn chưa thu được kết quả đáng kể. Hàn Quốc đang vật lộn với tỉ lệ sinh giảm do ngày càng có nhiều người trẻ kết hôn muộn, lựa chọn độc thân hoặc không muốn có con do kinh tế trì trệ kéo dài.

Để khắc phục tình trạng trên, các chuyên gia cho rằng, Hàn Quốc nên đưa ra những chính sách dài hạn và toàn diện để giải quyết các vấn đề xã hội đang cản trở phụ nữ mang thai, sinh đẻ và chăm sóc con cái. Để thực hiện Kế hoạch cơ bản lần thứ 4 về mức sinh thấp và già hóa giai đoạn 2021 - 2025, chính phủ Hàn Quốc đã quyết định đầu tư tổng cộng 196.000 tỷ won [172,3 tỷ USD] từ nay cho đến năm 2025. Phó Thủ tướng Hong Nam-ki cũng cho biết chính phủ sẽ tiếp tục thảo luận về vấn đề này.

Dân số Nhật Bản giảm năm thứ 8 liên tiếp

Dữ liệu công bố hôm 4-8 của Bộ Nội vụ và Truyền thông Nhật Bản cho thấy dân số nước này tiếp tục chứng kiến mức giảm với biên độ lớn nhất kể từ năm 2014. Kết quả điều tra dựa trên số lượng đăng ký thường trú cơ bản từ ngày 1-1 đến 31-12-2020 cho thấy, tổng dân số Nhật Bản đã giảm xuống còn hơn 126,65 triệu người – tức giảm gần 484.000 người, tương đương 0,38% so với năm 2019, đây là mức giảm lớn nhất và là năm giảm thứ 8 liên tiếp kể từ năm 2014.

Trong khi đó, theo dữ liệu được Bộ Nội vụ Nhật Bản công bố ngày 20-9, số người trên 65 tuổi tại nước này đã tăng thêm 220.000 người so với cùng kỳ, lên tới 36,4 triệu người. Nhật Bản hiện là nước đứng đầu thế giới về tỉ lệ người cao tuổi trong tổng dân số với 29,1%.

“Tăng trưởng kinh tế” và “phúc lợi xã hội” đang trở thành 2 vấn đề lớn từ hiện tượng già hóa. Tăng trưởng kinh tế bị chi phối bởi lực lượng lao động, song nguồn dân số này lại đang giảm thiểu nhanh chóng do sự gia tăng của già hóa và giảm tỉ lệ sinh. Ngoài ra, lực lượng lao động giảm cũng khiến thị trường nội địa bị thu hẹp, sức hấp dẫn đầu tư giảm. Tiềm năng tăng trưởng trong nhiều lĩnh vực, tiêu biểu là kinh tế cũng giảm sút theo.

Nhật Bản gồng mình để đảm bảo cuộc sống cho người già.

Còn về phúc lợi xã hội, theo một báo cáo của Chính phủ Nhật Bản công bố vào tháng 6-2019 đã thừa nhận hệ thống lương hưu công cộng của nước này sẽ quá tải và không thể đảm bảo mức sống ổn định cho người dân nếu số người già tiếp tục gia tăng. Chi phí an sinh xã hội, trong đó phần lớn dành cho người cao tuổi, chiếm tới 1/3 ngân sách đã chi của Chính phủ Nhật Bản trong năm tài khóa 2018.

Để thực hiện chính sách an sinh xã hội và đảm bảo nguồn lao động trong bối cảnh dân số giảm, Chính phủ Nhật Bản đang nỗ lực đảm bảo cơ hội việc làm cho những người cao tuổi có nguyện vọng. Chính phủ Nhật Bản đã thông qua dự luật kêu gọi các doanh nghiệp cho phép người lao động làm việc đến 70 tuổi. Dự luật này có hiệu lực từ tháng 4-2021.

Trên thực tế, số người cao tuổi có việc làm tại Nhật Bản tiếp tục kéo dài mạch tăng liên tục từ năm 2004. Tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên có việc làm đạt 25,1%, cao thứ 2 trong số các nền kinh tế lớn, theo số liệu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế. Các công ty Nhật Bản ngày càng phụ thuộc vào những người đến tuổi nghỉ hưu để lấp đầy vị trí tuyển dụng. Một nhà bán lẻ thậm chí còn loại bỏ giới hạn độ tuổi của nhân viên.

