Ý nghĩa của hình tướng nhân vật yết kiêu

Trong cuộc chiến chống quân Nguyên, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có nhiều thuộc tướng hết mực trung thành và tài giỏi, góp công sức to lớn vào chiến thắng của Đại Việt, trong đó phải kể tới danh tướng Yết Kiêu.

[Tranh minh họa: Họa sĩ Sỹ Hòa, Báo Bình Phước Online]

Thuộc tướng trung thành của Hưng Đạo Vương

Năm 1285, quân Nguyên Mông huy động 50 vạn đại quân lần thứ 2 tiến đánh Đại Việt từ phía Bắc. Trước thế giặc mạnh, Hưng Đạo Vương chỉ huy các cánh quân vừa đánh vừa lùi để tiêu hao địch và bảo toàn lực lượng. Các cánh quân được chia ra và cùng rút về giữ Vạn Kiếp.

Lúc này Thoát Hoan thấy quân Đại Việt chỉ còn một ít thì thúc quân truy kích. Trước thế quân Nguyên rất mạnh, các hiệu quân Đại Việt bị mất liên lạc với nhau, mạnh ai nấy rút hết về Vạn Kiếp. Người rút đi sau cùng chính là Hưng Đạo Vương. Cánh quân của ông bị kẹt tại Nội Bàng. 

Dù tình thế cấp bách nhưng thuộc tướng Dã Tượng vẫn theo sát bên cạnh Hưng Đạo Vương. 

Bấy giờ Hưng Đạo Vương nghĩ rằng các quân của mình đã rút hết rồi, ra bến thuyền chắc chẳng còn chiếc thuyền nào, nên nói với Dã Tượng theo đường núi mà rút đi, nhưng Dã Tượng lại nói rằng: “Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương thì nhất định không dời thuyền” [Đại Việt Sử ký Toàn thư].

Hưng Đạo Vương ra Bãi Tân thì quả nhiên chỉ còn duy nhất chiếc thuyền của Yết Kiêu chờ sẵn, Hưng Đạo Vương mừng rỡ mà nói rằng: “Chim hồng hộc muốn bay cao phải nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không có sáu chiếc trụ cánh ấy thì cũng chim thường thôi” [Đại Việt Sử ký Toàn thư] [Hồng hộc là một loài chim rất giỏi bay, tục gọi là ngỗng trời, thường được dùng để chỉ người có chí lớn].

Là thuộc tướng trung thành của Hưng Đạo Vương, Yết Kiều có tài bơi lặn “nhập thủy như phúc bình địa hỹ” [tức bơi dưới nước như đi trên đất bằng]. Nhờ có tài bơi lội này mà ông lập nhiều chiến công, đặc biệt là lặn dưới nước rồi đục thuyền giặc, nhiều giai thoại của ông vẫn được lưu truyền đến nay.

Yết Kiêu bơi lặn giỏi là nhờ nuốt lông trâu?

Ngày nay nhiều người thích nhân vật Yết Kiêu đều biết đến chuyện Yết Kiêu nuốt lông trâu. Sách “Hải Dương phong vật chí” chép như sau: 

Yết Kiêu có sức khỏe, gặp lúc có hai con trâu húc nhau trên bãi biển, ông dùng cái đầm đất mà đánh, chúng chạy xuống biển.

Khi nhìn lại, thấy có mấy cái lông trâu dính vào cái đầm, ông cho là vật thiêng bèn nuốt chửng, từ đấy lội xuống nước cũng dễ dàng như đi trên đất bằng.

Lại có chuyện tương tự kể rằng:

Một hôm thấy có hai con trâu trắng húc nhau trên bãi cát, ông dùng đòn gánh phang, hai con trâu chạy xuống dưới nước rồi biến mất. Ông mới biết hai con trâu này là trâu thần, sờ lại đòn gánh thì còn dính lại vài cọng lông, ông bèn nuốt lấy, từ đó mà bơi lặn cực giỏi. Ông lội nước hàng mấy dặm như đi trên đất và thường lặn lội bắt cá, mò trai cả ngày dưới nước.

Tuy vậy, còn một câu chuyện dân gian khác về nguồn gốc tài bơi của Yết Kiêu do “Bà chúa Bơi” truyền thụ.

“Bà chúa Bơi” truyền thụ bí quyết

Tại làng Kiến Xá ở xứ Sơn Nam xưa [nay thuộc xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình] có một gia đình truyền thống làm nghề đánh cá từ nhiều đời, sau này sinh được một người con gái bơi lội rất giỏi.

Không ai biết tài bơi của bà có từ đâu, chỉ biết rằng người phụ nữ này có thể ở dưới nước cả ngày, lặn xuống sông hàng giờ, khiến nhiều người khâm phục. Không ít người có biệt tài bơi lội đã thử sức với người phụ nữ này nhưng đều lắc đầu chịu thua, ai cũng phải nể phục. Từ đó người ta gọi người phụ nữ này là “bà chúa Bơi”.