Ngoài ra, thu hút lao động nước ngoài cũng là một biện pháp giúp Nhật Bản giải quyết tình trạng khan hiếm lao động ở một số ngành nghề cần nhiều sức khỏe mà người cao tuổi không đáp ứng được. Nhiều quốc gia đang khuyến khích lực lượng lao động nhập cư để giải quyết vấn đề về dân số, nhưng đó vẫn chỉ là giải pháp tình thế nếu tỷ lệ sinh tiếp tục không có dấu hiệu cải thiện.

Bên cạnh việc ứng phó với thách thức thiếu hụt lao động, trước sức ép từ dân số già, Chính phủ Nhật Bản đang thúc đẩy tăng tỷ lệ sinh đẻ tại nước này thông qua chương trình trợ cấp để khuyến khích giới trẻ ở Nhật Bản kết hôn và sinh con. Theo khảo sát do Viện Nghiên cứu dân số và An sinh xã hội quốc gia Nhật Bản thực hiện, 17,8% phụ nữ và 29,1% nam giới Nhật Bản độc thân từ 25 đến 34 tuổi cho biết lý do họ chưa kết hôn là vì tài chính. Trong khi đó, tài chính cũng là trở ngại lớn nhất khiến các cặp vợ chồng ngại sinh con dù Chính phủ Nhật Bản đã miễn học phí đối với giáo dục mầm non từ năm 2019.

  • Hơn 19.000 tỷ đồng cho mục tiêu y tế - dân số giai đoạn 2016 – 2020
  • Tỷ lệ dân số già đe dọa sự cường thịnh của châu Âu
# địa chấn dân số già hóa dân số tỷ lệ sinh giảm
Facebook Twitter Link gốc

Mục lục

Từ nguyênSửa đổi

Chữ Hán 州亞, chữ Hi Lạp cổ đại gốc: Ασία, chữ La-tinh: Asia.

Châu Á là một châu lục có nhân khẩu nhiều nhất cả thế giới, đồng thời cũng là châu lục có mật độ nhân khẩu lớn nhất. Tên chữ của nó cũng xưa cũ nhất. "Asia" mang ý nghĩa là "khu vực Mặt Trời mọc", tương truyền là do người Phoenicia cổ đại đưa ra. Hoạt động trên biển thường xuyên, yêu cầu người Phoenicia cần phải xác định nơi chốn và hướng đi. Vì vậy họ đem khu vực biển Aegea về phía đông gọi chung là "Asu", nghĩa là "chỗ Mặt Trời mọc"; nhưng mà đem khu vực biển Aegea về phía tây thì gọi chung là "Ereb", nghĩa là "chỗ Mặt Trời lặn". Asia từng chữ một là do chữ Asu tiếng Phơ-ni-xi diễn hoá tới nay. Vùng đất mà nó chỉ về là không rõ ràng lắm, phạm vi là có hạn định. Đến thế kỉ thứ nhất trước Công nguyên đã biến thành là một tên gọi tỉnh hành chính của đế quốc La Mã, về sau thì mới dần dần khuếch đại, bao gồm cả khu vực châu Á bây giờ, biến thành là một cái tên để gọi tên châu lục lớn nhất thế giới.

Phiên âm bằng tiếng Trung cho Asia là Yàxìyà [亞細亞 - Á-tế-á] được đặt tên cho châu lục này trước nhất là vào năm 1582. Sau khi giáo sĩ truyền giáo Hội Giê-su Matteo Ricci đến Trung Quốc, dưới sự giúp đỡ của Vương Bạn - tri phủ Long Khánh [nay là huyện Kiếm Các, huyện Tử Đồng, huyện Giang Du - phía bắc tỉnh Tứ Xuyên], cùng nhau làm ra "Khôn dư vạn quốc toàn đồ" với các phiên dịch viên.[7] Bởi vì người nước ngoài lúc đó đến Trung Quốc phần nhiều ở khu vực miền nam, các phiên dịch này đều có mang theo mình sắc thái tiếng Hán miền nam dày đặc. Chữ nước ngoài mở đầu phiên dịch là "á" đọc là "a", cuối đuôi phiên dịch là "á", chữ nước ngoài phần nhiều đọc là "ya", lúc phiên dịch thành Trung văn, phiên dịch viên tức khắc sẽ căn cứ vào phát âm chữ Hán trong ngôn ngữ nơi đó để chọn lựa chữ Hán tương ứng.[8]

Lịch sửSửa đổi

Lịch sử và văn hoá châu Á đều xa xưa. Ấn Độ, Iraq [nước Babylon cũ] và Trung Quốc là một trong bốn nước xưa có nền văn minh lớn của thế giới đều ở vào đất liền châu Á. Trình độ kinh tế và văn hoá của châu Á đã từng chiếm giữ vị trí dẫn đầu vào khoảng thời gian dài trên thế giới, tứ đại phát minh của Trung Quốc hoặc người Ấn Độ phát hiện số 0, người Ấn Độ phát minh chữ số Arabi, v.v rất nhiều sáng tạo và phát minh về phương diện khoa học, đều đã làm ra cống hiến cực kì to lớn cho thế giới.[9]

Thời đại viễn cổSửa đổi

Vào thời đại viễn cổ, rất nhiều dân tộc của châu Âu và Bắc Phi đều bắt nguồn ở khu vực thảo nguyên của Trung Á. Vào thời đại Đại thiên cư dân tộc, một bộ phận ở về phía tây tiến vào châu Âu, một bộ phận ở về phía đông dời vào Ấn Độ, hình thành các dân tộc ngữ hệ Ấn - Âu với phạm vi rộng lớn; một bộ phận khác ở về phía nam dời đến Bắc Phi và Tây Á, tiến vào Ai Cập, hợp thành các dân tộc ngữ hệ Phi - Á [tức ngữ hệ Semito - Hamitic] với người ở ngay địa phương đó.

Thời đại thượng cổSửa đổi

Vào thời đại thượng cổ, Trung Quốc ở phương đông và đế quốc Ba Tư ở phương tây đều phát triển biến thành là đế quốc lớn mạnh, Ba Tư một mạch tranh hùng với Hi Lạp ở châu Âu, cuối cùng đều bị Alexander Đại đế của đế quốc Macedonia đánh bại, quân đội của Alexander tiến thẳng xâm nhập á lục địa Ấn Độ, cuối cùng một phần quân đội còn lưu trú lại đã kiến lập nhà nước Armenia. Trung Quốc cũng đang đi đường lối hướng về bành trướng thống nhất, các dân tộc chung quanh mở đầu hiểu ra nhà nước Tần.

Lúc đế quốc La Mã ở phương tây trỗi lên, triều nhà Hán của Trung Quốc ở phương đông cũng là một nhà nước lớn mạnh, lãnh thổ của đế quốc La Mã bành trướng đến chỗ thung lũng sông Babylon cũ [bây giờ gọi là sông Ơ-phơ-rát] ở Trung Đông, phương đông và phương tây mở đầu có giao lưu kinh tế và văn hoá, đường tơ lụa ban đầu từ đô thành Trường An, Trung Quốc đi qua Tây Vực [chính là Tân Cương và một phần khu vực Trung Á hiện nay] và Trung Đông, xa đến Rôma, Ý. Sau khi người Hung Nô ở phía bắc triều nhà Hán bị triều nhà Hán đánh bại, dần dần thiên cư hướng về phương tây, một ít bộ tộc mà trong mắt đế quốc Tây La Mã bị coi là "người chưa khai hoá", sau khi dời vào châu Âu, lập tức tăng tốc diệt vong đế quốc Tây La Mã.

Thời đại trung cổSửa đổi

Vào thời đại trung cổ, ở vùng đất phía tây nam châu Á nổi lên đế quốc Arabi lớn mạnh - bao quát Nam Âu, Tây Á, Trung Á và Bắc Phi. Cương vực của Trung Quốc vào lúc triều nhà Đường lớn mạnh ở phương đông cũng bành trướng đến Trung Á, Triều Tiên và Nhật Bản đã dần dần làm thành dân tộc thống nhất.

Sự trỗi dậy của dân tộc Mông Cổ hình thành ảnh hưởng không ít ở thế giới, đã chinh phục vùng đất Âu - Á rộng lớn. nhưng mà vì củng cố chính quyền của bản thân nên đã tàn sát rất nhiều người dân dị tộc, rất nhiều văn minh ưu tú bị phá bỏ trong vòng một ngày.