Thuở còn hàn vi, Yết Kiêu thường kiếm sống bằng nghề sông nước, nay đây mai đó ở bến sông, cửa bể.

Thấy cậu bé Yết Kiêu nhỏ tuổi mà chịu khó, lại dáng vẻ thông minh nhanh nhẹn, “bà chúa Bơi” liền nhận làm con nuôi và truyền thụ cho cậu bí quyết bơi lội. Nhờ đó mà tài bơi lội của Yết Kiêu ngày càng hoàn thiện và nổi tiếng lịch sử nhờ chiến tích đục thuyền quân Nguyên Mông.

Khi quân Nguyên tiến đánh Đại Việt, Yết Kiêu về làng Kiến Xá mời mẹ nuôi tham gia đánh quân Nguyên và bà đã nhận lời. Không may trong một trận ác chiến “bà chúa Bơi” bị tử trận, xác bà trôi theo dòng sông Nhị Hà [sông Hồng] rồi về đến làng Kiến Xá nơi quê nhà thì dạt vào bờ.

Dân làng đã vớt bà lên làm lễ chôn cất chu đáo, xây mộ và lập miếu thờ. Từ đó, hàng năm cứ đến ngày 24 tháng 8 âm lịch, người dân làng Kiến Xá lại mở hội, tổ chức tục bơi chải và kể những câu chuyện để tưởng nhớ đến “bà chúa Bơi”.

Sau khi chiến thắng quân Nguyên Mông, Triều đình ban thưởng cho các tướng sĩ có công, Yết Kiêu đã tâu về công lao của “bà chúa Bơi”. Nhà Vua liền cho sửa miếu thờ ở làng Kiến Xá trở thành đền thờ to lớn, đồng thời sắc phong cho “bà chúa Bơi” là “Tuệ Thông trang tĩnh Huyền thiên công chúa đại vương”.

Trần Hưng

Xem thêm:

Mời xem video:

Danh tướng Yết Kiêu và những điều ít người biết

Yết Kiêu với tài bơi lội “nhập thuỷ như phúc bình địa hỹ” đã lập nhiều công lao lớn, được vua ban danh hiệu Trần triều đệ nhất đô soái thuỷ quân.

Đền Quát, nơi thờ danh tướng Yết Kiêu. Ảnh: Thành Chung


Về huyện Gia Lộc, cách thị trấn khoảng 3 km về phía tây, đi qua những cánh đồng lúa đang trổ bông đón gió, ta sẽ đến Đền Quát, tại Hạ Bì [vốn là một làng chài ở tả ngạn sông Đáy], nơi thờ Yết Kiêu, một danh tướng tài đức song toàn, đặc biệt là tài thuỷ chiến trời Trần.

Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế, con ông Phạm Hữu Hiệu, người thôn Hạ Bì và bà Vũ Thị Duyên, người huyện Thanh Hà. Cha làm nghề chài lưới bên sông Quát, mẹ bán hàng nước ở bến đò.

Cuộc sống bần hàn của một gia đình ngư dân nghèo khó và sớm mồ côi cha đã khiến Phạm Hữu Thế rất vất vả, phải chài lưới, cào hến giúp mẹ kiếm ăn ngay từ nhỏ. Cuộc sống trên sông nước đã khiến ông bơi lội rất giỏi.

Tương truyền, năm 15 tuổi, vào một buổi sáng tinh mơ, Phạm Hữu Thế ra sông gánh nước. Sương trắng mù mịt nổi khắp mặt sông, Phạm Hữu Thế thấy hai con trâu trắng húc nhau liền dùng đòn ống đánh đuổi, can ngăn. Hai con trâu biến mất, Hữu Thế thấy còn hai chiếc lông còn dính vào đòn ống, đặt xuống nước, nước rẽ ra làm đôi.

Cho đây là lông trâu thần, ông liền nuốt vào bụng. Từ đấy, Phạm Hữu Thế có thân thể hùng cường, trí lực, bơi lội tài giỏi, đi trong nước như ở trên đất bằng vậy.

Sự lạ lùng ấy ứng với bức hoành phi trong đền Quát “Thiên cổ dị nhân” [từ trước tới nay mới có người lạ thường như vậy]. Thực ra, đây là một cách lý giải tài bơi lội của Phạm Hữu Thế để làm tăng thêm tính phi thường của viên tướng xứ Đông này, khẳng định tài bơi lội của ông như do thần linh mang lại.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần hai và lần ba, Phạm Hữu Thế với tài bơi lội “nhập thuỷ như phúc bình địa hỹ” [đi dưới nước ung dung, tự tại như trên đất bằng] đã lập nhiều công lao lớn, được vua ban danh hiệu Trần triều đệ nhất đô soái thuỷ quân. Ông đã được nhân dân và vua quan nhà Trần gọi là Yết Kiêu [tên một loài cá lớn ngày xưa].