Từ năm 1453, sau khi đế quốc Byzantine bị diệt vong, đế quốc Ottoman của nhà nước Hồi giáo đã xưng hùng chiếm giữ khu vực Trung Đông, bán đảo Tiểu Á và Bắc Phi hơn 400 năm. Ở múc độ nào đó, đế quốc Ottoman đã gây trở ngại giao lưu đông - tây về phương diện văn hoá và kinh tế. Khu vực Đông Á từ thế kỉ XVI tới nay, sự phát triển văn hoá và khoa học dần dần lạc hậu, thường hay thấy tình huống các nước cấm chỉ người dân trong nước giao lưu với người nước ngoài. Thí dụ chính sách toả quốc được thực thi vào thời đại Edo ở Nhật Bản, hoặc chính sách toả quốc của vương triều Triều Tiên, hoặc chính sách cấm biển vào thời kì nhà Minh và nhà Thanh, v.v

Từ sau cận đạiSửa đổi

Từ sau thế kỉ XVIII, cùng với sự nổi lên của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa thực dân ở châu Âu, người theo chủ nghĩa thực dân thông qua tuyến đường hàng hải, tiến hành khai thác tài nguyên ở đất liền châu Á, và sự suy nhược trong thời gian dài của vùng đất châu Á, trở thành miếng mồi mà các cường quốc châu Âu tranh giành, rất nhiều lãnh thổ bị chiếm đóng làm thành thuộc địa hoặc bán thuộc địa. Vùng đất hoang vu Siberia ở phía bắc châu Á, tan vỡ theo sau nỗ lực của đế quốc Mông Cổ, nước Nga Sa hoàng do dân tộc Nga ở châu Âu kiến lập dần dần men theo đường bộ mà khai quật mở mang, rồi xưng hùng chiếm giữ một vùng rộng lớn ở phía bắc châu Á.

Cuối thế kỉ XIX, Nhật Bản theo sau sự thành công cải cách Duy tân Minh Trị, khiến cho thế nước hưng thịnh nhanh chóng, trở thành nước châu Á duy nhất có đầy đủ địa vị trên vũ đài cộng đồng quốc tế bằng tư cách "cường quốc". Từ lúc thắng lợi nhiều lần phát động chiến tranh chống lại các nước chung quanh như triều nhà Thanh, nước Nga Sa hoàng cùng với sau khi trải qua Đại chiến thế giới lần thứ nhất, Nhật Bản thác quản thuộc địa của nước chiến bại Đức Quốc ở châu Á bằng tư cách nước chiến thắng, khiến cho phạm vi thế lực của Nhật Bản trải khắp cả Tây Thái Bình Dương. Lại thúc đẩy tham vọng chinh phục Trung Quốc và cả châu Á của nó ngày một lớn dần, Nhật Bản dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa quân quốc vào niên đại 30 - 40 thế kỉ XX, phát động chiến tranh Trung – Nhật lần thứ hai và chiến tranh Thái Bình Dương, Đại chiến thế giới lần thứ hai cũng mở đầu từ quân Đức đánh chớp nhoáng Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, sau đó mở rộng chiến tranh sang khu vực châu Á. Nhật Bản cuối cùng đầu hàng sau khi bị Hoa Kỳ ném xuống hai trái bom nguyên tử hướng về Hiroshima và Nagasaki. Sau khi Đại chiến thế giới lần thứ hai đi qua, chủ nghĩa dân tộc ở châu Á ngóc đầu, các nước và dân tộc vừa mới bắt đầu sôi nổi tranh giành tìm lấy độc lập. Cùng lúc với đó, đối lập chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản ở phương tây lan rộng đến đại lục địa châu Á. Năm 1949 Đảng Cộng sản Trung Quốc đánh bại Đảng Quốc dân Trung Quốc trong Nội chiến Quốc - Cộng, đã nắm giữ chính quyền của Trung Hoa dân quốc ở vùng đất Trung Quốc đại lục, thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa; Chính phủ Trung Hoa dân quốc dời đến Đài Bắc. Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa do Đảng Cộng sản Trung Quốc kiến lập và Liên minh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô-viết do Đảng Cộng sản Liên Xô kiến lập cùng nhau thúc đẩy mở rộng chủ nghĩa cộng sản ở châu Á. Vùng đất Đông Á trước sau liên tục kiến lập nhiều chính quyền chủ nghĩa xã hội, như Triều Tiên, Việt Nam, Lào, v.v... Vào niên đại 50 đến 70 thế kỉ XX, chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Việt Nam là tuyến đầu của cuộc chiến tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản ở châu Á.

Các dân tộc ở Tây Á, Nam Á và Trung Đông cũng sôi nổi tranh giành độc lập từ sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, nổi tiếng nhất chính là cuộc vận động cách mạng độc lập Ấn Độ do Mahatma Gandhi khởi xướng, cuối cùng dẫn đến Cuộc chia cắt Ấn Độ - Pakistan, Ấn Độ lấy tín đồ Ấn Độ giáo là chính và Pakistan lấy tín đồ Hồi giáo là chính cùng độc lập vào năm 1948. Tuy nhiên, vấn đề kiến lập nhà nước của Israel và Palestine ở Trung Đông, mang theo xung đột nghiêm trọng dính líu đến phương diện tôn giáo và dân tộc. Mặc dù Israel được hứa hẹn dựng nước ở vùng đất người Do Thái vào năm 1947, nhưng vì thánh địa Jerusalem được chia cho Israel, khiến các nước Hồi giáo chung quanh bất mãn, người Do Thái và tín đồ Hồi giáo bất hoà, dẫn đến Israel và các nước Hồi giáo chung quanh mỗi ngày gia tăng xung đột, trong chiến tranh Trung Đông lần thứ ba Israel kháng cự với Syria, Jordan và Ai Cập, Israel chiếm lĩnh một vùng đất đáng kể của Palestine, và thiết lập thuộc địa ở vùng đó. Mặt khác, vùng đất Trung Đông từ trước tới nay bị coi là "kho thuốc súng thế giới", vùng đất này chiến tranh liên miên không ngớt, bao gồm chiến tranh Iran - Iraq mà Iraq và Iran chĩa súng lẫn nhau, và chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Iraq như chiến tranh vùng Vịnh vào ngày 17 tháng 1 năm 1991 và Chiến tranh Iraq vào ngày 20 tháng 3 năm 2003, và chiến tranh Afghanistan do lãnh đạo phần tử khủng bố số một Osama bin Laden nhắm vào tuyên bố của Hoa Kỳ cho nên năm 2002 phát động để lật đổ tập đoàn chính trị Taliban.

Liên Xô phát sinh chính biến vào cuối tháng 8 năm 1991, mặc dù Đảng Cộng sản Liên Xô giải quyết trong một tuần, nhưng mà vẫn khiến Liên Xô giải thể vào cuối năm 1991. Ở vùng đất Trung Á nhiều nước cộng hoà tách khỏi Liên Xô cũ thành nhà nước độc lập mới như Kazakhstan, Turkmenistan, Uzbekistan, v.v[9]

Mục lục

Tháp dân sốSửa đổi

Bài chi tiết: Tháp dân số

Dân số thế giới tăng nhanh trong thế kỷ XIX và thế kỷ XXSửa đổi

Các số liệu thống kê và điều tra dân số liên tục trong nhiều năm sẽ giúp chúng ta đã biết được quá trình gia tăng dân số của một địa phương, một nước hay trên toàn thế giới.

Gia tăng dân số tự nhiên phụ thuộc vào số trẻ sinh ra và số người chết đi trong một năm. Sự gia tăng dân số do số người chuyển đi và số người từ nơi khác chuyển đến gọi là gia tăng cơ học.

Trong nhiều thế kỷ, dân số thế giới tăng hết sức chậm, mốc dân số trong khoảng đầu Công nguyên là khoảng 300 triệu người. Mãi đến giữa thế kỷ 13, dân số cắm mốc 400 triệu người. Nửa tỷ người được cắm mốc ở đầu thế kỷ 16. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến dân số chậm tăng là do dịch bệnh, đói kém và chiến tranh. Đến thế kỷ 18, dân số bắt đầu ổn định lại và đến năm 1804, dân số thế giới là 1 tỷ người, 2 tỷ người vào năm 1927. Và đến 6 tỷ người vào năm 1999. Thế mà đến năm 2001 đã lên đến 6,16 tỷ người, đó là nhờ tiến bộ trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội và y tế.

Video liên quan

Chủ Đề