Nhiệm vụ của Yết Kiêu là tìm cách đục thuyền của giặc trong đêm. Khi màn đêm buông xuống, Yết Kiêu tìm cách vượt qua hàng lính bảo vệ thuyền giặc rồi nhẹ nhàng đục thuyền giặc. Mỗi thuyền phải đục khoảng trên 20 lỗ, đục được lỗ nào lại phải dùng giẻ đã cuộn tròn và buộc dây đút lút lại. Những cuộn giẻ ấy đều được buộc lại với nhau bằng một sợi dây.

Một đêm, Yết Kiêu đục được khoảng 30 thuyền giặc. Đến gần sáng khi đã đục đủ số thuyền đã định, Yết Kiêu liền kéo dây khiến những nút giẻ trôi ra khỏi thuyền, khiến hàng chục thuyền giặc bị đắm. Hoàn thành nhiệm vụ, ông lại nhẹ nhàng bơi về địa điểm an toàn.

Có lần, Yết Kiêu bị vây bắt ở bãi sông. Ông núp mình dưới những bụi cây mọc lúp xúp và tránh sự lùng sục gay gắt của giặc. Chúng dùng kiếm đâm vào bụi cây, trúng đùi Yết Kiêu. Yết Kiêu cắn răng chịu đựng, khi kẻ thù rút kiếm ra, ông cố gắng chịu đau và dùng tay lau vết máu dính trên lưỡi kiếm để kẻ thù không phát hiện thấy mình...

Sau kháng chiến chống quân Nguyên Mông thắng lợi, Bảng nhãn Lê Đỗ được triều Trần cử sang Nguyên triều đi sứ, mong nối lại hoà khí với nước mạnh hơn mình mà mang lại hoà bình cho nhân dân đất Việt. Yết Kiêu vốn là võ tướng thuỷ quân được cử làm tướng hộ vệ Lê Đỗ.

Trong lần đi sứ ấy, vua Nguyên rất mến mộ tài năng của Yết Kiêu liền tỏ ý muốn gả công chúa Nguyên triều vốn rất xinh đẹp cho ông. Ông liền từ chối khéo và thưa rằng để trở về tâu xin vua Đại Việt, nếu vua Đại Việt đồng ý thì sẽ xin sang Nguyên triều làm lễ cưới.

Trở về đất nước, vua quan triều Trần lo lắng sẽ mất một viên tướng tài giỏi nên không đồng ý. Công chúa Nguyên triều đợi mãi không thấy Yết Kiêu sang thì xin vua cha cho sang đất Đại Việt để làm lễ thành hôn với Yết Kiêu. Biết tin này, vua quan nhà Trần muốn ngăn cản cuộc hôn nhân, đã báo tin Yết Kiêu qua đời khi công chúa Nguyên triều mới đi đến vùng biển Quảng Đông giáp biên giới Đại Việt.

Công chúa vô cùng thương xót Yết Kiêu, bèn thuê người tạc tượng mình thả xuôi sang nước ta, lập đàn cầu siêu cho linh hồn Yết Kiêu bên bờ biển tỉnh Quảng Đông và cầu nguyện: “Thiếp và chàng sống trên trần thế chưa nên duyên chồng vợ, nay chàng không còn nữa, thiếp nguyện thác xuống âm phủ để gặp chàng và nên nghĩa vợ chồng”, rồi gieo mình từ đàn cầu siêu xuống biển Quảng Đông để tỏ lòng chung thuỷ. Hai võ quan và chín nàng hầu cũng nhẩy xuống biển tự vẫn để theo hầu công chúa...

Yết Kiêu mất ngày 28 tháng chạp năm Ất Sửu [1303], hưởng thọ 61 tuổi. Khi ông mất, vua Trần cho lập đền thờ ở bờ sông Hạ Bì quê ông là đền Quát. Khu đền đã trải qua hơn 700 năm, đến thế kỷ XVII- XVIII được tôn tạo khang trang và tu sửa nhiều lần vào triều Nguyễn. Khu di tích đền Quát được xếp hạng quốc gia [28-1-1989].

Lễ hội đền Quát thường diễn ra vào rằm tháng giêng và rằm tháng tám. Vào dịp này, nhân dân địa phương và khách thập phương lại trở về vùng sông nước Hạ Bì, trước là lễ tạ thành hoàng Yết Kiêu, sau là dự hội làm bánh, hội đua thuyền ... Tại lễ hội có lễ tế công chúa Nguyên triều, và phải là những cô gái chưa chồng mới được tham gia lễ rước.

Theo NAM HÀ [Hải Dương Online]

Video liên quan

Chủ Đề